Hải Phòng
Lâu rồi,trở lại Hải Phòng
Hồng Bàng,Cầu Đất nao lòng Quán Toan
Thủy Nguyên Bến Bính quá giang
Cầu cao nối nhịp sang ngang đôi bờ
Đồ Sơn cao hứng làm thơ
Casino-đĩ nhởn nhơ cả ngày
Sòng bạc-gái gọi thời nay
Làm mồi câu khách đêm ngày Đồ Sơn.
Hải phòng, 23-12-2012
Hải Phòng mùa này Rươi nhiều nhớ đặc sản này hơn hoa phượng
Hưng Yên
Cây nhãn tổ vẫn đâm chồi nẩy lộc
Phố Hiến xưa nhộn nhịp thương gia
Đồ gốm ,mây tre tơ lụa ngọc ngà
Sôi động bán mua thuận tình trao đổi
Về với phố xưa lần nào cũng vội
Trên bến dưới thuyền chợ nổi thật đông vui.
Phố Hiến,28-12-2012
Khâu Vai
Lũng Cú Hà Giang có cột cờ
Bản đồ nơi đó chỗ đỉnh nhô
Lợn đen cắp nách khi xuống chợ
Rượu uống tình say, quên cả thơ.
Khâu vai,24-12-2012
Tâm tư
Sáu tháng về hưu tăng tám ký
Bước chân ,đầu óc nhẹ nhàng hơn
Thoái mái tâm can ,chẳng có giận hờn
Ăn ngủ vui chơi tự mình điều chỉnh.
Bmt,05-05-2013
Bà tôi thời @
Bà tôi có cháu nội rồi
Nhưng còn phong độ như người thủ đô
Chiều chiều bà lái ô tô
Đi mua hàng hiệu, bà vô nhảy đầm
Tự đi làm đẹp âm thầm
Nâng mi bơm ngực ,cởi trần soi gương
Thấy đàn ông đẹp bà thương
Đưa về phòng ngủ ,diễn tuồng thâu đêm.
Thành phố HCM,19-05-2013
Gửi Nguyễn Khoa Điềm
Khi đọc bài thơ:Đất nước những tháng năm buồn của ông.
Thôi đừng buồn nữa ông ơi
Nếu còn khỏe mạnh lên tôi chơi cờ
Ngày tôi về hưu đến giờ
Bạn bè nhộn nhịp đánh cờ,uống bia
Chẳng còn biết giận là chi
Chờ cho đến tháng là đi lĩnh tiền
Có tiền chồng vợ lên tiên
Đi ăn phở sáng chẳng phiền cháu con.
NGỌT NGÀO HƯƠNG QUÊ
Áo tơi gắn bó với người dân quê tôi |
Tự hào với chiếc áo tơi
Gió không thổi dạt,ấm người trời đông
Đang đi mót tiểu giữa đường
W.C(vi xi) di động cứ tương ào ào
Đau lưng mỏi cổ chỗ nào
Có tơi làm nệm ,ngọt ngào hương quê.
Áo tơi đan xong
Tiễn đồng hương
Kính viếng Hồ Đức Việt
Giải hạn cầu may không qua nổi
Bị gian thần ,bè phái tẩy chay
Uất hận hờn căm đồng chí xưa nay
Sinh bệnh tật phải vào nằm viện
Số đã tận ,không còn đường tiến
Về cõi vĩnh hằng đảng ,dân đưa tiễn
Một khúc ca buồn đồng hương tiếc thương anh.
31-05-2013 túc (22-4 Quý tỵ)
NGÀY ĐÀN ÔNG
Cha nỏ cần chi nhạc
Cũng chẳng thích tặng quà
Muốn chút hơi đàn bà
Khác mùi hương của mẹ
Cho cha đi con nhé!
Chỉ riêng ngày đàn ông
Thuận Hữu-Phút xao lòng
Bạn thân cha ngày trước
Lâu rồi không gặp được
Giây ngoài vợ ngoài chồng
Nhờ có ngày đàn ông
Phiên chợ tình Lũng Cú
Mà tình xưa nghĩa cũ
Thỏa mãn giấc mơ người.
Ngày của cha,16-06-2013
ĐIỀU BUỒN
Cộng sản quá thật tài tình
Biến sai thành đúng ,tường trình chi li
Việc đúng thì Đảng vơ về
Cái sai lại cứ cười khề cho qua
Đảng là con cái dân ta
Những kẻ vô phúc đẻ ra loại này
Điều buồn của Đảng hiện nay
Độc quyền tham nhũng cả ngày lẫn đêm
Tháng 6-2013
Tâm kinh và
Thư pháp viết trên cơ thể người phụ nữ đẹp khỏa thân
Nhân thể dữ tâm kinh
Thư pháp Á Đông là nghệ
thuật viết chữ đẹp có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người ta dùng bút lông, chấm mực
tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách
khác nhau. Trong nghệ thuật thư pháp Á Đông có 5 phong cách viết là Chân (hay
còn gọi là Khải), Triện, Lệ, Hành và Thảo với những quy luật đặc trưng riêng về
đường nét, cách thức thể hiện.
Warning: "No under 18 years old" -
Thoát khỏi trình duyệt ngay nếu bạn dưới 18 tuổi
Có lẽ cao siêu hơn mấy bậc lại là Tâm kinh và Thư pháp trên cơ thể mà là phụ nữ đẹp lõa thể.
Chúng tôi xin giới thiệu
đôi nét về thư pháp chữ Hán và thư pháp Á Đông nói chung, trước khi tìm hiểu về
nghệ thuật Thư pháp “Nhân thể dữ tâm kinh”, là thư pháp được viết trên những
vùng nhạy cảm của phụ nữ, có lẽ khởi nguồn từ Trung Hoa.
Thư pháp Á Đông là nghệ
thuật viết chữ đẹp có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người ta dùng bút lông, chấm mực
tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách
khác nhau. Trong nghệ thuật thư pháp Á Đông có 5 phong cách viết là Chân (hay
còn gọi là Khải), Triện, Lệ, Hành và Thảo với những quy luật đặc trưng riêng về
đường nét, cách thức thể hiện.
Và rồi cảm thấy như chưa
đủ, ông lại khóa tất cả lại bằng một chữ “Phật” thật lớn ở sau lưng.
Người Trung Quốc cho rằng Lý
Tư, thừa tướng của triều đình nhà Tần, là người khởi đầu cho nghệ thuật thư
pháp vì ông là người được giao việc thực hiện cải cách và thống nhất văn tự sau
khi Tần Thủy Hoàng thôn tính các nước nhỏ khác đưa Trung Quốc trở thành một
quốc gia thống nhất. Trải qua các triều đại sau đó, sử sách đều có ghi nhận về
sự xuất hiện của những thư pháp gia nổi tiếng, như Vương Hy Chi đời Đông Tấn
hay Tề Bạch Thạch đời nhà Thanh.
Tiêu chuẩn để đánh giá một
tác phẩm thư pháp thường bao gồm nhiều yếu tố rất khắt khe như điểm hoạch là
đường nét, kết thể là bố cục, thần vận là cái hồn của tác phẩm... Cùng với sự
xâm lược và đồng hoá của văn hoá các triều đại Trung Quốc trong một khoảng thời
gian dài, môn nghệ thuật này cũng trở nên phổ biến tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt
Nam.
Bát nhã Ba la mật đa Tâm
kinh là một trong những bộ kinh căn bản và phổ thông nhất của Phật giáo Đại
thừa. Hầu như bất kỳ một buổi tụng kinh nào cũng được kết thúc bởi bài kinh
này. Nó phổ biến đến nỗi hầu như ai đã từng đi chùa tụng kinh thì đều biết và
thuộc, ít nhất là một đoạn.
Bài kinh chi vỏn vẹn có 260
chữ nhưng được xem là 1 trong những pháp môn tu quán chiếu để đi đến giác ngộ
của những người tu học Phật.
Bài kinh này là một trong
các bài kinh của bộ Bát nhã kết tập tại Ấn Độ từ năm 100 TCN. Ban đầu, bài kinh
được ghi bằng tiếng Phạn, khi truyền qua Trung Quốc thì được dịch sang tiếng
Hán. Bài thơ – hay đúng hơn là bài kinh – được viết trên cơ thể của cô gái
chính là bài Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh được viết bằng Hán tự, theo bản dịch
của ngài Huyền Trang.
Do đó, sự ảo diệu bên trong
bài kinh thì không có gì để nghi ngờ. Tuy nhiên, sự ảo diệu ấy không phải ai
cũng biết. Biết và hiểu thì lại càng ít. Hiểu rồi làm được lại càng ít hơn.
Trong tiểu thuyết Thiên
long Bát bộ của Kim Dung, chàng Hư Trúc khi ở trong hầm băng cùng Thiên Sơn
Đồng lão, bị bà ép ăn thịt, uống rượu rồi ngủ cùng ‘Mộng cô’, câu niệm cửa
miệng của nhà sư trẻ này là câu “sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức
thị không, không tức thị sắc ; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị” (sắc
chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc;
thọ, tưởng, hành thức cũng là như vậy).
Hư Trúc đã đọc câu kinh
được xem là thâm ảo nhất trong bài kinh Bát nhã này. Theo quan niệm Phật giáo,
sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi là năm uẩn (ngũ uẩn). Năm uẩn tập họp lại
mà thành thì gọi là chúng sanh, hay con người.
Nói dễ hiểu, theo ngôn ngữ
hiện đại, sắc là cơ thể, thọ là cảm nhận, tưởng là mong muốn, hành là làm, thức
là biết. Trong năm uẩn này, sắc thuộc về thực thể, là thân, là xác. Bốn uẩn còn
lại thuộc về tâm, là ý, là ham muốn. Vì vậy khi nằm kề ‘Mộng cô’, để tránh cám
dỗ của thân xác phụ nữ, chàng Hư Trúc luôn tự nhủ rằng : sắc uẩn, hay thân xác
cô nương kề bên, vốn là không thực, rồi sẽ khô cằn, già héo, tan biến theo quy
luật thời gian. Biết là vậy, nhưng cảm nhận xác thịt thì lại khác, nó xui khiến
chàng trai trẻ chưa biết gì có những hành động theo bản năng. Và sau đó …..
Nói dông dài chẳng qua chỉ
muốn khẳng định : nói ‘sắc tức thị không’ thì dễ, nhưng gặp cảnh mà coi sắc
cũng là không e rằng thì khó lắm.
Trở lại với người viết thư
pháp trên cơ thể. Tôi phải công nhận là ý chí, tinh thần ông rất tuyệt vời. Đối
với một người viết thư pháp, việc giữ cho tinh thần không xao động, không phân
tán bởi các yếu tố bên ngoài là rất quan trọng. Có tịnh thì tâm mới an, nét chữ
mới có thần, bố cục mới hài hòa hợp lý. Một khi bút đã chấm mực, tay đã ‘đề’ ‘án’
thì không thể dừng nữa chừng, vì dừng thì bút khí ngưng trệ, tác phẩm coi như
bỏ đi. Đó là yêu cầu cơ bản khi chấp bút viết chữ trên giấy, trên vải, trên đá
gỗ. Đây ông lại viết trên một thực thể sống, đầy sinh lực. Mỗi nét bút ông kéo
lên hay đi xuống là đi cùng nhịp thở, cùng cảm xúc của cô gái. Quả là tâm không
động. Người để cho viết tài, người viết lại càng tài. Có lẽ cả hai đều vượt qua
cái giới hạn của hình sắc để đạt đến cái độ ‘sắc tức là không’ “vì không có
những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời mọi cuồng xi mộng
tưởng”.
Có thể tất cả các định
nghĩa đều thiếu dấu: sắc
Có thể kho lí luận đương
đại đều quên dấu : nặng
Không đủ thuyết phục
Để có thể chấm đôi nhũ hoa
nào lên ngôi hoàng hậu và trao vương miện.
Tôi chọn em
say xưa...
Như nhát kiếm xé trời sáng
loá
Như mầu mực pha không đủ
độ nồng
Như bút vẽ của kẻ phàm phu
bất lực dựng đứng ...trời trồng!
Mĩ thuật nhân loại khánh
kiệt trên bầu ngực mĩ nhân.
Câu kinh “Quán tự tại bồ
tát” mở đầu tác phẩm từ bên trái, gần tim (tâm kinh mà) xuống ngực rồi được
viết dần sang bên phải, đến đùi phải rồi kết thúc bên đùi trái với câu chú “yết
đế, yết đế …”
Toàn triện phía trên, danh
ấn phía dưới ; đề từ, lạc khoản ; chữ đen, da trắng, triện son đỏ, nhìn thực mà
không tục, trần trụi mà không dâm dục, đúng thư pháp, đúng nghệ thuật.
Trong chữ có pháp, trong
hình có ý đọc ‘sắc’ ‘không’ trên thân trần sắc mới thấy cái ảo diệu của Tâm
kinh và cái đẹp của thư pháp vậy.
Ngọc thể lưu Hán tự
Lõa thể dịch tâm kinh
Mặc nhiên nhi nữ tỉnh
Mỹ thuật kiến thất kinh
Có thể tất cả các định
nghĩa đều thiếu dấu: sắc
Có thể kho lí luận đương
đại đều quên dấu : nặng
Không đủ thuyết phục
Để có thể chấm đôi nhũ hoa nào lên ngôi hoàng hậu
và trao vương miện.
Tôi chọn em
say xưa...
Như nhát kiếm xé trời sáng loá
Như mầu mực pha không đủ độ nồng
Như bút vẽ của kẻ phàm phu bất lực dựng đứng
...trời trồng!
Mĩ thuật nhân loại khánh kiệt trên bầu ngực mĩ
nhân.
Cầm bút
vẽ như cầm đao
Hội họa
trên nguồn hội họa
Phật pháp cao siêu cũng lạ!!!
Rất ngoan trên ngực đàn bà
Trần truồng chỉ là cái cớ
Để đo tâm sáng, tâm tà
Mấy ai người trong thiên hạ
Lắng mình, trước Phật, trước hoa
VỀ HAI “CÁI ẤY” VÀ “CHUYỆN ẤY” TRONG CA DAO, TỤC NGỮ
Mạc Thực
Thái Doãn Chất
Faxuca: Mạc
Thực Thái Doãn Chất là giáo viên văn, hưu trí ở huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Ông là hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội VHNT Nghệ
An. Ông viết nhiều thể loại và khá nổi tiếng với dòng thơ châm biếm. Tuy nhiên,
ông cũng là người nghiên cứu về văn hóa dân gian, với cái nhìn rất tươi tắn,
sâu sắc về nhiều vấn đề tưởng rất đời thường. Ông có gửi đến Chuyên san Khoa
học Xã hội & Nhân văn Nghệ An (Thuộc Sở KH&CN Nghệ An) bài viết này.
Xét thấy nếu đăng ở Chuyên san KHXH&NVNA e chưa thật thích hợp, chúng tôi
đã đề nghị ông cho đăng lên blog Tạp hóa Faxuca. Được ông đồng tình, Tạp hóa Faxuca
xin giới thiệu bài viết rất đặc sắc, nhưng cũng đầy “tế nhị” này với bạn đọc.
Không
phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa hai “cái ấy” và “chuyện ấy” đã hiện hữu trong
văn chương bác học và văn chương bình dân, trong đó có ca dao, tục ngữ. Đó là
đề tài muôn thưở, là thứ “vàng ròng” (Chữ dùng của nhà thơ Trần Hữu Thung), làm
cho con người vui vẻ, khỏe khoắn, ham sống, ham chiến đấu và trẻ trung hơn. Nếu
không có nó thì “ mặt trời sẽ tắt”! Và cuộc đời của mỗi con người sẽ giảm phần
hứng thú, ý vị.
Trước hết nói
về hai cái ấy. Thông thường thì “của ai nấy dùng”, thường đi riêng, nhưng cũng
có khi C..và L..đi sóng đôi nhau như bóng với hình.
Nó hay vì nhiều
lẽ. Bắt đầu từ hai cái tên. Bắt đầu, ta nói về C. C..là cái tên nôm, tên
“cúng cơm” ngàn đời của nó. “Trâu thì lấy mũi mà dắc (dắt)/ Người thì lấy C mà
lôi”. Và, “C. gãy mà bạy L troi”. Hay: “Hát ghẹo mà đẽo cổ cò/ C. anh mà gãy ba
o phải đền”. Rồi đến tên phái sinh, tên tượng hình, tên ẩn dụ, tên lóng…Đó
là B.: “Nên không bay nói một lời/ Không thì choa sẽ dí b. choa đi”. Là
thằng cu “Em như khế ngọt sân chùa/ Cho choa, choa không lấy,/ Bán choa, choa
không mua/Nhưng vì thằng cu nhà choa hắn dại dại nên thấy của chua hắn thèm”.
Là chim: “Người thì bé bằng cái kim/ Chim thì to bằng cái chày”. Là củ khoai từ:
“Anh đây có củ khoai từ/ Em có cái rãnh cho anh dư lấy nòi”. Là cái gộc chè
chuôm: “Ả có cái ao trưởng tộc / anh có cái gộc chè chuôm”. Là con cá tràu ,
khi con gái hỏi: “Tương phùng bạn với tương tri / Cá nằm dưới cỏ, cá chi rứa
chàng?”. Thi bên con trai đáp: “Tương phùng bạn với tương tri/ Cá nằm dưới cỏ
có khi cá tràu”. Là cái cần tăng dân số: “Anh có cái cần tăng dân số/ Ả có cái
hố tăng cá nhân/ Hai bên phấn đấu chuyên cần/ Thì dân số nước sẽ tăng ào ào”.
Là cái cuống đuôi: “Tình cờ gặp buổi chợ Sò / Ả khoe con mực tuộc, anh thò cái
cuống đuôi”. Là cái cán dao: “ Anh H có cái cán dao/ Em mô (nào) ưng ý bỏ vào
vừa ngay”. Là khúc trầm hương. Một cô gái ở thôn Hoàng Lao đến thăm chị gái lấy
chồng về thôn Cự Phú, thấy một chàng trai đang cồng lưng đan rổ, bèn hát: “ Đất
Hoàng Lao chữ lao là nhọc/ Đất Cự phú, chữ phú là giàu/ Em đến đây cũng muốn
chị trước, em sau / Nhưng mùi trầm hương em nỏ chộ, mà chi chộ màu khói mây”’.
Đã được một chàng trai Cự Phú đáp lại: “Giàu là giàu nơi hương hào dịch mục
/Nhọc là nhọc nơi tú cử, trâm bào/ Khúc trầm hương anh còn để trong bao/ Em có
đưa cái lò hương đi đó, để anh bỏ vào cho nó thơm”. Là cái dé: “Người bé, dé
to”. Là “Đồ lề”: “Người cặp cách, đồ lề tráng hạng”.vv…
Tỷ lệ của nó so với thân chủ thì có khi
thuận, có khi nghịch. Thuận thì: “Người to của nậy”. Nhưng có khi ngược lại:
“Anh kia người thì nhom nhom (gầy gò, yếu ớt) / Người chôn tiểu, C. chôn hòm mà
kinh !”.
C. có một số mặt nổi
trội so với các cơ phận khác. Nó rất mẫn cảm đối với phía bên kia: “Ra
đường gặp ả hồng nhan / Thằng cu nghển cổ nóng ran cả người”. Nó là cái
máy i on nhạy vô kể: “ Đút vô be thì nghe nóng nóng/ Đút vô móng thì nghe nôn
nôn / Đút vô L. thì nghe đễ chịu”. Nó rất thích của lạ: “Cái gì không mắt,
không tai/ Cổ đeo hai bị, tóc dài ngang lưng / Của nhà thấy cứ lừng khừng
/ Hễ thấy của lạ bừng bừng xông lên”. Hoặc: “Cái gì chỉ có một đầu / Có mồm
không mắt, đeo râu xồm xoàm / Khỏe đứng thẳng, nhọc nằm ngang/ Thất
thường tính khí họ hàng không ưa/ Của lạ xài mấy cũng vừa / Của nhà thì cứ dây
dưa khất lần”. Đọc qua, ai cũng biết đó là cái C..
Kích thước, hình thù của nó
cũng mỗi người mỗi khác. Vì thế, mới có chuyện: Ba chị đi chợ về đố nhau:
“Của cánh đàn ông thế nào thì sướng?”. Chị thì nói ngắn, chị thì nói dài, chị
thì nói cong. Chẳng ai chịu ai. Cuối cùng cả ba kéo nhau đến gặp một ả có
tiếng lẳng lơ, mới được “bật mí” như thế này: “Ngắn sướng ngoài, dài sướng
trong / cong cong sướng chính giữa”. Vì nó sướng thế nên phiá bên kia đã “cương
quyết chiến dấu” để “không cho chúng nó thoát”: “Nhịn ăn, nhịn mặc, không ai
nhịn C.. cho ai”. Và C.. được đề cao trên cả sự giàu có: “Bền C. lọ, hơn
đỏ nhà lim !”
Chuyển sang cái L. L. là tên cúng cơm ra
đời trước nhất. Nhiều câu ca dao nói tới “của quí” này. “Nửa đêm thức dậy đâm
xay / Khải (gãi) L. xoạc xoạc lông bay đầy nhà”. “Chiều chiều xách mủng xuống
đồn/ Cậu cho bát gạo, banh L. cậu coi”. “Mẹ em cứ bảo không L./ Cái chi dưới
háng như cồn cỏ may”. “Hai bà đi hái lộc mưng / Trèo lên rớt xuống đau lưng đấm
L.”.vv. Tiếp đến là bướm: “ Bướm đồng động đến thì bay / Bướm nhà động đến lăn
quay ra giường”. Là cái khuôn đúc tượng. Một chàng trai thấy một cô gái đẹp
liền hát: “Hỡi người đi đó xinh thay / Có khuôn đúc tượng, cho anh đây đúc
cùng”. Cô gái đã trả lời rất tình tứ: “Người sao ăn nói lạ lùng / Khuôn ai nấy
đúc, đúc cùng ai cho!”. Là cái ngã ba: “To đàng cấy, nậy ngã ba”. Là con mực
tuộc (xem C). Là cái ao trưởng tộc (xem C). Là cái lộ lù trong phát ngôn
sau: Một cô gái dùng lối nói lái để hỏi cánh thợ đắp tượng: “Anh đi đắp phượng,
đắp cù / Đố anh đắp được bốn cái lộ lù nhà em”. Liền bị một chàng trai “đập”
lại: “Bốn cái lộ lù kính chú em ba / Đắp công, đắp phượng mới là tay anh”.
Là:“Cây luồng mà bỏ u rê”.Bây giờ có người gọi nó là“đám ruộng ba bờ” v v
Màu da của nó cũng thay đổi. Thông thường thì màu trắng: “Cái L. trắng bảnh, trắng banh /L. ăn C. sống có tanh không L.?”. Có khi là màu đen do môi trường lao động vất vả, nặng nhọc: “Lộ cộ có lộ tiền chôn / Cái răng mốc thếch cái L. đen thui”. Hoặc do sự cọ xát của “thớt trên”. Có một cô gái ngây thơ hỏi chị dâu khi cả hai “chị em rủ nhau tắm đầm/ Của em sao trắng, chị thâm thế này?”. Đã được cô chị dâu cho biết nguyên nhân: “Nó thâm bởi tại anh mày / Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm”
Sự cân đối so với các cơ
phận khác cũng mỗi người mỗi vẻ. Thông thường thì tỷ lệ thuận: “To đường cấy,
nậy ngả ba”. Hoặc: “Em là con gái Phú Đa/ Con người phốp pháp, ngã ba to đùng”.
Nhưng cũng có khi ngược lại: “Em là con gái chợ Cồn/ Người thì bé bé cái L. lại
to !”. Rồi diện mạo của nó thế nào? Một chàng trai hỏỉ: “Cô kia, cô kỉa, cô
kìa/ Người cô thế ấy, cái kia thế nào?”. Đã được phía bên kia trả lời thật
tuyệt vời: “Nó xinh, nó xỉnh, nó xình/ Nó cũng như mình, nó đã có ria!.” Nó
giống mồm anh. Đau hơn hoạn !
Nó cũng
có độ sâu chết người. Bởi thế có khách qua sông đã hỏi cô lái đò: “Sông này sâu
cạn thế nào /Lại đây anh thả một cơn sào hỡi em”. Đã bị đối phương giáng trả: “Sông
này chỗ cạn chỗ sâu/ Sa chân thì ngập cả đầu đó anh!”. Lại có chuyện: Ba anh
chàng đi học về, thấy một chị nông dân đang cấy dưới ruộng, xúc cảnh sinh tình,
liền đố nhau:“Của chị ấy thế nào?”. Anh nói tròn, anh nói méo, anh nói vuông.
Chẳng ai chịu ai, bèn kéo nhau vào huyện đường nhờ quan phân xử. Quan phán: “
Mai gọi thị ấy xuống đây, rồi ta phân xử cho”. Về nhà, ba anh biện ba món quà
để “ hối lời” chị ta. Sáng hôm sau kéo nhau vào huyện đường. Lập nghiêm,
quan hỏi: “Thị kia ! Của mày thế nào mà để ba thầy đây đi học về đố nhau: Thầy
nói tròn, thầy nói méo, thầy nói vuông?”. Được quan cho phép, chị nông dân lễ
phép thưa :“Bẩm quan, cả ba thầy đều đúng ạ!” Quan ngạc nhiên. Chị ta nói tiếp:
“Khi con đi, thì của con méo/ khi chồng con đến đéo, thì của con tròn/ Những
khi ngồi đòn, thì của con vuông!” Có người còn vẽ hình hài nó như thế này: “Đi
nhai, đứng ngậm, ngồi cười/ Vô phúc mạt đời, mọc cái răng nanh !”.
L. có sức mạnh hơn cả
ma quỷ: “ Ma hớp hồn, không bằng L. rút ruột”. Vì nó mà có kẻ mất hết cả trí
tuệ: “Khoe anh lắm khéo, lắm khôn/ Qua cửa nhà L. bảy vía, còn ba !” Đến những
bậc văn nhân,tài tử mà dính lấy nó thì cũng trở nên đần độn: “Văn chương chữ
nghĩa bề bề/ Thần L. ám ảnh thì mê mẩn đời !”. Nó làm cho các víp, các
sếp đến mê mệt mất cả tỉnh táo: “ Cây luồng mà bỏ u rê/ các vip, các sếp đều mê
cây luồng”. Kì diệu hơn, nó có thể tái sinh sự sống. Bởi thế mới có
chuyện: một ả đi cày thách đố một chàng trai: “Đưa chàng một nắm ngô rang/
Chàng đúc vô cho nó mọc, thiếp theo chàng về ngay”. Anh ta đã trả lời thật hóm
hỉnh: “Nơi nào mà nắng không khô/ Mà mưa không ướt đúc vô, mọc liền !”.
Có khi nó trở thành “tiêu chuẩn”để đo sự trưởng thành của một đấng tu mi nam
tử: “Làm trai cho đáng nên trai/ Mồm thơm mùi rượu, tay khai mùi L.”. Đến các bậc
quân tử cũng có khi “gương mẫu” như thế này: “Tưởng là quân tử nhất ngôn/ Ai
ngờ quân tử rờ L. hai tay”. Bởi thế, mới có kẻ tuyên bố: “Quân tử nhất ngôn là
quân tử dại/ Quân tử nói lại, là quân tử khôn/ Quân tử rờ L. là quân tử giỏi
!”. Thật là hết chỗ nói ! Lắm anh chàng nổi tiếng khôn cũng bởi do biết :“Làm
trai như thế mới khôn/ Ăn cơm dùng đũa, rờ L. dùng tay”. Rồi khi thiếu vắng nó,
thì cả bọn “dùng sức mạnh tập thể” cất công đi tìm: “L. lông bay bổng lên
trời/ Một bầy C. lọ mang tơi đi tìm”.
Giờ nói đến chuyện ấy. Đó
là chuyện “ giao lưu” của một cặp tình nhân muôn đời. Có nhiều cách để gọi sự
giao lưu ấy. Thông thuờng thì gọi là đ. Khi thì gọi là “mần”, là “ấy”:
“Thấy ai ai, ta cũng ai ai/ Ai ai ấy thì ta cũng ấy” (Trần Lê Vĩ)…Nhưng phổ biến
nhất vẫn là đ. Từ xa xưa, tạo hóa đã bắt C. và L. phải làm bạn với nhau.
Ai không có bạn “ thân mến” ấy là bất hạnh, là vô phúc ! Bởi thế một cô gái mới
đem “của mình” ra để đố bạn trai: “ L. vàng, bẹn ngọc, đóc sơn son/ Trai nam
nhi đối được, thiếp theo non về dừ”. Bạn trai của cô ta đã đối lại khá chuẩn:
“Lông mun, dái trắc, C. xà cừ/ Anh đây đối được, em cho dừ hay mai ?”. Rõ ràng
là cái chắc đã ngoắc lấy cái đẹp. Và cái đẹp đã kẹp lấy cái chắc! Ca dao phồn
thực còn cho ta biết: “Con gái 17/ vú cảy L. sưng/ Hai mắt trập trừng/ Hình như
muốn đ..” Vì thế đến tuổi dậy thì, mới có chuyện con trai trách con gái:
“Tổ cha ba đứa có L./ Không cho choa đ. để L. mần chi?”. Liền được phía
con gái trả lời: “Bay hỏi thì choa xin thưa / L. choa đang nhỏ, chưa vừa C. bay”.
Có khi lấy ngoại cảnh để nói chuyện ấy: “Con cò ăn bên tê hói/ Con cói ăn bên
ni sông/ O kia ơi, có phải đạo vợ chồng/ Sang bên ni ta kè coọc”. Nó còn cho
biết chuyện ấy sẽ xẩy ra khi nào: “No thì L. .L., C. C./ Đói thì hục hặc chuyện
ăn”. Con người khác với loài vật ở chỗ nào: “ Chó mùa thu, tru (trâu) mùa hè/
Người thì nhè bát tiết”. Nghĩa là quanh năm .
Trong ca dao chuyện ấy ít
nói bóng, nói gió. Đa phần là nói thẳng. Cho nên có anh chàng nào đó đã đề
nghị: “L. em tủm hủm mu rùa/ Cho anh đ. cái, đến mùa lấy khoai”. Thì bên kia
nói ngay: “Khoai khoai cha tổ là khoai / Cho anh đ.. cấy đến mai lấy tiền/ Tiền
tiền cha tổ là tiền/Cho anh đ.. cấy L.. liền lộ khu! ”. Có khi là chuyện “động
trời” làm cho cả làng phát khiếp.: “Trai đại hạn, gái loạn canh/ Đ. chắc một
bữa khiếp xanh cả làng !”.Có khi phái yếu ở trong tư thế sẵn sàng
“chiến đấu”: “Nửa đêm nghe chuột khoét dần/ Tưởng chồng đến đ. trương gân
banh L. !”. Có người còn so sánh, đề ra ‘tiêu chí” thế nào là cha thương con,
vợ thương chồng: “Cha thương con làm nhà tứ trụ/ Vợ thương chồng cho đ. suốt
đêm”. Có chỗ còn nói tới tác hại của nó khi vượt ngưỡng: “Hay ăn thì béo, hay
đéo thì gầy”. Trong khi văn chương bác học nêu lên cách tẩm bổ và hành lạc như
thế này: “ Bán dạ tam bôi tửu/ Bình minh nhất trản trà/ Tam nguyệt giao nhất
độ/ Lương y bất đáo gia”. Nghĩa là: “Nửa đêm ba chén rượu/ Sáng mai một chén
trà/ Ba tháng “ấy” một cái/ Thầy thuốc đếch tới nhà”. Thì tục ngữ
dân gian nói: “Đêm bảy ngày ba, vô ra không kê”. Để giữ được nhịp độ đó,
người xưa bày cho: “Thương chồng nấu cháo cu cu/ Chồng ăn chồng đ. như tru (trâu)
phá ràn”. “Thương chồng thì nấu cháo lươn/ Chồng ăn chồng đ. cho trườn ra sân”.
“Thương chồng thì nấu cháo gà/ Chồng ăn chồng đ. gấp ba ngày thường”. “Thương
chồng thì nấu cháo gà/ chồng ăn, chồng đ. cửa nhà rung rinh”. Thật là khủng
khiếp! Lại còn bày cho cách tiến hành thế nào để đạt đến cực điểm
của sự khoái lạc: “Kéo gỗ thì cốt bỏ đà/ Đ. chắc thì cốt đàn bà nắt lên”. Ca
dao còn cho biết trong chuyện ấy, thành phần nào, lứa tuổi nào là khỏe nhất:
“Lính về, lính đ. ba ngày/ Bằng anh dân cày đ. trong ba tháng”. Hoặc: “Ba năm
du kích cận kề/ Không bằng lính chiến hắn về một đêm”. Đúng là: “Ăn thì
đi rú, đ. thì đi lính”, hoặc “lính về thì đ., rú về thì ăn”. Rồi hình dung bề
ngoài như thế nào, thì khỏe khoản ấy. Nào là: “Tóc loăn quăn, bạo ăn, bạo đ./
Tóc lụ xụ bạo đ., bạo ăn”. Nào là: “Người gầy thầy đ.”. Hoặc : “Trai tơ mà đ.
gái tơ/ Hắn sướng trong bụng hơn mơ được vàng”. Còn lớp người “trên bảo dưới
không nghe” thì: “Ông già mà đ. bà già/ Cũng bằng bốc trấu mà xoa giữa L.”. Và
đây là cách chơi của kẻ tra (người già): “Đứt ú thì quàng lấy sừng/ Già thì dụt
dặt, xin đừng bán đi”. Hoặc: “Trẻ đâm xay, già dụt dặt”. Hoặc coi đây là một
phép dưỡng sinh cực kỳ quí giá: “Trẻ thì lấy con, lấy cái/ Già thì thông đái,
ngon cơm”. Nhưng cũng có khi: “Càng già càng dẻo, càng dai”, như cái chuyện đã
xẩy ra ở một xã, tại huyện nọ: “Q.L lại có chuyện cười/ Dưỡng sinh, sinh
dưỡng mới lòi đuôi ra/ Cụ ông mà đ. cụ bà/ Người già L., C. chưa già, vơ bay
!”. Nhiều khi nó có giá trị như một liều thuốc “cải lão hoàn đồng”: “Cụ già tuổi
dã tám mươi/ Nghe nói chuyện đ. trong người nóng ran”. Hay: “Lâu ngày đ. cái
khỏe ra/ Mặt mày trẻ lại, cái già mất tiêu”. Bởi thế nhịn “khoản ấy” là con
người trở nên tiều tụy, phờ phạc: “Nhịn ăn mười bữa chưa gầy/ Nhịn đ. một bữa
mặt mày xanh xao”. Nhiều kẻ giàu có, vì chuyện ấy mà khuynh gia bại sản: “Anh
kia tan cửa nát nhà/ Vì một cái đ. nên ra thế này”. Hoặc: “Tan cửa nát nhà,
cũng vì ba cái đ.!”.
Người ta có nhiều cái khổ. Một trong những cái khổ ấy là vợ mất sớm. Vợ mất sớm là một trong ba “nhân sinh tam khổ”: “Tuổi trẻ mất cha/ về già mất con/ Trung niên mất vợ/ Héo hon vô cùng”. Vì thế vợ chết, hoặc vợ đi đâu lâu ngày, lắm người đã khổ và bức xúc như thế này: “Vợ chết mới được ba ngày/ Cái C. đã ngỏng như chày đâm vưng (vừng)”. Hoặc : “Vợ chết mặt còn rầu rầu/ Cái C. đã nóng như đầu hỏa xa”. Hay: “ L. đi giữ cháu ba ngày/ Ở nhà C. nhớ C. gầy trơ gân !”.
Người ta có nhiều cái khổ. Một trong những cái khổ ấy là vợ mất sớm. Vợ mất sớm là một trong ba “nhân sinh tam khổ”: “Tuổi trẻ mất cha/ về già mất con/ Trung niên mất vợ/ Héo hon vô cùng”. Vì thế vợ chết, hoặc vợ đi đâu lâu ngày, lắm người đã khổ và bức xúc như thế này: “Vợ chết mới được ba ngày/ Cái C. đã ngỏng như chày đâm vưng (vừng)”. Hoặc : “Vợ chết mặt còn rầu rầu/ Cái C. đã nóng như đầu hỏa xa”. Hay: “ L. đi giữ cháu ba ngày/ Ở nhà C. nhớ C. gầy trơ gân !”.
Còn phía bên
kia thì sao? Cũng khổ không kém ! “Chồng chết sang ngày thứ tư/ Cục đú hắn dựng
y như hòn lèn”. Hoặc: “Đàn bà chồng chết ba năm/ Được một cái đ. sướng rân
tháng tròn”. Hoặc:“Chồng chết thì chưa đoạn tang/ Cái L. ngáp ngáp như mang cá
mè”. Cho nên có trường hợp đã phải tìm cách “phá bỏ gông xiềng nô lệ !”. Nếu xa
vợ lâu ngày quá thì: “Vợ rồi thì mặc vợ rồi/ Lâu ngày đại hạn, sang ngồi với
em”. Nếu xa chồng lâu ngày quá thì: “Có chồng thì mặc có chồng/ Lâu ngày vắng
vẻ, “tơ hồng” cứ xe”. Thậm chí có chị vừa ru con, vừa thông báo hoàn cảnh của
mình cho láng giềng biết: “Bố cháu lâu nay không nhà/ Muốn xuân một tý la cà
sang đây !”.
Còn trường hợp sau
đây thì không biết là “khổ” hay là “sướng”, phản đối hay không phản
đối: “Hôm qua em đi hái chè/Gặp thằng phải gió hắn đè em ra/ Em xin mà
hắn không tha/ Hắn đè, hắn nhét cái xương cha hắn vào /Đêm về lòng những khát
khao/Ngày mai em lại đồi cao hái chè !”. Hoặc “ trực trần kỳ sự” như cái ông
chết vợ này: “Ai có L. thì giữ/ C. bọ hoe Lự đi kiếm ăn !”.
Tóm lại,
hai cái ấy và chuyện ấy sớm được đề cập trong ca dao, tục ngữ. Nó trở thành của
“gia bảo”, “liều thuốc vạn năng” để người lao động có thêm sức lực vượt qua
những “chướng ngại vật” trên đường đời. Bởi thế, mất gì thì mất, nhưng những
câu ca dao , tục ngữ nói về hai cái ấy và chuyện ấy,thì dù không được bày, dạy
vẫn “thừa sức” lướt qua phong ba bão táp của thời gian; chỉ cần một lần
thoảng qua cái lỗ tai là găm lại trong trí nhớ. Nó trở thành “tiềm lực” trong
con người, đặc biệt là những người lao động chân tay. Ca dao xưa có câu: “Chàng
làng chèo chẹt nỏ mần (chẳng làm) chi ai/ Chim cu ngẩm ngẩm, ăn hết đậu, hết
khoai nhà người”. Một số người, nhìn bề ngoài có vẻ “đạo mạo, nghiêm túc”,
nhưng bên trong lại là những tay “thợ giác, thợ khoan” “nổi tiếng”! Vì
thế, người xưa đã lớn tiếng tố cáo,vạch mặt: “Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình/ Ba
bộ đồng tình bóp vú con tôi”. Hoặc: “Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan
lớn tần mần như ma” đó sao? Còn ngày nay nếu chịu khó sưu tầm cũng không phải
là “của hiếm”.
Trong ca dao, tục ngữ, cũ và mới, nếu
“săn lùng” cho hết thì còn phờ râu trê! Người viết “chân ngắn quá, không đi
cùng trái đất”, có chỗ nào chưa đủ, mong bạn đọc bổ sung cho phong phú thêm. Có
chỗ nào “vui quá hóa…dại”, lỡ lời, lỡ bút, mong bạn đọc xa gần lượng thứ.
Xin thành thật cảm ơn !
Giám đốc,Phó giám đốc và công đoàn chuẩn bị hành lễ
Chủ tịch công đoàn,Trưởng phòng tổ chức VT Tỉnh cũng có mặt
GỌI HỒN
Gọi hồn thì Bác phải lên
Khổ quá,chết cũng không yên dưới mồ
Cháu nào ,đồng cậu ,đồng cô
Cứ xoen xoét gọi Bác Hồ kính yêu
Các cháu ,cứ việc dệt thêu
Bác chứng minh hết cả điều xấu xa
Xấu tốt,bởi Đảng mà ra
Xin đừng ngu quá ,dân ta khinh thường
Từ ngày cộng sản Đông dương
Toàn dân sống bị nhiễu nhương đọa đày
Tưởng là đuổi được giặc tây
Đánh xong giặc Mỹ đến ngày vinh quang
Thế mà dân vẫn lầm than
Người Việt vẫn cứ kêu oan,thét gào
Bác biết tội lỗi năm nào
Đi theo cộng sản,rước vào Mác Lê
Ngày xưa giả nước Hoa Kỳ
Giúp Bác,vận nước khác đi nhiều rồi
Đổ bao xương máu than ôi!
Dân nghèo nhục nhã,sống đời hạ nhân
Dân là chủ ,phải nghe dân
Khi nghe dân nói ,phải cần lắng tai
Cố nhân ta nói câu này
Dân là yếu tố ,nâng hay lật thuyền
Các cháu cứ dựa bạo quyền
Tham lam,vơ vét túi riêng làm giàu
Bác dưới âm phủ lòng đau
Đôi khi vừa giận ,vừa lau lệ tràn
Lại còn các cháu công an
Sống quen như thói chó săn mất rồi
Âm mưu theo dõi ,bắt người
Tra tấn ,hành hạ nát đời người ta
Chuyện an nguy của nước nhà
Nước bạn Trung Quốc ,đúng là bất lương
Tây nguyên là nóc Đông Dương
Bọn nó muốn chiếm dọn đường xâm lăng
Bau xit,bùn đỏ ba zan
Hại hơn chất độc da cam rất nhiều
Kiến nghị là tiếng dân kêu
Hàng ngàn trí thức đã liều ký tên
Biển đông tàu lạ đâm thuyền
Giết dân mà Đảng cứ hèn thế sao?
Tàu lạ ,có lạ gì đâu!
Bác nghe họ nói lầu bầu tiếng Hoa
Rồi chuyện bát nhã tam tòa
Côn đồ du đãng ,đâu ra đánh người
Bác thấy máu chảy,lệ rơi
Người dân đau khổ thốt lời đắng cay
Sư cha các cháu nghe ai?
Không chịu tôn kính,lại bày trò ma
Đất phật,đất chúa người ta
Chiếm hữu gây sự tính ra lợi gì
Bắt người mà chẳng nghĩ suy
Những người yêu nước lại đi bỏ tù
Họ đòi ,dân chủ tự do
Hy sinh tất cả là cho đồng bào
Cháu nào vừa mới xì xào
Không phải hồn Bác ,hồn nào giả đây?
Thật lòng Bác chẳng nói sai
Không tin thì Bác thăng ngay bây giờ
Cháu nào lại mới xì xồ
Chắc hồn không phải Bác Hồ mình đâu
Nói năng phản động thế nào
Bác nghe sợ bắt thôi mau xuất hồn
Chúc các cháu mạnh khỏe luôn
Bác đi,các cháu đừng buồn Bác đi
Cháu nào bụng vẫn còn nghi
Không phải Bác Hồ thì Bác là ai!
( Theo Internet)
Chuyện xưa
Cái thời rượu mía qua rồi
Ống quần cao thấp,lần hồi chăn heo
Cám ,ngô ở các bản nghèo
Mua về Thị xã,chăm heo nuôi người
Đói nghèo vất vả ai ơi!
Tình người chân thật,một thời thương nhau
Tưởng rằng:Thương đến bạc đầu
Ai ngờ tiền bạc,sang giàu phân chia
Đời người hết thịnh,đến suy
Bạc vàng bỏ lại,quyền uy đâu còn
Làm cha khuyên nhủ các con
Chữ Tâm,Chữ Đức,sống còn phải tu
Ở đời thêm bạn ,bớt thù
Tham tiền,bỏ ngại,ngục tù không tha.
1 nhận xét:
Đọc bài về hai cái ấy lại nhớ đến thầy dạy văn hai năm lớp 9a ,10a khi học ở trường cấp 3 Nghi Xuân ở xuân Mỹ sau đó thì ra xuân Tiên trường đổi sang tên Nguyễn Du .Mình học văn rất kém chưa bao giờ bài tập làm văn thầy Chất cho 6 điểm ,một hôm vào nhà thầy Đan mình thấy bài Văn của Trịnh Đại Tỵ người xuân Thành học trước mình một lớp anh này là học sinh giỏi văn tỉnh Hà Tĩnh bài văn phân tích chủ nghĩa anh hùng cách mạng của liệt sỹ Nguyễn văn Trỗi Thầy Đan lúc này là trưởng bộ môn văn học của trường cấp ba Nguyễn Du cho 9 điểm ,mình đưa bài văn về nghĩ rằng sắp tới thế nào lớp cũng làm bài văn này mình sẽ chép y nguyên nó để nộp chắc chắn trong đời học sinh mình sẽ có bài văn ít nhất được 7 điểm.Chờ đợi một tuần sau thầy trả bài tập làm văn vui mừng chợt tắt trong khuông cho điểm thấy một con số 4 và mở ngoăc chữ bốn đóng ngoặc ôi buồn và tức thầy Chất lắm nhưng không giám nói....Ba mươi lăm năm sau khóa 1971-1974 của trường cấp ba Nguyễn Du tổ chức gặp mặt bạn bè ,thầy giáo cũ .Thầy Thái Doãn Chất vẫn khỏe mạnh ,vui vẻ và biết được Mạc Thực là bút danh của thầy .Mình mạnh dạn kể lại chuyện xưa về bài làm văn năm ấy thầy nói: vì Phan Cu chưa bao giò có bài văn nào hay nên thầy biết bài này chắc chắn là Phan Cu chép được nên cho 4 điểm là châm chước đấy trò bắt tay thầy cười trong niềm vui hân hoan và tất cả những suy nghĩ của cái thời học sinh bay biến mất .Bây giờ trên báo mạng lại gặp được bài viết này của thầy mình đưa vào blog riêng để làm kỷ niệm những lúc nhớ quê ,nhớ thầy nhớ bạn mở ra đọc ,những ai vào trang này nếu đọc đừng có hiểu nhầm thầy tôi như bài văn ngày xưa tôi đã nghĩ sai về thầy nhé.
Đăng nhận xét