Huy Đức
Thay vì bỏ phiếu chuẩn thuận ba ứng cử viên do Bộ chính trị đưa ra,
Trung ương đã đề cử thêm rất nhiều người. Kết quả, sau 3 vòng bỏ phiếu, hai ứng
cử viên do Bộ chính trị đưa ra thất cử.
Chiến thuật làm loãng phiếu bằng cách đưa thêm ứng cử viên từng được “áp dụng”
hồi tháng 1-2009, đánh rớt cơ hội vào Ban bí thư của Tướng Lê Thế Tiệm. Nhưng
không chỉ đơn giản là gạch bỏ Vương Đình Huệ hay Nguyễn Bá Thanh, lần này,
dường như đang có nhiều Trung ương ủy viên muốn giành lại quyền quyết định
(theo điều lệ) của Trung ương thay vì cam lòng biểu quyết như cơ quan chấp hành
của Bộ chính trị.
Trong lịch sử bầu bán của Đảng cộng sản Việt Nam, những người không
được Bộ chính trị hoặc Ban chấp hành trung ương giới thiệu, khi được các đại
biểu hoặc các ủy viên trung ương khác giới thiệu, đều tự giác rút lui hoặc được
yêu cầu rút lui. Không cần chờ tới Đại hội hay Hội nghị trung ương, một nhân
vật đã được Bộ chính trị, được tổng bí thư hoặc có thời chỉ cần được Lê Đức Thọ
“chấm” là chắc chắn vào Trung ương, thậm chí vào những vị trí cao hơn trong
Đảng.
Dưới thời Tổng bí thư Đỗ Mười, có những câu chuyện làm nhân sự nghe cứ như giai
thoại: Trước Đại hội VIII (1996), ông Đỗ Mười cho gọi một vị phó thủ tướng tới
bảo: “Kỳ này tôi nghỉ anh thấy sao?”. Vị phó thủ tướng, vốn là một trí thức
lịch lãm, chân thành hỏi lại: “Ai sẽ thay anh?”. Kết quả, ông bị loại ra khỏi
danh sách tái cử. Ông Đỗ Mười lại cho mời một nhà lý luận bảo thủ tới và khi
ông vừa dứt lời thì nhà lý luận này liền đập tay xuống bàn: “Trời ơi, đất nước
đang như thế này anh nghỉ làm sao được”. Kết quả, nhà lý luận giữ được ghế ủy
viên Bộ chính trị.
Ngày 19-6-1996, tại Hội nghị Trung ương 12 (Hội nghị trước khi Đại
hội VIII bắt đầu), Tổng bí thư Đỗ Mười đã yêu cầu Trung ương đưa vào danh sách
đề cử ủy viên Bộ chính trị hai nhân vật bị Hội nghị Trung ương 11 đưa ra và yêu
cầu tái cử thêm hai ủy viên Bộ chính trị quá tuổi, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức
Bình. Tuy bị ba uỷ viên trung ương phản ứng, khi ông yêu cầu “giơ tay biểu
quyết”, đa số Trung ương phải “chấp hành” ý kiến của ông. Sau Đỗ Mười, không có
tổng bí thư nào có khả năng thô bạo với Trung ương như thế.
Từ Đại hội VI bắt đầu có chuyện ứng cử viên được đề cử bởi Ban chấp
hành Trung ương bị thất cử ở trong đại hội. Hai nhân vật “tạo tiền lệ” là Tố
Hữu (từng được Lê Duẩn chọn kế vị Tổng bí thư) và Hoàng Tùng, khi ấy đang là Bí
thư trung ương Đảng. Năm 2011, Trung ương cũng từng đánh rớt một nhân vật được
Bộ chính trị tái cơ cấu, Hồ Đức Việt, và Đại hội cũng đã không bầu Phạm Gia
Khiêm một người được đưa vào danh sách chính thức của Trung ương.
Càng về sau, càng có nhiều ứng cử viên “giới thiệu thêm” được đưa
vào danh sách bầu. Nhưng, cho dù danh sách ứng cử viên có đông hơn thì xác suất
thất cử của các ứng cử viên được Bộ chính trị, Trung ương trình ra là rất thấp.
Ông Nguyễn Phú Trọng là “người của thiểu số” ngay khi bắt đầu trở
thành Tổng bí thư. Ông ủng hộ “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” trong khi
chiều 18-1-2011, 61,70% đại biểu của Đại hội XI đã chọn định nghĩa đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội là “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp”.
Việc Đại hội không coi “sở hữu công” như là một đặc trưng chủ yếu
của chủ nghĩa xã hội lẽ ra phải có giá trị như một hành động vứt bỏ vòng kim cô
cuối cùng của Marx (căn cứ theo Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Ông Trọng có thể
đã có một vị trí lịch sử khác nếu ông “phục tùng đa số” như ông tuyên bố khi
nhận chức Tổng bí thư, đẩy mạnh giải tư khu vực kinh tế quốc doanh và trao
quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhưng, Nguyễn Phú Trọng đã chứng tỏ một
cách hùng hồn là ông không có khả năng nhận ra thời cuộc cho chính ông, đừng
nói là cho đất nước.
Từ Hội nghị Trung ương Bốn, ông Nguyễn Phú Trọng rõ ràng đã có nỗ
lực để trở nên không tẻ nhạt như người tiền nhiệm của mình. Chỉnh đốn Đảng và
chống tham nhũng là một lựa chọn khá được lòng dân. Nhưng, thay vì thừa nhận
nguyên nhân tham nhũng là từ “lỗi hệ thống” để cải cách chính trị theo hướng
dân chủ hơn; thay vì để cho Quốc hội và tư pháp được thực thi các quyền hiến
định của mình, ông lại sử dụng những công cụ hết sức giáo điều trong khi trung
ương không còn một đa số chỉ biết vâng lời như trước nữa.
Việc các cơ quan trung ương được cắt giảm chỉ còn sáu ban, kể từ
năm 2006, là kết quả của gần hai thập niên cải cách chính trị theo hướng “Đảng
lãnh đạo nhà nước chứ không làm thay nhà nước”. Vậy mà tại Hội nghị Trung ương
Năm, ông Trọng lại cho khôi phục Ban Nội chính và Ban Kinh tế trung ương (một
ban chỉ mới được giải tán từ năm 2006).
Sau khi Hội nghị trung ương Sáu đồng ý “cơ cấu” chức ủy viên Bộ
chính trị cho các trưởng ban. Thay vì bầu bổ sung Bộ chính trị trước, Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã có những bước đi “chắc ăn”: Bổ nhiệm Nguyễn Bá Thanh và
Vương Đình Huệ làm trưởng ban rồi mới đưa ra Trung ương bầu bổ sung. Kết quả cả
hai đều không đắc cử.
Đây không chỉ là vấn đề tiêu chuẩn cá nhân
của ông Huệ hay ông Thanh mà là “sự nổi loạn” của các ủy viên trung ương. Có lẽ
không mấy trung ương ủy viên không từng mơ tới chiếc ghế trong Bộ chính trị cao
sang, và giờ đây không ít người trong số họ không muốn chỉ ngồi nhìn những kẻ
có tiền qua mặt mình, hoặc không muốn chấp nhận nguyên lý “mười năm phấn đấu
không bằng một lần cơ cấu”.
Sau thất bại ở Trung ương Bảy, lẽ ra ông Trọng và Bộ chính trị phải
nhận ra trong Đảng đã tự diễn biến, các phương thức chính trị cổ hũ đã không
còn thích hợp với thực tiễn hiện nay. Thời kỳ các lãnh tụ áp đặt niềm tin cá
nhân lên toàn đảng, toàn dân tộc đã qua, ngay trong nội bộ của hệ thống toàn
trị cũng cần phải có những chính trị gia thật sự.
Thay vì dừng lại để tìm một hướng đột phá, lấy phương thức vận động
tranh cử để làm “công tác cán bộ trong tình hình mới”, Trung ương Bảy vẫn thông
qua chiến lược nhân sự cho Đảng tới 2021 và vẫn dựa trên nguyên tắc “cơ cấu” và
“quy hoạch”.
Năm 2001, khi Trưởng ban Tổ chức trung ương Nguyễn Văn An được cơ
cấu làm Chủ tịch Quốc hội, tôi đặt vấn đề “tranh cử trong đảng” với ông. Ông An
lúc ấy cho rằng: “Tranh cử không khéo sẽ thành tranh giành, cục bộ. Hiện giờ
trong Đảng mình chỉ bàn bạc dân chủ rồi phân công. Đảng phải làm sao đảm bảo có
dân chủ mà trong Đảng vẫn giữ được sự thống nhất” (Thời báo Kinh Tế Sài Gòn
28-6-2001). Giờ đây, ông Nguyễn Văn An cũng phải nhận ra rằng chính “sự thống
nhất” nếu còn thì chỉ để cho một số cá nhân lũng đoạn.
Nếu như tiến trình tranh cử trong đảng diễn ra công khai, thì người
thực sự tài hơn trong đội ngũ hiện tại sẽ vượt lên; đội ngũ kế cận sẽ tự nó
xuất hiện chứ không phải chỉ những kẻ biết làm vừa lòng cha chú được cơ cấu.
Đặc biệt, nếu tiến trình tranh cử bắt đầu nhiều tháng trước các dịp
bầu bán, thì không cần “Nghị quyết trung ương Bốn”, các ứng cử viên sẽ giúp
Đảng phát hiện tài sản nổi, tài sản chìm, bồ nhí, con rơi…Giúp dân chúng hiểu
được kẻ nào đã ban hành những chính sách hại dân, hại nước. Chính sự “rạn nứt”
do tranh cử sẽ tạo ra một tiền đề mới cho cải cách chính trị.
Bản chất của độc tài, toàn trị là đối lập với dân chủ. Tuy nhiên
trong điều kiện đảng vẫn cứ một mình cầm quyền và dân chưa biết làm thế nào để
thay đổi tương lai chính trị của mình thì áp dụng một số phương thức dân chủ
trong đảng cũng giảm được cho nước, cho dân phần nào tai họa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét