Bà huyện Thanh Quan lâu nay vẫn được nhắc đến là một đại thi hào
nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam.
Tuy nhiên, ít ai
biết rằng, trong vai trò là vợ của một tri huyện không ít lần bà đã gây ra
những chuyện "dở khóc dở cười" cho chồng, mà câu chuyện thay chồng
"phóng thơ xử án" cũng là "giọt nước tràn ly" khiến ông tri
huyện bị cách chức.
Bà huyện Thanh
Quan (Nguyễn Thị Hinh) sống ở đầu thế kỷ XIX, quê ở làng Nghi Tàm, huyện Vĩnh
Thuận (Từ Liêm, Hà Nội), là vợ ông Lưu Nguyên Uẩn, tri huyện Thanh Quan (Thái
Bình).
Sự là nhân lúc ông
huyện đi vắng, có một ả tên là Nguyễn Thị Đào đệ đơn lên quan huyện trình bày
rằng chồng thị đã ruồng bỏ thị để đi với người khác rồi, nay thị xin được kết
hôn với một người chồng mới. Bà huyện vốn sẵn lòng cảm thương cái thân phận đàn
bà bảy nổi ba chìm thời ấy, đã không tra xét kỹ càng, vội vàng phóng bút phê
đơn bằng mấy câu thơ:
"Phó cho con
Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo
lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng xuân bất
tái lai
Cho về kiếm chút
kẻo mai nữa già!".
Thị Đào quay về,
mừng như mở cờ trong bụng. Chỉ ít ngày sau thị lấy chồng mới. Ai ngờ người
chồng cũ, sau một thời gian bướm hoa trăng gió, lại muốn trở về với vợ. Được
tin vợ đã lấy chồng mà giá thú cũ thì hãy còn nguyên chưa hề đệ trình quan xét
và hủy bao giờ, hắn bèn đệ đơn lên cấp trên kiện ông huyện Thanh Quan!.
Quan
trên tra xét, xác nhận sự việc bên nguyên thưa kiện là hoàn toàn đúng. Bị quan
trên khiển trách, ông huyện đành "ớ cổ giề" không hề phản biện được
câu nào!.
Nghe nói vì vụ
việc này và cũng còn vì vài nguyên do khác nữa mà rốt cuộc ông huyện Thanh Quan
bị cách chức!. Xem ra, tâm hồn đầy nữ tính và bản chất nghệ sĩ phóng khoáng của
bà huyện đã đưa ông huyện và cả gia đình đến những hậu quả đầy tai hại!.
Qua câu chuyện
trên có thể nhận thấy, những quy định trong việc xử lý đối với quan lại của chế
độ phong kiến thời xưa là hết sức nghiêm khắc. Lục lại các bộ luật xưa có thể
thấy rõ tính nghiêm minh được thể hiện rõ nhất trong Quốc triều hình luật (hay
còn gọi là luật Hồng Đức hay Lê triều hình luật) thời Lê sơ thế kỉ XV. Đây được
đánh giá là một trong những bộ luật xưa nhất và tương đối hoàn chỉnh nhất về
công tác lập pháp thời phong kiến Việt Nam, trong đó có hẳn một chương quy định
rõ những hình phạt đối với các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức
vụ.
Giống như các bộ
luật phong kiến khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục
tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền lợi của giai cấp
phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự
pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo, tiếp thu nhiều thành tựu
lập pháp của Trung Hoa, chịu ảnh hưởng của cả luật pháp nhà Đường và nhà Minh.
Tuy vậy, có thể nói bộ luật thành văn này có những điểm không giống với các bộ
luật của Nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội dung lẫn bố cục và không thể
phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó. Trong đó chương III (chương Vi chế
- làm trái luật, quyển hai) bao gồm 144 điều (trong tổng số 722 điều, chiếm tỷ
lệ gần 1/5 của bộ luật) quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan
lại, các tội về chức vụ là một ví dụ điển hình.
Có thể kể một vài
quy định: Các quan tại chức không có lý do mà không vào chầu, hay là nhân xin
phép mà nghỉ kéo dài hạn thêm hàng tuần, hàng tháng phải phạt 10 quan; các hình
quan không có lý do mà không họp hội đồng để xử kiện thì cũng xử phạt như thế
(Điều 100). Viên quan sai đi công cán, xem xét việc gì khi về tâu trình không
đúng sự thực thì phải tội biếm (giáng chức quan, gồm năm bậc: 1 tư, 2 tư, 3 tư,
4 tư, 5 tư) hay đồ (đồ hình: Giam cầm, bắt làm việc khổ sai); nếu vì thân tình
hay thù oán mà cố ý làm sai sự thực thì sẽ chiếu theo sự tình nặng nhẹ mà tăng
thêm tội; nếu ăn tiền hối lộ thì xử tội thêm hai bậc (Điều 120). Các quan viên
làm việc ở sở mình mà ngồi đứng không đúng phép thì xử tội biếm hay phạt (Điều
129). Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm
hay bãi chức, từ 10 quan đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu (đày đi xa), từ 20
quan trở lên thì xử tội chém (Điều 138).
Thậm chí những
quan viết chiếu chỉ mà triều đình chưa kịp công bố đã đem truyền tin tức cho
người ngoài biết thì xử tội xuy đánh 50 roi, biếm 1 tư; nếu việc cơ mật thì
tăng thêm tội (Điều 219),...
Luật nay: Bà
huyện bị xử lý về tội giả mạo trong công tác
Có thể nói tuy bộ
luật Hồng Đức có những quy định không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay, nhưng
về tinh thần thượng tôn luật pháp, cách hành xử của người xưa vẫn còn nguyên
giá trị, đáng để hậu thế suy ngẫm.
Nhân câu chuyện
này của gia đình ông bà huyện, đối chiếu với văn bản pháp luật hiện hành (Bộ
luật Hình sự - phần các tội phạm về chức vụ và Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày
17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về việc xử lý cán bộ, công chức) cho thấy còn
nhiều điều suy ngẫm. Điều 277, Bộ luật Hình sự quy định: "Khái niệm tội
phạm về chức vụ: Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện
công vụ. Người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp
đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được
giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực
hiện công vụ".
Nếu chiếu theo
các quy định hiện hành, từ nội dung vụ việc trên rất khó xác định ông Lưu
Nguyên Uẩn, tri huyện Thanh Quan (Thái Bình) phạm tội gì và có phạm tội hay
không. Có ý kiến cho rằng, có thể ông tri huyện chỉ dừng ở mức khiển trách hoặc
cảnh cáo vì thiếu trách nhiệm trong quản lý, điều hành đơn vị, nhưng cũng khó
khẳng định vì bà huyện lại không phải là nhân viên dưới quyền quản lý của ông
tri huyện. Có chăng, về mặt tư tưởng, ông tri huyện bị nhắc nhở vì không quán
xuyến kịp thời tới người thân để xảy ra những sự việc đáng tiếc liên quan đến
chức vụ của mình.
Có quan điểm nhìn
nhận rằng, ông tri huyện Lưu Nguyên Ẩn có thể bị xử lý theo Điều 285, Bộ luật
Hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, với khung phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. Bởi hành
vi vi phạm của bà huyện đã rõ, hậu quả đã xảy ra, trong khi ông tri huyện không
thể thanh minh về sự vắng mặt của mình và hành động của vợ mình với quan trên. Tuy
nhiên, quan điểm này cũng gặp phải sự phản ứng khi đánh giá chính xác hậu quả
xẩy ra đã thực sự nghiêm trọng hay chưa. Việc này rất cần xem xét các yếu tố
khách quan, chủ quan và thời gian xảy ra tội phạm... cùng nhiều mặt khác, để
tính đến việc có thể truy cứu trách nhiệm hình sự với ông tri huyện hay không,
nếu không đủ thì cơ quan tố tụng có thể đề nghị cấp trên của ông tri huyện xử
lý hành chính về hành vi thiếu trách nhiệm của ông.
Còn đối với
trường hợp của bà huyện Thanh Quan, có thể bị xử lý theo Điều 284, Bộ luật Hình
sự về tội giả mạo trong công tác, với mức phạt tù từ một năm đến năm
năm.
Trần Quyết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét