30 tháng 5, 2013

Con cháu các cụ (4C) ở Việt Nam

Lâm Văn Bé

Xin nói ngay các cụ đây không phải các cụ già trong hàng dân dã mà là các cụ ủy viên trong Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Chế độ Cộng Sản Việt Nam hôm nay không phải chỉ là chế độ đảng trị mà thực sự là một chế độ quân chủ chuyên chế trong đó tập thể con cháu, hàng họ các đảng viên cao cấp thay phiên nhau cầm quyền và bóc lột người dân giống như thuở các triều đại khi xưa.
Bài viết sau đây là một sưu tập các 4C, tuy chưa đầy, nhưng đủ để cho thấy chế độ Cộng Sản Việt Nam từ thời Hồ Chí Minh cho đến nay chỉ là một thứ gia đình trị, tập hợp các đảng viên cao cấp bạo ngược, phân chia quyền lực và quyền lợi từ cha đến con, cả đến hàng họ xa gần và bè đảng đã đưa xã hội đến chỗ vô đạo, đất nước đến chỗ nghèo đói, và hiểm họa Bắc thuộc lần thứ tư như điều không tránh khỏi.
Con của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2006 – )
Chúng tôi bắt đầu với người có nhiều quyền lực, gian xảo và tham nhũng nhất nước hiện nay là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Lý lịch của Nguyễn Tấn Dũng thật mù mờ. Trên trang mạng của Nguyễn Tấn Dũng ghi là sinh năm 1949 tại Cà Mau, nhưng ngôi nhà tự nguy nga của Dũng thì ở Rạch Giá. Ông Hoàng Dũng, một cán bộ Văn phòng Trung ương đảng đã làm việc với nhiều ủy viên cao cấp trong đảng, đã tiết lộ nhiều bí mật về đời tư của nhiều người lãnh đạo. Về Nguyễn Tấn Dũng, ông viết : «Theo cụ Nguyễn văn Linh, Tổng Bí Thư, thì trong thời gian Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Liên khu ủy Khu IV từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng và cụ còn cho biết là Nguyễn Tấn Dũng còn có một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh.
Cũng trong tài liệu nầy, ông Hoàng Dũng tiết lộ là có gặp nhiều lần Nguyễn Tiến Thắng (Tư Thắng) là em của Nguyễn Tấn Dũng (Ba Dũng). Ông viết về Tư Thắng như sau : Điều tôi quan tâm nhất là anh ta có quan hệ với nhiều người Đài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Đài Loan hoạt động chui tại VN là First China Bank. Như vậy, có thể hiểu được đây chính là «sân sau» của Ba Dũng và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba Dũng đã nhắm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam Bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngã Đài Loan… (Hoàng Dũng 09/10/2006 Những bí ẩn về Nguyễn Tấn Dũng, trang mạng winc100.multiply.com/journal/item/261/261)
Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy (Paris), căn cứ vào sự nâng đỡ tận tình của tướng Lê Đức Anh (chủ tịch nước 1992-1997, nay đã hơn 90 tuổi nhưng vẫn còn uy thế trong Trung ương đảng) lại đưa giả thuyết không những Nguyễn Tấn Dũng mà cả Nguyễn Minh Triết đều là con rơi của Lê Đức Anh (cần phân biệt với tướng Lê Hồng Anh, là đàn em được Dũng cất nhắc cho làm Bí Thư Tỉnh Rạch Giá, rồi phong quân hàm đại tướng, Bộ trưởng bộ Công An cho đến tháng 8/2011)
Dù là con của ai, căn cứ vào lý lịch và đường hoạn lộ thênh thang của Dũng, chắc chẳn Dũng là con rơi của một cán bộ cao cấp cộng sản. Lúc 12 tuổi, Dũng đã bỏ học (vừa học xong bậc tiểu học) đi làm du kích, y tá cứu thương ở vùng Cà Mau rồi chính ủy tiểu đoàn, trung đoàn ở vùng Cà Mau, tiến lên đến Tỉnh ủy Kiên Giang. Trong thời gian nầy (1980-1985), Dũng đã có công bắt nhóm Trần Văn Bá (bị xử tử), Mai Văn Hạnh được tha trở về Pháp vì là bạn học cũ của thủ tướng Pháp thời đó. Ngoài ra, Dũng còn tổ chức những cuộc vượt biên bán chính thức ở Rạch Giá và Hà Tiên để làm giàu cho đảng và cho cá nhân. Nhờ Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh cất nhắc, Dũng được đưa về trung ương làm Thứ trưởng Công An (1995-1996), Thống đốc Ngân hàng, Phó Thủ Tướng rồi Thủ Tướng (thay thế Phan Văn Khải) từ tháng 11-2006 và được tái cử trong kỳ đại hội đảng lần thứ XI (2010). Thử tưởng tượng một người vừa học hết tiểu học (sau nầy có học trường đảng cho có lệ, nhưng trong lý lịch ghi là Cử Nhân Luật), mà được đưa lên làm thống đốc ngân hàng trong thời kỳ kinh tế Á châu bị khủng hoảng, và thủ tướng của một quốc gia có nhiều liên hệ với các cường quốc, thì phải hiểu là việc lãnh đạo quốc gia đối với cộng sản là việc riêng của đảng. Ngoài ra, Nguyễn Tấn Dũng lại là người có nhiều mưu trí và thế lực trong Trung ương đảng, là đảng viên cao cấp duy nhất sớm gởi con du học ở Mỹ và làm sui gia với Việt kiều, điều cấm kỵ tối hậu của đảng. Báo chí thuật lại trong lần họp hội nghị APEC năm 2006, Tổng Thống George Bush chúc mừng xỏ xiên Dũng có con du học ở Mỹ và lấy Việt kiều, Dũng bối rối phải chống chế là con trai đi học bằng học bổng (có lẽ để biện hộ với lương của thủ tướng độ 1000 mỹ kim thì làm sao có thể cho con du học) và lờ đi chuyện con gái lấy Việt Kiều.
Đứa con mà Bush nhắc đến là Nguyễn Thanh Nghị, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư công chánh (Structural Engineering) ở đại học George Washington University, và khi về VN giảng dạy tại đại học Kiến Trúc thành phố HCM, rồi Phó Hiệu Trưởng (Phó Khoa Trưởng) trường nầy. Trong đại hội đảng lần thứ XI, Dũng đã dọn đường lãnh đạo cho con bằng cách đưa Nguyễn Thanh Nghị vào làm ủy viên dự khuyết trong Trung ương đảng và ngày 11-11-2011, Dũng đã bổ nhiệm con trai mình làm Thứ Trưởng Bộ Xây Dựng mặc dù bộ nầy đã có 5 thứ trưởng (Dũng đã hèn nhát không ký tên trên nghị định bổ nhiệm mà sai phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký thay). Tại VN hiện nay, hai mỏ vàng để hốt bạc và tham nhũng là ngành xây dựng (đất đai và địa ốc) và hải quan. Về mặt kinh tế, từ nhiều năm nay, Nghị có liên hệ mật thiết với Công ty Betexco là đại công ty xây cất các tòa nhà chọc trời ở Saigon và HàNội. Tầm hoạt động của Betexco còn bao trùm cả kỹ nghệ may dệt, vô chai và thủy điện. Như vậy, Nguyễn Thanh Nghị là cột trụ chính trị và kinh tế cho gia đình Dũng và cho đảng Cộng Sản.
Đứa con lấy Việt kiều tên là Nguyễn Thanh Phượng, du học ở Thụy Sĩ, đậu MBA ở International University in Geneva là đại học có liên kết với Michigan State University (cô chỉ đến Mỹ năm 2004 trong 2 tuần để nhận bằng từ đại học nầy chớ không có du học tại Mỹ). Tháng 1 năm 2006, lúc mới 26 tuổi, Phượng đã làm Giám đốc đầu tư của công ty Vietnam Holding Asset Management, quản trị trên 100 triệu MK của các nhà đầu tư Thụy Sĩ tại VN. Đến tháng 11 cùng năm, Phượng làm Chủ tịch Quỹ đầu tư chứng khoán Việt (Viet Capital Fund Management Joint Stock Company, viết tắt là VCFM) gồm hàng ngàn tỷ bạc (VN) của các nhà đầu tư và công ty người Việt. Công điện Wikileaks tiết lộ là trong báo cáo của Tổng Lãnh sự Hoa kỳ tại Saigon là Seth Winneck gởi về Bộ Ngoại giao ngày 26/12/2006 đã viết : « Tại sao người ta có thể tin tưởng để giao một số vốn khổng lồ như thế cho một người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm như Phượng. Và câu trả lời hiển nhiên là về mặt chính trị, giao quỹ đầu tư cho cô con gái cưng của thủ tướng quản trị là một điều khôn ngoan bởi lẽ quỹ nầy tập trung những ngành mà chánh phủ kiểm soát như dầu khí, ngân hàng và truyền thông »
(danluan.org/node /10093).

Năm 2011, Phượng 31 tuổi là một tỷ phủ, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công ty Chứng khoán Bản Việt sở hữu 6,5 triệu cổ phần chiếm 43,2% vốn của công ty, Chủ tịch HĐQT Công ty bất động sản Bản Việt và vài ngày trước khi người anh được cử là thứ trưởng, Phượng được đề cử vào HĐQT Ngân hàng Bản Việt ( trước có tên là Gia Dinh Bank) với số vốn là 3000 tỷ VN. Với các thành tích trẽn, Phượng là nhà doanh thương trẻ tuổi kỳ tài nhất của thế giới !
Người chồng của cô Phượng là Nguyễn Bảo Hoàng (Henry Nguyen) con của Việt kiều «tội đồ» Nguyễn Bang (Nguyễn Tấn Dũng đã gọi Việt Kiều Nguyễn Cao Kỳ là tên tội đồ). Henry Nguyễn là Tổng Giám Đốc Điều Hành công ty IDG Ventures với số vốn là 100 triệu MK (sau tăng lên 200 triệu) phần lớn do người anh rể là Thomas Connor, một tài phiệt Mỹ đã làm ăn với Bộ Viễn Thông Bưu Chính Việt Nam, kiểm soát hầu hết hệ thống thuê bán Internet và truyền thông tại VN. Thomas Connor đã một lần khai phá sản, nhưng số đầu tư vẫn gia tăng, do đó câu hỏi đặt ra phải chăng các công ty do vợ chồng Phượng-Hoàng quản trị là cửa ngõ hợp pháp cho cha vợ và đồng bọn rửa tiền, tẩu tán tài sản tham nhũng ra ngoại quốc.
Đứa con thứ ba của Dũng là Nguyễn Minh Triết, học kỹ sư hàng không ở đại học Queen Mary tại Anh Quốc, và đã có giữ chỗ ở Bộ Quốc Phòng khi về nước. Gia đình Nguyễn Tấn Dũng là điển hình của chế độ con vua thì lại làm vua tại VN hôm nay.
Con của nguyên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh (2001-2010)
Trong kỳ hợp đảng lần thứ XI còn có một 4C thứ hai cũng được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, tạo nên nhiều tai tiếng là Nông Đức Tuấn, con trai của Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh (2001-2010). Cá nhân Nông Đức Mạnh cũng đã là một 4C, con rơi của Hồ Chí Minh với Nông thị Ngát, bí danh là Nông Thị Trưng. Được báo chí hỏi có phải Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh hay không, Mạnh đã trả lời lửng lơ «Ở đất nước nầy ai chẳng là con cháu của Bác».
Nông Đức Tuấn sinh năm 1963, người dân tộc Tày, đã đi lao động xuất khẩu tại Đông Đức từ lúc 18 tuổi, lúc ấy Nông Đức Mạnh đã làm Tỉnh ủy tỉnh Bắc Thái. Sở dĩ cha làm quan mà đưa con đi lao động xuất khẩu vì cha muốn đưa con ra ngoài nước để cai nghiện khỏi xấu hổ. Từ khi trở về nước cuối năm 1988 cho đến năm 2008, Tuấn lêu bêu với mấy chức vụ trong Đoàn Thanh niên và Ủy Ban Sắc tộc. Để dọn đường cho con trai làm lãnh tụ, Nông Đức Mạnh «dàn xếp » với Thủ Tướng Dũng cử Nông Đức Tuấn làm Phó tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang vào tháng 4 năm 2009. Vận may đến với Tuấn là khi người thanh niên tên Nguyễn Văn Khương bị công an tỉnh Bắc Giang đánh chết và dân chúng xuống đường đòi nợ máu với chánh quyền, Tỉnh ủy Bắc Giang tên Đào Xuân Cẩn bị ép buộc từ chức để nhường ghế Tỉnh ủy cho Tuấn. Khi Đại hội Đảng họp lần thứ XI, tuy Mạnh bị mất chức Tổng Bí Thư nhưng lại gài được cho con vào ghế Ủy viên Trung ương, mở đường cho chế độ cha truyền con nối dòng họ Nông.
Con của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn (1960-1986)
Lê Duẩn là người Tổng bí thư cầm quyền lâu nhứt của chế độ Cộng Sản VN. Từ 1960 đến 1976, Lê Duẩn là Bí Thư thứ nhứt của đảng và từ sau 1976, chức vụ được đổi là Tổng bí thư, chức vụ mà Duẩn nắm giữ cho đến khi Duẩn mất năm 1986. Trong lý lịch các nhân vật cao cấp cộng sản, Duẩn cũng như Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí được xếp vào hạng vừa dốt, vừa độc tài và đa thê. Vì nhiểu vợ, Duẩn có nhiều con, trong số có nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong chánh phủ và cơ sở kinh tế đầu não. Theo Hứa Hoành, thuở sinh thời, Lê Duẩn có ba vợ, bà vợ chính tên Cao thị Khê ở Quảng Trị cưới khi Duẩn 20 tuổi, có em là Cao Xuân Diệm, sau nầy trở nên Trung tướng công an bí danh Dương Thông phụ trách đàn áp văn nghệ sĩ. Bà thứ hai là Đỗ Thị Sảnh. Năm 1942, khi hoạt động trong Nam, Lê Duẩn dùng thủ đoạn cưới thêm bà Thụy Nga, cháu gọi ông Đỗ Hữu Vị (đại úy phi công VN đầu tiên trong quân đội Pháp). Ngoài ba bà vợ, Lê Duẩn còn lăng nhăng với nhiều người khác, trong đó có bác sĩ Hồ Thị Nghĩa, con của Hồ Viết Thắng, Phó chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước trong thập niên 80. Theo nhà văn Xuân Vũ, bà Thụy Nga đã có người yêu nhưng bị Lê Đức Thọ dàn xếp lừa bà vào một căn lều vắng để Lê Duẩn đến cưỡng hiếp khiến bà phải chịu làm vợ ba. (Hoàng Dung, tr.83, 84)
Trừ Lê Hãn, Giám Đốc Tiếp Liệu cho các trường quân sự nay đã về hưu, các người con khác của Lê Duẩn đảm nhiệm các chức vụ béo bở như sau :
- Lê Kiến Trung : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hải quan Thành phố HCM, hiện nay là Phó Tổng Cục An Ninh, Bộ Công An.
- Lê Kiến Thành : là tỷ phú, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Techcombank (1994-2004), chủ tịch Công ty xây dựng và phát triển đô thị và hiện nay là Tổng Giám Đốc Công ty chế biến thực phẩm Thái Minh. Ngoài ra, Thành còn là Phó Chủ Tich thường trực Hội Golf Việt Nam, một loại kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận do các 4C độc quyền nắm giữ. Báo chí trong nước hồi tháng 10/2011 xôn xao vì Lê Kiến Trung đã công kích và nói xách mé Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải là Đinh La Thông khi ông nầy cấm nhân viên của Bộ Giao Thông chơi golf. Bức thư của Lê Kiến Thành có đoạn như sau :«Vấn đề giao thông thấp kém lạc hậu, đầu tư vào giao thông như muối bỏ bể, một con đường quy hoạch cho 30000 dân, giờ phải tải cả triệu người, điều nầy đã tồn tại ngót 30 năm nay. Hẳn ông Bộ Trưởng cũng biết golf mới du nhập vào VN chừng 10-15 năm nay, vậy trước khi có golf điều gì đã ảnh hưởng tới chất lượng lãnh đạo của cán bộ giao thông vận tải. Chơi golf không có tội, lãnh đạo trước hết phải thượng tôn pháp luật» (bee.net.vn/channel/1988/201110ngày24/10/211)
Việc tranh chấp giữa ông con của cựu bí thư bố già và ông bộ trưởng khoác lác là điễn hình của chế độ luật rừng và thế lực của 4C tại VN hôm nay.
- Lê Thị Muội : Hoàng hữu Quýnh trong tác phẩm «Tôi bỏ đảng» đã viết về cô gái nầy như sau : Trong số du học sinh VN tại Liên Sô có 3 đứa con của Lê Duẩn, học dốt nhưng lại đài các nhất. Đó là Lê Hản học tại đại học quân sự không quân, Lê thị Hồng và Lê Thị Nga.
Lê thị Hồng có tên thật là Lê Thị Muội. Là con đẻ của anh Ba, nhưng Lê thị Hồng không đồng quan điểm với ba mình. Triết lý sống của Lê thị Hồng là sống phải cho ra sống. Phải được thoải mái về mặt tinh thần. Về vật chất phải có miếng ăn ngon, phải mặc đẹp và phải biết tận hưởng mọi hạnh phúc khi tình yêu đến. Hồng đi nghỉ hè và «hành nghề» tại hải cảng Sochi trên bờ biển Hắc Hải. Không chỉ Hồng làm cái «nghề đó», các nữ sinh Liên Sô cũng vậy (Tôi bỏ đảng, tr.105). Khi về nước, Lê Thị Muội được cử làm Phó Bộ Trưởng bộ Nội Thương.
- Lê Vũ Anh tên thật là Lê Thị Nga: du học ở Nga, cãi lời cha ở lại lấy ông thầy người Nga tên Marlov, sau đó chết vì tai nạn xe cộ. Người ta đồn cái chết nầy do Lê Duẩn ra lịnh giết để giữ uy tín cho ông, (Hoàng Dung, tr. 131) không muốn cho con kết hôn với người ngoại quốc, điều cấm kỵ của đảng, ngay cho người ngoại quốc đó là người Nga. Điều nầy cho thấy việc Nguyễn Tấn Dũng làm sui gia với Việt kiều là một dấu hỏi lớn, phải chăng đảng đã cho phép để tẩu tán tài sản tham nhũng của đồng bọn.
Con của Lê Đức Thọ (Trưởng Ban tổ chức đảng, Ủy Viên Bộ chính trị 1956-1986)
Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải là anh của Phan Đình Đồng (bí danh là Mai Chí Thọ) và Phan Đình Dinh (bí danh là Đinh Đức Thiện). Cả 3 anh em đều không coi trọng dòng họ của tổ tiên, giữ bí danh cho đến khi chết, thậm chí con của Lê Đức Thọ vẫn mang họ Lê là Lê Nam Thắng hiện là Thứ Trưởng thường trực Bộ Thông Tin và Truyền Thông (nghĩa là thứ trưởng số 1, ưu tiên thay Bộ Trưởng). Mai Chí Thọ là Đại Tướng, trùm Công An miền Nam sau 1975, còn Đinh Đức Thiện được phong là Thượng Tướng, giữ nhiều chức vụ cao cấp mà chức vụ sau cùng là Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Như vậy cha con chú cháu đều nắm giữ các chức vụ then chốt trong đảng và chính phủ.
Lê Đức Thọ và Lê Duẩn có nhiều điểm giống nhau : độc tài, gian xảo, cầm quyền sinh sát trong đảng lâu năm (từ 1948 đến 1986), có vào Nam công tác (Xứ Ủy Nam Bộ 1948-54, chính ủy cuộc đại tấn công miền Nam 1975) và đặc biệt là dâm đảng.
Ông Bùi Tín nói rõ là 2 bà vợ của Lê Đức Thọ ở chung một nhà trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Hànội, xưa là biệt thự của viên Hiệu trưởng trường Albert Sarraut, cùng ăn chung một bàn với ông chồng và con cái theo tinh thần Nam-Bắc đề huề. Đúng là một nhà tổ chức đại tài. (Mặt Thật, tr.177).
Trong Lớn lên với đất nước, tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên, sau trở về thành, du học ở Mỹ và trở về nước làm Tổng thơ ký một đại học VNCH xác nhận là Lê Đức Thọ đã dùng những thủ đoạn đê tiện hãm hiếp nữ cán bộ khi làm Xứ Ủy Nam Bộ. «Một đêm chị Thanh đang ngủ, bác Sáu (tức Lê Đức Thọ, mà trong khu gọi là Sáu Búa, chú thích của người viết) mò vô mùng chị. Chị sợ quá tốc mùng chạy la làng, làm lối xóm náo động. Đội bảo vệ bắn súng như Tây tới …» (Vy Thanh, tr. 290)
Con của tướng Nguyễn Chí Thanh
Tên là Nguyễn Chí Vịnh, sinh năm 1957, là con út của tướng Nguyễn Chí Thanh, và là em một cha khác mẹ với Nguyễn Tấn Dũng như lời đồn đãi Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh. Vịnh học ở trường đại học quân sự ở Vĩnh Yên, nhưng chưa tốt nghiệp, được tướng Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng bộ Quốc Phòng rồi sau là Chủ Tịch nước nhận làm con nuôi (cũng giống như trường hợp của Dũng). Nguyễn Chí Vịnh kết hôn với con gái của Đặng Vũ Chính, Tổng cục trưởng Tổng Cục 2 là một cơ quan có quyền hành vô hạn và ngân sách khổng lồ bao trùm các hoạt động tình báo, quốc phòng, kinh tế, văn hóa của nước. (Cộng Sản có nhiều Tổng cục (TC) như : TC An Ninh, TC Cảnh Sát, TC Tình Báo, TC Xây Dựng, TC Hậu Cần…Mỗi Tổng Cục có nhiều Cục, thí dụ như TC An Ninh có cục A25 đặc trách về báo chí, Cục A18 kiểm soát ngoại kiều và Việt kiều, Cục A41 đặc trách về tôn giáo, Cục A24 chuyên về kiểm tra, xét hỏi, Cục A42 theo dõi bắt bớ những người chống chế độ. Những Tổng Cục trưởng và Cục trưởng đa số là ủy viên Trung ương đảng hay hàng họ với lãnh đạo cao cấp).
Đặng Vũ Chính đưa cả gia đình vào nắm các chức vụ then chốt của Tổng Cục. Con rể là Nguyễn Chí Vịnh là Tổng Cục Phó, con trai là Đặng Vũ Dũng từ lao động xuất khẩu trở về nước giữ chức Giám đốc Công ty xây dựng Hồng Bàng, hai con gái là Đặng Thị Mai và Đặng Thị Tuyết mang quân hàm đại úy phụ trách công tác mật, vợ gốc là con buôn đảm nhiệm giám đốc Khách sạn Hoàng Đế và chi nhánh công ty Decatour ở miền Trung. Riêng Nguyễn Chí Vịnh, với sự nâng đỡ tận tình của cha vợ và cha nuôi được thăng cấp từ đại úy lên đại tướng trong một thời gian kỷ lục mà trong lịch sử quân đội chưa bao giờ có. Khi Đặng Vũ Chính về hưu, Nguyễn Chí Vịnh lên thay làm Tổng Cục Trưởng.
Bộ ba Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, Lê Đức Anh dùng nhiều thủ đoạn tinh vi như thu âm lén điện thoại, chụp ảnh (như khi Lê Khả Phiêu tằng tịu với 2 nữ nhân viên trong phái đoàn công du sang Pháp) để làm áp lực khuynh đảo các ủy viên trong Trung ương đảng hay các đối thủ bởi lẽ tất cả các chóp bu của đảng đều làm điều phi pháp, tham nhũng. Nhóm nầy còn tạo chiến dịch hạ nhục Võ Nguyên Giáp như Giáp là con nuôi của trùm mật thám Pháp Marty, Giáp là tướng bất tài, sợ chết (trong trận Điện Biên Phủ, Giáp nằm trốn trong hầm để cho Nguyễn Chí Thanh và Hoàng Văn Thái chỉ huy, nhưng khi thắng trận thì giành công; khi đánh Mỹ thì sợ bom nên không dám vào Nam), tằng tịu với vợ nhà văn Đào Vũ khi bà nầy đến dạy dương cầm. Sau khi làm mưa làm gió ở Tổng Cục 2, Vịnh được chuyển qua làm Thứ trưởng bộ Quốc Phòng và được đưa vào Ủy viên Trung ương đảng kỳ đại hội XI.
Nguyễn Chí Vịnh còn có người chị tên là Nguyễn Thị Thanh Hà có thời là Phó Cục Trưởng Cục Hàng không Việt Nam.
Con của nguyên Chủ tịch Lê Đức Anh (1992-1997)
Lê Đức Anh hiện là «bố già» trong đảng cộng sản mafia, là người lãnh đạo quân sự và chính trị cộng sản từ hơn nửa thế kỷ qua, cực kỳ thân Trung Quốc. Cả 2 ông đại tướng tên Anh (Lê đức Anh và Lê hồng Anh) đều là hai cây dù của Nguyễn Tấn Dũng (Đức Anh là dù to, Hồng Anh là dù bọc hậu) và cả hai đều xuất thân là phu cạo mủ cao su ở Hớn Quản.
Con trai của Lê Đức Anh là Lê Mạnh Hà hiện là Phó Chủ Tịch Ùy Ban Nhân dân TP HCM. Ông Hà được học bổng Fulbright du học ở Harvard từ 1998 đến 2000. Con dâu là Nguyễn thị Đoan là Phó Chủ tịch nước (thay Trương Mỹ Hoa) từ 2007 đến 2010. Bà Đoan có tiến sĩ ở Bulgarie và có tu nghiệp ở Pháp.
Những tân ủy viên Trung ương đảng trong kỳ đại hội đảng lần thứ XI (2010)
Được vào ủy viên Trung ương đảng là bảo đảm một chức vụ cao cấp, béo bở trong chánh phủ nên cuộc chạy đua vào chức vụ nầy thường diễn ra trong hậu trường với nhiều cuộc liên kết phe nhóm, tranh chấp ác liệt và đòn phép bẩn thỉu. Ngoài các nhân vật vừa kể, trong đại hội đảng lần thứ XI còn có các tân ủy viên sau đây :
- Nguyễn Xuân Anh sinh năm 1976 là con của Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Kiểm Tra trung ương. Nguyễn Xuân Anh nhảy vọt từ Bí thư huyện Liên Châu (Đà Nẳng) đi thẳng vào Trung ương đảng. Tháng 7/2011, Anh được bổ nhiệm Phó chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẳng và chắc chẳng bao lâu sẽ là chủ tịch, nắm giữ thành trì của miền Trung.
- Trần Sĩ Thanh, sinh năm 1972. Phó bí thư tỉnh ủy Darlac là cháu của Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ Tướng (Nguyễn Sinh Hùng là cháu của Hồ Chí Minh). Darlac hiện nay là một vùng béo bở, có nhiều tài nguyên và nhiều cơ sở kỹ nghệ của ngoại quốc đã và sẽ thành lập tại đây.
- Trần Bình Minh : Phó Tổng giám đốc đài truyền hình VN là con trai của Trần Lâm, nguyên Tổng giám đốc đài Tiếng nói VN.
- Nguyễn thị Kim Tuyến, Thứ trưởng Bộ Y tế là cháu ngoại của cố Tổng bí thư Hà Huy Tập.
Điểm đáng lưu ý là Cộng Sản đặt chỗ cho con cháu trước tiên vào ghế số 2 ở mỗi cơ quan bằng các chức vụ như phó (Phó Tổng Cục, Phó Cục, Cu Phó Giám đốc, Phó ban..), hay thứ (Thứ Trưởng) để chờ khi các ông số 1, vốn đang có những dù lộng cũng to để chiếm chỗ khi các ông số 1 về hưu, được điều động đi nơi khác để nhường chỗ, hay bị hất chân khi cái gốc không còn đứng vững.
Những hình thức « truyền ngôi » cho con cháu, hàng họ trong chế độ Cộng Sản
Không thể nào kể hết chi tiết các tên họ những 4C, bởi lẽ chế độ con ông cháu cha cộng sản chằng chịt ngang dọc từ trung ương đến địa phương như những dây leo, hay đúng ra như những tế bào độc hại của bịnh ung thư tràn lan khắp cơ thể, chúng tôi xin tóm tắt tổng quát cách truyền ngôi, tập quyền và tản quyền của hệ thống 4C theo như tổ chức mafia dưới 3 hình thức chính yếu là: tham chính, lập công ty kinh doanh, kết thông gia và bè đảng.
*Tham chính
Thông thường, những người có học, có khả năng thường được đề cử, bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy trong các cơ quan của đảng hay chính phủ. Ngoài những nhân vật kể trên, cần kể thêm một số nhân vật đang tại chức hay vừa rời chức vụ gần đây.
- Nguyễn Thiện Nhân : Phó thủ tướng là con của y sĩ Đông Dương Nguyễn Thiện Thành, gốc người tỉnh Trà Vinh (có tài liệu ghi là Biên Hòa) một cán bộ cao cấp cộng sản đã tham gia từ phong trào Việt Minh. Mặc dù Nguyễn Thiện Nhân đậu tiến sĩ ở Đông Đức và có tu nghiệp ở Harvard, đã bị mất chức Bộ Trưởng bộ Giáo Dục vì bất tài nhưng lại thích phô trương, đã đưa nền giáo dục VN đến chỗ lạc hậu, nhưng vẫn được tiếp tục lưu nhiệm chức vụ Phó thủ tướng, đúng như lời mỉa mai của giáo sư Hoàng Tụy, một nhà giáo dục được trong nước và ngoại quốc nể trọng : Bộ giáo dục (ý nói ông Nhân) trơ như đá, vững như đồng.
- Phạm Bình Minh : hiện là Bộ Trưởng Bộ ngoại giao, con của Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương), phụ tá cho Lê Đức Thọ trong hội nghị hòa đàm Paris và là Bộ Trưởng bộ ngoại giao sau đó (1980-1991). Có tin là con của Phạm Bình Minh cũng đang du học ngành ngoại giao hi vọng nối nghiệp cha ông.
- Trần Tuấn Anh : nguyên lãnh sự Việt Nam tại Hoa Kỳ (San Francisco) là con của chủ tịch Trần Đức Lương.*
* Lập công ty
Những con cháu cán bộ cao cấp không có khả năng học vấn hay thiếu đạo đức (thực ra ông cha cũng đã thiếu đạo đức, nhưng thành phần các ông con nầy trác táng, lêu lỏng, không thể đảm nhiệm vai trò chỉ huy) thì quay ra kinh doanh, lập công ty. Thực ra những công ty nầy chỉ là bình phong để lợi dụng danh nghĩa của ông cha mà làm giàu phi pháp. Số 4C loại nầy thì kể sao cho hết bởi tràn lan khắp nơi ăn chịu với khắp các cơ quan. Chỉ đan kể vài tên con cháu của các cấp lãnh đạo ở Trung ương đảng.
Con rể của Võ Nguyên Giáp
Tên là Trương Gia Bình, là một tỷ phủ, giám đốc công ty FPT, là một trong những công ty lớn nhất nước cung cấp dịch vụ internet, truyền thông.

Con rơi của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt
Võ văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, người được xem là cấp tiến, mở đầu cho phong trào đổi mới kinh tế. Nhân nói đến đứa con rơi của Võ văn Kiệt tên Phan Thành Nam, tưởng cần nói qua về đạo đức tồi tệ của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản.

Ông Hoàng Dũng, Thư ký Văn phòng Trung Ương đảng đã viết về lai lịch của Phan Thành Nam như sau : Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ biết rằng cụ Hồ gặp những khó khăn và thiếu thốn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình với người vợ cũ ở Trung Quốc nhưng bị phản đối, do vậy bộ Chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tình dục. Đặc biệt từ thuở còn thanh niên, cụ Hồ đã có một mối tình rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật nầy đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết «Đi tìm Út Huệ»). Biết thế nên lúc nầy Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục miền Nam phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một số cô gái còn trẻ đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong bộ Chính trị (đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ). Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt nầy. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc có một cô còn trẻ và sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lỡ thì cô gái đã có thai mấy tháng, thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là Phan Thành Nam.
Phan Thanh Nam hiện nay là một tỷ phú đỏ, Tổng Giám Đốc Công Ty quốc doanh Tracodi, chuyên về «xuất khẩu lao động», xuất cảng hàng hóa, xây cất và du lịch.
Điều cần nói thêm là ông Kiệt cũng có chính thức 2 vợ : bà vợ cả tên là Trần Kim Anh và 3 đứa con đã chết trong chiến tranh, chỉ còn lại đứa con gái tên là Võ Hiền Dư. Ông lấy vợ kế là Phan Lương Cầm nổi tiếng tham nhũng được các công ty đặt tên là Bà Mười Cầm vì tất cả các dự án đầu tư đều phải đóng «hụi chết » cho bà ít nhứt 10%.
Con của nguyên thủ tướng Phan Văn Khải
Tên là Phan văn Tỵ tục danh là Hoàng Tỵ là một tay du đãng chọc trời khuấy nước, có lần vì tranh giành địa bàn buôn lậu đã bắn chết Phạm Văn Hưng là sĩ quan công an, con của Phạm Thế Duyệt cũng là đảng viên trong Trung ương đảng, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Về kinh doanh, Hoàng Tỵ lợi dụng thế lực của cha và của các đồng chí của cha, nhập cảng lậu xe hơi cũ rồi tân trang lại bán sang Trung Đông, nhập cảng xe đạp mới nguyên chiếc từ Thái Lan, Singapore đem tháo ra từng bộ phận rồi lắp ráp lại (bởi luật VN lúc ấy chỉ cho phép bán xe đạp lắp ráp ở VN), bán với giá gấp đôi gấp ba. Hoàng Tỵ cũng là chủ nhân của hai đại khách sạn Hoàng Gia và Planet ở Saigon và HàNội, cho du khách ở tại hai khách sạn nầy được ưu tiên khỏi bị xét hỏi khi đến và khi rời phi trường. Nhờ tất cá mánh khoé và thế lực, Hoàng Tỵ cũng là một tỷ phú.
Con của Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng bộ Quốc Phòng
Phùng Quang Thanh xuất thân là một bộ đội không có học thức nhưng nhờ phe cánh thân Trung Cộng trong đảng nên được phong quân hàm đại tướng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng từ nhiều năm nay. Con trai của Phùng Quang Thanh là Phùng Quang Hải, lý lịch cũng không ghi học lực và trường đào tạo, nhưng mang cấp bậc Thượng tá, là Tổng giám đốc Công ty xây dựng 319 là một công ty quốc doanh bao gồm hơn mươi công ty hoạt động trong lãnh vực xây cất, cung cấp vật dụng cho quân đội và các cơ quan chính phủ trên địa bàn khắp nước. Đây là một nguồn lợi khổng lồ cho gia đình họ Phùng và các phe cánh trong đảng để tham nhũng và độc quyền các lãnh vực béo bở.
Nếu cần phải kể thêm thành tích của những 4C vì ăn chia không đồng đều bị tố cáo hay bị ra tòa, hay bị làm vật tế thần thì có mấy vụ gần đây như Mai Văn Dậu, Thứ trưởng Bộ Thương Mại bị ra tòa cùng với con là Mai Thanh Hải vì tham nhũng trong việc xuất nhập cảng, Đoàn Văn Kiểm, chủ tịch Hội đồng Quản Trị Tập đoàn Than – Khoáng sản bị bãi chức vì cho phép em là Đoàn Duy Thức khai thác quặng mỏ trái phép, Phạm Thanh Bình, chủ tịch Hội Đồng Quản trị Tổng đoàn Công nghiệp Tàu Thủy VN bị bắt giam vì bổ nhiệm con trai là Phạm Bình Minh (một Bình Minh khác, không phải là Bình Minh con Nguyễn cơ Thạch) vào công ty Vinashin, Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng bộ Bưu Chính Viễn Thông, bị cảnh cáo vì cho con rể là Hoàng Minh gian lận trong việc trúng thầu.
Đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị bằng bạo lực và áp dụng luật mafia ngay trong hàng ngũ đảng viên cao cấp của họ theo kiểu mạnh được yếu thua. Trong sự phá sản hàng tỷ mỹ kim của công ty Vinashin, người chịu trách nhiệm là Nguyễn Tấn Dũng thì không hề hấn gì trong khi bộ trưởng Phạm Thanh Bình bị bắt giam vì một sự bổ nhiệm. Vụ ăn hoa hồng trong việc in giấy bạc polymer ở Úc (12 triệu Úc kim) liên hệ đến nguyên Thống đốc ngân hàng Lê đức Thúy đã có bằng chứng rõ ràng thì chẳng ai bị tù tội.
Lãnh đạo Việt Nam hôm nay làm trò hề và gây ô nhục cho đất nước mà không biết nhục. Vũ Văn Hiến, Ủy viên trung ương đảng, Tổng giám đốc Truyền hình VN gởi con gái tên Kiều Trinh sang Thụy Điển tu nghiệp bị cảnh sát Thụy Điển bắt vì ăn cắp trong siêu thị, bị báo chí trong nước phanh phui nhưng vẫn được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Văn hóa – Du Lịch của đài truyền hình, chưa kể Hiến đưa bè đảng vào cơ quan để tham nhũng, bị nhân viên các cấp tố cáo nhưng vẫn bình chân như vại.
*Kết thông gia và bè đảng

Người Việt Nam ta có câu Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, những cán bộ cao cấp gian manh thường tìm gần nhau để hợp quần gây sức mạnh trong công cuộc trấn áp, bốc lộ lương dân. Những cuộc liên kết giữa các cán bộ qua các cuộc hôn nhân là một hình thức lưu chuyển quyền hành và tham nhũng theo hàng ngang và hàng chéo đến độ hệ thống tham nhũng Việt Nam hôm nay là những loại ung thư đang tàn phá một cơ thể chỉ chờ ngày bị tiêu hủy toàn diện. Dĩ nhiên không sao kể hết loại liên kết nầy, chỉ cần đan kể vài thông gia gần đây tạo nhiều tai tiếng to lớn.
Tại Việt Nam, nhắc đến tướng công an Nguyễn Đức Nhanh là người dân kinh sợ và khinh bỉ vì chánh sách đàn áp lương dân và tham nhũng của tên trùm công an nầy (đàn áp giáo dân Thái Hà). Nhanh đảm nhiệm 2 chức vụ : Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (tổng cục 1 : lo về tình báo hải ngoại, tổng cục 2 : lo về an ninh quốc nội) kiêm Giám Đốc Công An TP HàNội. Nguyễn Đức Nhanh kết thông gia với Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng bộ ngoại giao, Chủ tịch Ủy Ban nhà nước về người VN ở nước ngoài. Như vậy hai gia đình thông gia nầy đảm nhiệm vai trò chiến lược của đảng Cộng Sản và chánh phủ Việt Nam.
Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch Quốc hội (2002-2007) là con của Trương Văn Đẩu, Tỉnh ủy viên Gò Công (cũng gốc là phu cạo mủ cao su) có em là Trương thị Hiền, Hiệu trưởng trường Cán bộ TPHCM, kết hôn với Lê Thanh Hải, Ủy Viên Trung ương đảng, Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Lê Thanh Hải làm sui với Huỳnh Ngọc Sỹ nổi tiếng trong vụ tham nhũng xây xa lộ Đông Tây nối liền từ Bình Chánh đến Saigon, qua Thủ Thiêm chạy đến Cát Lái trên đường về miền Tây. Xa lộ nầy do Nhật viện trợ và giao cho công ty Nhật PCI xây cất, Huỳnh Ngọc Sỹ làm quản lý. Lúc đầu, Sỹ đòi hối lộ 15%, sau sụt xuống 10% và đã nhận 2,6 triệu MK thì bị báo chí Nhật phanh phui, 4 người đại diện công ty Nhật bị Nhật bắt giữ vì đưa hối lộ. Chánh phủ Nhật đòi Việt Nam phải có biện pháp chế tài với người nhận hối lộ là Huỳnh ngọc Sỹ nhưng VN vẫn binh vực Sỹ khiến Nhật trả đũa bằng cách ngưng tất cả tiền cho vay ODA và đòi lại 30 triệu tiền viện trợ, điều hiếm có trong lịch sử bang giao quốc tế. Trước áp lực của các quốc gia viện trợ cho VN và Mỹ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đành phải miễn cưỡng đưa Sỹ ra tòa với án chung than khổ sai, sau giảm xuống 20 năm tù. Thì ra Sỹ chỉ là vật tế thần của một tập đoàn tham nhũng, mà những án vụ tham nhũng như thế chỉ là hạn hữu trong số ngàn ngàn vụ tham nhũng chẳng bao giờ bị phanh phui bởi được bao che từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài và 700 cơ quan truyền thông trong nước chỉ là bầy két lập lại luận điệu của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn có một vài ngoại lệ khi báo chí đăng tin tham nhũng liên quan đến 4C, hoặc vì nhà báo có lương tâm, hoặc vì thanh toán nội bộ bởi chia phần không sòng phẳng. Thí dụ như trường hợp khi báo chí đăng tin tiền in của công ty TechBank của Lê Đức Minh là con của nguyên thống đốc ngân hàng Lê Đức Thúy không có phẩm chất thì hai tờ báo Thời Đại và Công Lý bị đình bản, và 6 tờ báo khác như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thủ Đô, Công Luận…bị cảnh cáo.
Về chuyện nhà báo bị khủng bố vì dám đá động đến việc tham nhũng của các 4C, tưởng cũng nên nhắc lại một vụ tham nhũng lớn bị phanh phui cách đây 5 năm, nhưng vụ án đã bị ém nhẹm vì liên quan đến các thủ phạm ở chóp bu, nhưng hai phó tổng biên tập của báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt giam và 5 phóng viên bị thu hồi thẻ hành nghề vì tội phá hoại an ninh quốc gia. Vụ tham nhũng bị vở lở khi công an bắt được 2 cầu thủ cá độ ngày 13/12/2005 và cuộc điều tra cho biết Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám ĐốcĐơn vị Quản Lý các dự án PMU-18 đã chi tiêu 2,6 triệu trong trò chơi cờ bạc nầy. PMU-18 (Project Management Unit) trực thuộc bộ Giao Thông Vận Tải (GTVT) là cơ quan phụ trách thực hiện xây cất các dự án cầu đường với số vốn 20 tỷ gồm ngân sách quốc gia và quỹ tài trợ ODA của Nhật, Tây Âu và Ngân hàng Quốc Tế (World Bank). Bùi Tiến Dũng là con trai của Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Công An, cấu kết với Nguyễn Việt Tiến (Thứ trưởng Bộ GTVT), Phạm Tiến Dũng (Trưởng phòng tài chánh), rể của Nguyễn Việt Tiến cùng với Phạm Hoàng Hải, rể của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Việt Bắc, rể của Đào Đình Binh (Bộ trưởng Bộ GTVT) cùng với nhiều bạn bè hàng họ lập ra hàng chục công ty để trúng thầu dù các công ty nầy không khả năng và không vốn. Tài sản tham nhũng của Nguyễn Việt Tiến, Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Việt Bắc, mỗi người trên trăm triệu MK. Báo Thanh Niên tiết lộ là có ít nhất 40 quan chức cao cấp liên quan đến vụ tham những khổng lồ nầy. Bị gọi ra thẩm vấn trước tòa án, Bộ trưởng Đặng Đình Binh tuyên bố «Tôi thuộc diện Trung ương quản lý» có nghĩa là chỉ trả lời với trung ương đảng mà thôi. Ngoài ra, 2 đảng viên cao cấp là tướng Cao ngọc Oánh, Cục trưởng Cục điều tra C15, Phạm Xuân Quấc, Cục trưởng Cục điều tra C14 cũng bị dính liếu, nhưng được miễn truy tố, rốt cuộc chỉ có Bùi Tiến Dũng và các « tép riêu» bị lãnh án.
Một vụ tham nhũng khác gần đây còn to tát hơn là vụ Vinashin liên quan đến thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm thất thoát 5 tỷ mỹ kim, nhưng rút kinh nghiệm đau thương vụ PMU-18, không một tờ báo nào dám hé môi. Trên thế giới, có quốc gia nào tham nhũng và ngang ngược như Việt Nam cộng sản hay không ?
Ngoài việc cấu kết quyền lực bằng kết thông gia, các cán bộ cộng sản các cấp đều kết nạp đàn em hàng họ làm vây cánh để chia chác lợi nhuận tham nhũng và bao che lẫn nhau. Điển hình như khi Nguyễn Tấn Dũng về trung ương thì kéo theo Lê Hồng Anh vào bộ Công An, Huỳnh Vĩnh Ái vào chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Thể Thao quốc gia (như Thứ trưởng), Trần Chí Liêm, Thứ trưởng Bộ Y Tế. Đọc lý lịch các cán bộ trong các cơ quan nhà nước và công ty quốc doanh, từ trung ương đến làng xã đều thấy bóng dáng của nguời chỉ huy. Một người bạn của người viết khi về thăm quê hương ở một quận lỵ thuộc tỉnh Long An gặp rất nhiều nhân viên trong quận, thậm chí đến người phu quét chợ, nói tiếng giọng «trọ trẹ» như ông huyện ủy. Trong khi đó, đồng chí Giải phóng miền Nam thì phải trở về cái chòi lá xiêu vẹo bên bờ kinh để chờ chết trong nghèo đói, và bà mẹ chiến sĩ răng rụng quần áo tả tơi đứng trước cơ quan xỉa xói « phải chi hồi đó tao kêu lính Quốc Gia bắt nhốt hết cái bọn khốn nạn nầy !».
Cái «bọn khốn nạn» nầy đã dùng mọi mưu chước xảo quyệt để cai trị với chánh sách bạo ngược miền Bắc trong 66 năm và cả nước trong 36 năm qua và hôm nay rung sợ phủ phục trước bọn đàn anh láng giềng để «dựa hơi» tiếp tục kềm kẹp 90 triệu dân Việt Nam hầu tiếp tục vơ vét bốc lột mà viễn ảnh cuộc cách mạng mùa xuân Á Rập làm chúng vừa hoảng hốt, vừa càng hung hản hơn.
Thay lời kết
Khi Việt Nam bắt đầu mở cửa với chánh sách gọi là «đổi mới» vào cuối thập niên 80, khi sinh viên Việt Nam lũ lượt ra nước ngoài du học hay tu nghiệp, nhiều người Việt Nam trong nước và nhất là ở hải ngoại hi vọng nước Việt Nam sẽ lần lần thoát khỏi được chế độ độc tài, nghèo đói và chậm tiến. Họ hi vọng với sự tiếp cận tinh thần tự do và kỹ thuật Tây phương, đất nước Việt Nam sẽ được khai phóng hơn. Nhưng đó chỉ là ảo vọng. Trong 20 năm qua, hàng ngàn sinh viên Việt Nam du học và tu nghiệp ở các nước dân chủ và kỹ nghệ đã trở về nước, chẳng những không giúp gì cho đất nước khả quan hơn mà còn đồng lõa với những người lãnh đạo bất tài, vô lương để gia tăng thêm guồng máy tham nhũng, đưa đất nước mỗi ngày mỗi tồi tệ hơn. Hãy nhìn vài ủy viên trung ương đảng như Nguyễn Thiện Nhân, Cao Đức Phát, Lê Mạnh Hà, Lê Đức Thúy, Nguyễn Thị Đoan, Phạm Bình Minh, Nguyễn Thanh Nghị …và biết bao Bộ trưởng, Tổng giám đốc, Giám đốc cơ quan là những sinh viên tốt nghiệp từ Mỹ, Canada, Úc, Anh, Đức, Pháp, họ chỉ lợi dụng cái nhãn hiệu du học ngoại quốc để vinh thân phì da, làm tay sai hay tác nhân trong hàng ngũ quỷ đỏ. Họ chỉ là những cái lọ bằng đất sét được tráng men và một đất nước bị cái trị bằng những cái đầu nhồi nhét đất sét thì làm sao khá lên được.
Khi cuộc «cách mạng mùa xuân» lần lượt bùng nổ tại các quốc gia Á Rập, nhiều người Việt Nam ở hải ngoại và một ít người Việt Nam trong nước hớn hở. Họ hớn hở bởi họ hi vọng khi thấy những chế độ độc tài đã thống trị ngót mấy mươi năm tại những vùng đất mà không ai nghĩ dân chúng có thể nổi dậy thì bỗng chốc lại bốc lên khói lửa, dân chúng đồng loạt xuống đường để lật đổ chế độ độc tài, thanh toán bè lũ ác ôn. Người Việt hải ngoại hi vọng những biến cố nầy sẽ lan tràn đến Việt Nam. Nhưng hi vọng ấy chóng đi qua để trở về với nỗi thất vọng bởi lẽ Việt Nam hôm nay chưa hội tụ đủ những yếu tố của một cuộc «cách mạng mùa xuân Á Rập ».
Trước tiên phải kể đến chế độ kiểm soát, kềm kẹp người dân VN quá tinh vi và nghiệt ngã. Tuy những thống kê của nhà nước mang bản chất phô trương, khoác lác, với con số 3 triệu đảng viên, 2 triệu cảnh sát công an và nửa triệu quân nhân, tuy vẫn biết có nhiều đảng viên bất mãn vì bị lừa dối hay bị bạc đãi, và không phải cảnh sát công an nào cũng có được chức vụ để có thể tham nhũng trong một xã hội có nền văn hóa phong bì, nhưng phải hiểu là thành phần trung kiên, cúc cung tận tụy cho chế độ, chiến đấu cho chế độ đến giọt máu cuối cùng để cùng chia sẻ và bảo vệ quyền lợi cũng rất đông đảo. Bị nhuộm đỏ khối óc và đánh mất lương tri, nhóm đảng viên lớn nhỏ nầy đang chia chác các đặc quyền đặc lợi trong một hệ thống quyền lực mafia, dùng mọi biện pháp sắt máu để cai trị và bóc lột người dân còn thậm tệ hơn thời Pháp thuộc.
Trong lịch sử, cuộc cách mạng nào cũng bắt đầu bằng sự nổi dậy của khối người bị áp bức. Nhưng muốn cảm nhận được sự áp bức, người dân cần được thông tin những quyền lợi căn bản của con người, những cảnh sống tự do, no ấm để từ đó cảm nhận thân phận mà đòi hỏi. Dưới chế độ độc tài, công an trị của cộng sản Việt Nam, mọi thông tin từ bên ngoài, bên trong có mảy may bất lợi cho chế độ đều bị kiểm duyệt và ngăn chận, mọi hành động đối kháng đều bị tiêu diệt từ trong trứng nước. Người dân chỉ được quyền nghe biết những gì chánh phủ nói. Từ khi có truyền thông qua trang mạng, thông tin tuy có lưu hành nhiều hơn, nhưng luôn bị bức tường lửa ngăn chận. Internet vẫn còn là phương tiện truyền thông của lớp thị dân trung lưu hay giàu có, vốn là thành phần bằng lòng với cuộc sống, với chế độ, trong khi 80% dân số là những nông dân, thợ thuyền nghèo khổ, ít học, phải vật vã với bữa no bữa đói thì thời giờ tim óc đâu mà nghe tin tức, mà nghĩ đến đấu tranh trong cảnh giành giựt giữa những người đồng cảnh ngộ và trạng thái kềm kẹp thường xuyên của hệ thống cán bộ, công an .
Ngoài chuyện thông tin từ thế giới bên ngoài và trong nước bị bưng bít, bị kiểm duyệt, cơ cấu dân số VN hiện nay còn là một yếu tố giải thích phần nào lý do cuộc « cách mạng mùa xuân» chưa đến VN. Nếu tính với người dân VN sinh ra sau 1975 thì thành phần nầy nay đã 35 tuổi và nếu phải kể thêm những đứa trẻ khoảng 5 tuổi vào năm 1975 thì đến nay họ cũng đã đến tuổi 40. Đó là thế hệ người Việt chẳng biết gì về chiến tranh Việt Nam, chẳng có ý niệm gì về chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Năm 2008, số người VN đưới 40 tuổi chiếm đến 66% dân số. Ngoài ra, lớp trẻ sinh ra sau 1986 là năm cộng sản bắt đầu chánh sách đổi mới kinh tế thì đến nay lớp người nầy đã hơn 20 tuổi. Như vậy, trên đất nước VN hiện nay có hơn phân nửa dân số chưa biết thế nào là kinh tế «xếp hàng cả ngày» và chế độ «Mỹ Ngụy» để họ có thể xác định một lập trường chính trị rõ rệt chống Cộng hay theo Cộng. Dĩ nhiên, sanh ra và lớn lên trong nền giáo dục bác đảng và văn hóa phong bì, đa số người Việt Nam trong nước hiện nay không có chọn lựa nào khác là phải sống theo những bản chất của người cộng sản. Tuy nhiên, đó cũng là một sức mạnh vô song để hi vọng lật đổ chế độ bạo tàn cộng sản nếu khát vọng tìm tự do và no ấm được huy động.
Khi 36 người tự xưng là trí thức gởi thư ngỏ cho chánh phủ bạo quyền, nhiều chống đối và mỉa mai vì «quá khứ» của người chủ xướng và cung cách, ngôn từ sử dụng trong thư ngỏ đã khiến một số người có thành tín, ưu tư với đất nước đồng ký tên bị vạ lây. Phải hiểu rằng những người bỏ xứ ra đi là những người không chấp nhận sống với chế độ Cộng Sản và sự trở về, thỏa hiệp với chế độ là hành động thiếu lương tri. Vả chăng, với 66 năm cầm quyền bằng phản bội, dối trá và bạo lực của chế độ cộng sản đã quá đủ để cho người có chút suy nghĩ hiểu rằng thỏa hiệp với cộng sản đồng nghĩa với khuất phục hay đầu hàng. Với cộng sản, biên giới bạn và thù họ đã vạch rõ. Trừ một thiểu số người, chỉ vì ham danh ham lợi, ngụy trang dưới lớp son phấn thương nước thương dân, đã ra đi trong nhục nhã năm xưa rồi hôm nay quay về hợp tác với bạo quyền, cộng đồng 3 triệu người Việt tỵ nạn trên thế giới tự do trong 36 năm qua, mỗi người, mỗi cách đã kiên quyết chống chế độ cộng sản. Những cuộc biểu tình, tuyên ngôn, bài viết, bài nói chuyện của cộng đồng người Việt tỵ nạn qua các phương tiện truyền thông phổ biến khắp năm châu là một sức mạnh mà cộng sản khiếp sợ bởi lẽ đó là tiếng nói của người Việt tự do nói cho Thế giới tự do biết được những xấu xa của chế độ cộng sản Việt Nam, và do đó chánh quyền cộng sản tìm mọi cách ngăn chận tiếng nói nầy vang dội trong nước làm thức tỉnh 90 triệu người dân đang bị họ bịt mắt bịt tai.
Hàng năm, vào dịp Tết, dịp hè, hàng triệu người Việt, trước đây đã bị bạo quyền đày ải trong các trại tù, trại cải tạo, hay nín thở trong các đám lau sậy chờ giờ lên ghe, đi tìm cái sống trong cái chết, thì nay họ đã sớm quên những ngày ngục tù, nhục nhã khi xưa, nhởn nhơ trở về du hí trên cái đất nước mà đồng bào họ không có cơ may vượt thoát được. Sự có mặt của những du khách Việt kiều nầy cũng là một nguyên nhân khiến cho «cuộc cách mạng mùa xuân» chậm đến. Họ hằn sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo và niềm cay đắng giữa những người đồng cảnh ngộ khi xưa, và dưới mắt của người bất hạnh, có gì khác biệt trong sự phản bội giữa người bạn cũ và người thù mới. Người bạn cũ phải ngoảnh mặt để khỏi bị tủi nhục mà kẻ thù mới còn khinh rẻ họ nhiều. Tuy nhiên, không phải ai trở về cũng là những du khách bị «mất trí». Có những người, phải nói là hiếm hoi, trở về quê để xây lại mồ mả tổ tiên đã bị cộng sản đào xới vì hận thù, vì chiếm đất, hay mang về những món quà mà họ đã chắt chiu dành dụm trong những ngày lao tâm lao lực ở xứ người để tiếp sức cầm hơi cho thân nhân đói khổ, thông tin cho người bị bịt tai biết được những quyền tự do, bình đẳng ở thế giới bên ngoài để như vết dầu thắp sáng ngọn nến cách mạng. Nếu cứ mỗi năm, hai triệu du khách Việt kiều trên các nẻo đường du hí, thay vì nhi nhô tiếng Tây tiếng Mỹ, khoe khoang nhà cao cửa rộng, thực hay láo, làm cho đồng bào nghèo khổ càng thêm bi phẫn, thì hãy mang về cho đồng bào những bản tin, những tấm ảnh, đại loại như cha Lý bị bịt miệng trước tòa án, công an đánh đập giáo dân Thái Hà, công ty Vinashin bị tập đoàn lãnh đạo tham nhũng hàng tỷ mỹ kim, để cho người dân biết được sự thật bị bít kín, khơi động mối hận thù cộng sản, thì cuộc cách mạng mùa xuân Việt Nam có cơ may sẽ đến nhanh hơn.
Nghĩ cho cùng, lịch sử chỉ là sự lập lại những biến cố giống nhau trong những thời điểm và địa điểm khác nhau. Mọi chế độ độc tài rồi cũng bị tiêu diệt. Hình ảnh cha con Kadhafi phơi thây sình thúi trong cái nhà kho, Moubarak nằm im bất động trên cái «băng ca» trước tòa án, phải chăng đó cũng là hình ảnh ngày tàn của những bạo chúa cộng sản Việt Nam một ngày nào, xa hay gần.
Lâm Văn Bé

“Dặm” hay “Giặm”?

·                                   PHAN TẤT
Dặm hay Giặm? Đây là vấn đề hoàn toàn không mới. Từ lâu nay đã có nhiều người bàn, trao đổi để minh định chuyện này nhưng chưa đi đên thống nhất. Một cuộc hội thảo với khá đông người không hoặc ít am hiểu về đối tượng nghiên cứu là dân ca Nghệ Tĩnh thì khó có thể có được kết luận chính xác. Bởi vậy, chúng tôi vẫn xem đây là vấn đề đang bỏ ngỏ. Và vì vậy, thiết nghĩ rất cần các ý kiến trao đổi để có thể đi đến một nhận thức chung, nhất là khi chúng ta đang trình hồ sơ dân ca ví, dặm/giặm lên UNESCO để hy vọng được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.


Chữ “dặm” nói ở đây là để chỉ tên gọi:Hát dân ca ví, dặm- một điệu hát ngọt ngào, sâu lắng, đậm đà bản sắc văn hóa xứ Nghệ, tồn tại và phát triển đã hàng trăm năm nay.
Trong những năm gần đây, chúng ta nói, viết nhiều về đề tài Dân ca ví, dặm. Điều đáng băn khoăn là cách viết lại không thống nhất, thường được thể hiện hai dạng là: “dặm” hay “giặm”. Thậm chí gần đây, trong sách vở, trên báo chí có những trường hợp trong cùng một bài viết mà chữ “dặm”có nơi viết (d), lại có nơi viết (gi). Người đọc thực sự băn khoăn và dễ nhận thấy các tác giả viết từ cảm tính tùy tiện, mà không quan tâm đến tính Việt ngữ sâu xa của tên chữ.
Từ lâu ta thường thấy sách vở, báo chí đều viết chữ “dặm” bằng chữ (d). Những năm gần đây có nhiều người (phần lớn ở Nghệ - Tĩnh) chuyển sang viết chữ “giặm” bằng chữ (gi). Người viết (dùng chữ d hay chữ gi) do xuất phát từ nhận thức cụ thể của mình đó là chữ “dặm” ở thể danh từ hay là động từ:
Nếu “dặm” là danh từ như: dặm trường, dặm phẳng (chỉ độ dài, quảng đường). Nhiều người cho rằng: ngày xưa hát dặm có không gian diễn xướng rộng như cày cấy, gặt hái, kéo sợi, hát giao duyên ở làng quê... thường phải đi cách xa nhà, thậm chí cách sông, đò hàng dặm đường, nên người ta vẫn gọi là “đi hát dặm”, rồi lâu dần gọi tắt là “hát dặm”. Nếu đúng như vậy thì chữ “dặm” viết (d) là chính xác.
Nếu“giặm” có nguồn gốc từ động từ như: cấy giặm (trồng thêm vào chỗ thưa); ăn giặm (ăn thêm vào giữa buổi), hay giặm là “giẫm chân” và hát giặm chính là lối hát có đánh nhịp bằng chân. Có người lại cho rằng: “giặm” tức là“giắm vào”- người  này hát một đoạn, một ý; người khác lại hát nối lời tiếp vào để thể hiện, hoàn thiện một tình ý, hay một khúc hát. Nếu đúng như vậy thì chữ “giặm” viết (gi) là chính xác. (Xem bài: Ví “dặm” hay ví “giặm” của tác giả Trần Lam Thủy, báo CA.NA ngày 16/4/2012). Cũng theo tác giả Trần Lam Thủy: “Tại hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy các giá trị dân ca hò, ví, giặm xứ Nghệ” tổ chức vào tháng 3/2012 ở Thành phố Vinh, vấn đề gọi các thể  hát cũng được đặt ra trao đổi và lựa chọn. Sau khi nghe ý kiến các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, hội thảo đã thống nhất tên gọi với cách viết là “giặm” – Ví, giặm xứ Nghệ”.
Mặc dù đã có sự thống nhất như thế, nhưng xem ra vẫn chưa có tính thuyết phục, vậy nên lâu nay trên băng rôn, trên báo chí, tham luận... chữ “dặm” vẫn thể hiện hai cách viết khác nhau (dùng chữ d hay chữ gi). Báo Vietnamnet 23/6/2012 trong chuyên mục Văn hóa - giới thiệu khai mạc liên hoan Dân ca ví, dặm của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh nhằm tôn vinh di sản tinh thần vô giá của đời sống người dân xứ Nghệ,đây cũng là bước quảng bá,lập hồ sơ để tiến tới trình UNESCO công nhận Dân ca ví,dặm xứ Nghệ là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.Bài được đăng tải có hình ảnh khá đẹp với băng rôn trên sân khấu và tiêu đề giới thiệu đều chạy những tít lớn: “Ví dặm lung linh hồn quê xứ Nghệ”; “Liên hoan Dân ca ví, giặm xứ Nghệ...” với hai chữ“dặm” viết (d và gi). Rõ ràng là việc nhận thức về cách viết chữ “dặm” vẫn chưa được quan tâm phổ biến sâu rộng, thiếu sức thuyết phục công chúng, nên chưa có sự thống nhất. Người đọc, người xem thực sự băn khoăn: đâu là sự chính xác của ngôn ngữ, của văn hóa viết, văn hóa đọc!?
Thiết nghĩ đã đến lúc các cơ quan quản lý văn hóa,giới học thuật - những người thực sự quan tâm, có trách nhiệm đến ngôn ngữ- Văn hóa xứ Nghệ cần có được một lời giải chính xác về cách viết chữ “dặm” cho tên gọi Dân ca ví, dặm xứ Nghệ./.
 

Tản mạn về ngôn ngữ địa phương Hà Tĩnh

·                                   TỐNG TRẦN TÙNG

Rất nhiều người Hà Tĩnh khi mới ra Bắc vào Nam, nhất là ra Hà Nội hay vào thành phố Hồ Chí Minh để học tập hoặc lập nghiệp, thường ngượng ngùng, lúng túng trong giao tiếp bởi cái “tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để” của họ làm cho người được đối thoại nhiều khi không hiểu. Ấy là những người đó khi nói, mới chỉ có giọng nói và ngữ điệu là “Hà Tĩnh”, còn từ dùng thì chủ yếu là từ phổ thông. Còn nếu họ nói “đặc sệt” “tiếng Hà Tĩnh”, tức là cả ngữ điệu và từ dùng đều là ngôn ngữ địaphương, thì chắc rằng người nghe sẽ ngớ ra cứ như nghe một thứ ngôn ngữ không phải là tiếng Việt vậy. Lúng túng là chuyện thường tình khi mà giao tiếp không suôn sẻ do ngôn ngữ bất đồng. Nhưng liệu có phải ngượng ngùng, xấu hổ đến nỗi cho rằng cái mô tê răng rứa là ngô nghê quê mùa?
Ngôn ngữ nào, kể cả  những ngôn ngữ địa phưong có ít nhiều dị biệt so với ngôn ngữ chính thống được sử dụng trong một quốc gia, cũng đều có cái văn hóa riêng của nó. Ngôn ngữ địa phương Hà Tĩnh nói riêng và tiếng  miền  trung của  các  tỉnh  khu 4 cũ (Thanh Hoá , Nghệ  An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) nói chung`cũng  vậy. Đấy là chưa kể hiện  đang có nhiều nghiên cứu khẳng định, phương ngữ Hà Tĩnh là gốc rễ của tiếng Việt, mới là ngôn ngữ thuần Việtcũng như Việt Thường mới là cái  nôi của người Việt cổ, là nơi hình thành Nhà nước đầu tiên của Việt Nam, có kinh đô được xây dựng trên núi Ngàn Hống, tức là dãy Hồng Lĩnh, mà các di chỉ khảo cổ được tìm thấy, các di tích còn lưu giữ trên núi Ngàn Hống có thể chứng minh cho điều đó. Trao đổi với nhà nghiên cứu Bùi Thiết xung quanh vấn đề này thì ông cho rằng ngôn ngữ của Hà Tĩnh nói riêng và của vùng khu Bốn cũ nói chung là một hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh, khoa học, chứ không thể xem đó chỉ là ngôn ngữ địa phương. Tuy vậy, theo nhận thức còn hạn chế của người viết, xin vẫn được sử dụng các thuật ngữ “ngôn ngữ địa phương” hay “phương ngữ”.
Có thể nói rằng, phương ngữ Hà Tĩnh về mặt cấu trúc, phân chia nhánh ngành, lang lớp, khái niệm bao quát và khái niệm chi tiết v.v. nhiều khi còn khoa học hơn cả ngôn ngữ phổ thông mà ta đang sử dụng. Xin lấy một ví dụ. Nếu nói “khoai” theo tiếng phổ thông thì người ngoài Bắc chỉ hiểu là khoai lang hoặc khoai tây mà thôi. Còn các loại củ ăn được thì kèm luôn tên gọi là “củ từ”, “củ mỡ”, “củ dong riềng”, “củ mài”, .... Còn tiếng Hà Tĩnh thì phân chia rõ ràng hơn. Cây gì có rễ phình to thì cái rễ đó được gọi là “cổ”. “Cổ” gì  ăn được thì “cổ” đó được gọi là khoai. Rồi mới đến tên riêng và thành ra “cổ khoai từ”, “cổ khoai vạc” (củ mỡ), “cổ khoai đao” ( củ dong riềng), “cổ khoai mài” (củ mài).... “Thương nhôông nấu cháo khoai mài...” (ca dao). Như vậy là “cổ” trở thành khái niệm chung, hay nói cách khác thành một loại quán từ ngang hàng với “con” “cái”... làm cho ngôn ngữ phong phú hơn, chính xác hơn, rõ nghĩa hơn. Cũng chính vì thế nên người Hà Tĩnh ít ai gọi “cổ lạc” (củ lạc) mà thường gọi là “trấy lạc” (trái lạc, quả lạc). Tương tự là từ “ló” (lúa)để rồi có ló kê, ló ré (lúa tẻ), ló nếp, ló ngô (thường được nói nhanh là lồ ngô, tức là ngô, bắp)... hay “bù” để rồi phân biệt bù ta (bầu), bù rợ (bí đỏ)..... Chưa kể là qua cách gọi có tính chất phân loại lang lớp một cách khoa học này, ta còn có thể biết được ló ngô không phải là loại ngũ cốc bản địa từ xưa mà sau này mới được di thực từ bên Ngô Tàu sang. Mà đúng là như vậy. Học giả Lê Quý Đôn trong tác phẩm “Vân Đài loại ngữ” cho biết: “Hồi đầu đời Khang Hi (1662 – 1723), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong, Sơn Tây, sang sứ nhà Thanh, mới lấy giống lúa ngô đem về nước”. Giá như nhà văn người Hà Tĩnh khá nổi tiếng nọ thấu hiểu hơn ngôn ngữ nơi chôn rau cắt rốn của mình thì sẽ không đến nỗi lại hạ bút tả cảnh phi ngựa giữa bãi ngô trong cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về Thăng Long ở thế kỷ XV để cho nhiều độc giả, nhiều nhà phê bình lên tiếng phê phán gay gắt. Còn nữa. Bù rợ (bí đỏ) cũng xuất hiện trên mảnh đất Cửu Đức, mảnh đất Hà Tĩnh sau bù ta (bầu), mà qua tên gọi phải là từ một nước láng giềng nào đó ở phía Tây hoặc Tây Nam nước ta. Nhưng người ngoài Bắc lại gọi bí đỏ là bí ngô, tức là loại bí này có thể được di thực từ bên Trung Hoa sang. Khả năng thứ nhất chắc sẽ thuyết phục hơn, nhưng khả năng nào là đúng thì chỉ có các nhà khoa học nghiên cứu về các loại thực vật mới khẳng định được. Tuy vậy, “bù rợ”  “bí ngô” cũng có khác nhau chút ít. Bí ngô có hình thù hơi dài hoặc hình cầu, còn bù rợ có hình thù hơi dẹt , tại chỗ cuống và trôn quả thường lõm vào.



   Đấy là chưa kể rât nhiều tên gọi các lọai nông cụ, công cụ, các đồ dùng thường ngày… của phương ngữ Hà Tĩnh phong phú hơn nhiều và ít vay mượn các từ Hán - Việt hơn so với ngôn ngữ phổ thông. Các dụng cụ đan bằng tre nứa để đựng đồ vật là một ví dụ. Để chỉ đồ tre nứa đan thưa dùng để đựng các loại rau, củ, quả thì tiếng phổ thông chỉ có vài danh từ là “giành”, “rổ”, trong khi phương ngữ Hà Tĩnh nói riêng và của đất Việt Thường nói chung có rất nhiều danh từ để chỉ chúng tùy thuộc vào hình dáng, kích cỡ, sức chưá, mắt đan thưa hay mau, kiểu đan lồng mốt, lồng đôi hay lồng ba v.v. như “giành”, “ky”, “đúa”, “sảo”, “cạo” “rổ” v.v. Còn để chỉ các dụng cụ đan bằng tre nứa có mặt phẳng lớn hơn nhiều so với chiều cao của thành để chứa, đựng thì tiếng phổ thông chỉ có “nong, nia” chung chung, còn phương ngữ Hà Tĩnh lại phân ra cụ thể hơn như “vựa” (được đan ken dày, đường kính lớn trên dưới 1 mét, thành cao vài ba chục phân dùng để đặt ngay dưới cối xay lúa để nhận sản phẩm lúa đã xay nhưng chưa được sàng sảy hoặc dùng để chứa thóc lúa khi chưa được phơi khô, quạt sạch nên chưa được cất giữ vào bồ), “nôống” (gồm nôống nậy là cái nong lớn, nôống con có kích thước nhỏ hơn, nôống gấm dùng để sảy lúa, gạo, nôống sưa là cái nong được đan thưa dùng để phơi khoai, sắn cắt lát cho chóng khô), “ránh” cũng là nong đan thưa nhưng mắt lỗ bé hơn so với  nôống sưa nhưng chỉ để dùng phơi cau đã bửa làm cau khô v.v. Từ cổ “vựa” chỉ một đồ đựng bằng tre đan nói trên về sau đã được sử dụng để chỉ những nơi chốn, những vùng và cả những khu vực rộng lớn với sản phẩm đặc trưng như “vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long”, “vựa trái cây miệt vườn Tiền Giang” v.v.



Không chỉ  vốn từ vựng có thể nói là vừa độc đáo, vừa phong phú, vừa thuần Việt, hội tụ nhiều yếu tố lịch sử, khoa học, bản địa, hầu như không bị lai tạp …như đã được đề cập ở trên mà trong phương ngữ Hà Tĩnh nói riêng và vùng khu Bốn cũ nói chung, cách phát âm và yếu tố tượng thanh, tượng hình  cũng rất độc đáo. Sau đây, xin bàn về cách phát âm của phương ngữ Hà Tĩnh trong mối liên quan đến cách viết của tiếng Việt phổ thông với việc sử dụng các dấu thanh.  Ví dụ như từ “ló ngô”đã được nhắc đến ở trên.Ở Hương Sơn nói riêng và hầu như ở Nghệ Tĩnh nói chung, ngô, bắp được gọi và phát âm là“lồ ngô” hay“lò ngô” để chỉ từ gốc là “ló ngô” (còn một từ nữa là “xà lì” để chỉ ngô, bắp, nhưng là từ mượn của một ngôn ngữ khác).Xin được tạm tạm viết là “lồ ngô” mặc dầu với cách viết này, chữ “lồ” cũng chưa lột tả được cách phát âm của người Hương Sơn đối với từ này.Thường thì người Hà Tĩnh khi nói nhanh, có nhiều từ, nhất là từ kép hay từ láy, không được phát âm rõ ràng ra, mà nó nằm trong cuống họng, hoặc nếu phát âm ra thì hay sử dụng thanh bằng và từ đứng trước được nói lướt qua khá nhanh. “Ló lòn” (lúa tẻ) cũng là một ví dụ. Thực ra khi phát âm từ này, người Hà Tĩnh nói thành“lò lòn”.Quả là khó mà phiên âm chính xác được những phương ngữ loại này bằng cách dùng các chữ cái và 6 dấu thanh của tiếng Việt theo quy tắc viết hiện nay, kể cả những từ như thường vẫn được viết hiện nay để biểu đạt chúng như khôông, eng, hoọc, eéc v.v. Đấy là chưa kể đến việc âm sắc biến đổi theo từng vùng miền có khi đến mức, nhiều từ ngay cả những người trong cùng một làng xã cũng rất khó nghe. Chẳng thế mà ở các làng thuộc tổng An Ấp trước đây, nay là các xã Sơn Ninh, Sơn Thịnh, Sơn Hòa, Sơn An, Sơn Lễ và Sơn Tiến thuộc vùng hạ Hương Sơn nằm bên tả ngạn sông Phố ai cũng biết câu ca dao: “Kè Đọng nòi giọng khò nghe, Kè E nòi choẹt bè le dìa đèn” (Kẻ biến thành Kè, nói biến thành nòi, khó biến thành khò, dĩa đèn thành dìa đèn. Dĩa đèn là cái đĩa đựng dầu trẩu, dầu bùi hay dầu lạc của cái đèn cổ thắp bằng ruột bấc ngâm trong đó. Câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh: “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà” cũng có một cách giải thích là nói đến đáy của cái đĩa đèn này). Có nhiều dấu thanh thực ra không tồn tại hoặc tồn tại theo kiểu khác trong phương ngữ Hà Tĩnh, chứ không phải là họ không phát âm được dấu thanh đó. Một số địa phương ở Nghi Xuân, xa hơn như ở Nghi Lộc, Nghệ An, và tận ngoài Ba Vì, Hà Nội và cả trong tiếng nói của dân tộc Mường, cách phát âm các từ cũng tồn tại những nét rất đặc trưng kiểu này.



Yếu tố tượng thanh, tượng hình thường được phát triển và nhân rộng  bắt đầu từ một  từ  đơn âm hay còn gọi là từ chỉ có một từ tố. Xin được bắt đầu bằng một âm vần nhưng cũng là một từ có nghĩa, đó là “óc”. Trong phương ngữ Hà Tĩnh, “óc” không chỉ có nghĩa là “khối mềm màu trắng đục chứa trong hộp sọ” như Từ điển tiếng Việt đã dẫn giải mà còn để chỉ  một số các loại quả,hạt. Quả ớt được gọi là “trấy óc cay”. Hạt mít lại là “óc mít”. Phần hạt của quả trám là “óc mui”. Hạt bưởi thành “óc bưởi”, hạt bí thành “óc bù”…  Phải chăng “óc” là một từ cổ để chỉ hạt. Thế nhưng với một số loại hạt  như đậu, lạc, ngô, vừng, kê, lúa… thì từ “óc” hầu như không được dùng. Cũng có thể chúng đã được đổi sang gọi là hạt hay hột trong quá trình giao lưu với các vùng miền khác. Cũng có thể và dường như từ “óc” chỉ dùng để chỉ các loại hạt có kích cỡ nhất định, vì các hạt quá bé hoặc quá lớn thì chẳng bao giờ được gọi là “óc” cả. To như hạt quả xoài, hạt quả quéo, hạt quả đào thì cũng chẳng ai gọi là “óc xoài” “óc quéo” hay “óc đào’ cả.  “Óc bưởi” nhưng lại là “hột cam”, “hột chanh” (những con cá rô lúc còn bé được gọi là “cá rô óc bưởi” hay nhiều nơi còn gọi chúng là “ô rô óc bưởi”). Với từ “óc” này, một từ láy khác hình thành là “óc nóc” hàm chứa cả tính chất, cả hình tượng, cả âm thanh. “Óc nóc”  là cách gọi của nhiều địa phương ở Hà Tĩnh đối với ấu trùng của ếch, nhái, nhưng chủ yếu là của cóc, mà tiếng Việt phổ thông gọi chúng là nòng nọc. Lũ “óc nóc” thường có màu đen, tập trung thành đàn và bơi lội rất hiếu động. Tính chất và hình tượng  được thể hiện trong tên gọi này là ở chỗ chúng có hình thù và kích thước giống như óc na, óc bù nhưng hiếu động và di chuyển liên tục. Danh từ này do vậy còn là tính từ .  Khi nghe bố mẹ nói với một đứa con trai “Mi đúng là kì đồ óc nóc” thì có thể hình dung được đứa con trai  này đang là một đứa trẻ con nhưng lại hiếu thắng, hoặc có chút hung hăng, tỏ ra hùng hổ và hay to mồm nhưng lại láu táu,vô tích sự. Phải chăng cũng từ đó mà con chó còn nhỏ được gọi là “chó nóc” ?. Và có thể  các từ “thằng nhóc”, “nhóc con” … được hình thành sau đó (?) trong tiếng Việt phổ thông có liên quan với  từ “óc nóc” này chăng?. Khi ghép một phụ âm với vần “óc” với ý nghĩa để chỉ các hạt cỡ nho nhỏ như đã dẫn giải ở trên, phương ngữ Hà Tĩnh cho ta những từ vừa tượng thanh, vừa tượng hình rất bản địa  để chỉ những cá thể còn “choai choai”  hay những sự vật cũng bé nhỏ tương tự. Những từ ngữ này nếu tra cứu “Từ điển tiếng Việt”  thì sẽ không thể nào tìm thấy. Đó là các từ  ghép ngoài từ “óc nóc” nói trên còn có nhiều từ khác mang ý nghĩa tương tự như “chó nóc”, “tràu cóc”, “ôống bóc”, “ná bóc”, “trộ mưa cóc”, “ngóc dam”, “ngóc tắn”, “láu nóc”  v.v. “Chó nóc” là con chó con nhưng đã chạy nhảy chơi đùa được. “Tràu cóc” là con cá quả (cá chuối, cá lóc) to cỡ bằng ngón tay cái hoặc nhiều nhất cũng chỉ bằng ngón chân cái. “Ôống bóc” là một loại súng đồ chơi làm bằng tre của trẻ con. Nòng súng là một đoạn ống tre nhỏ không có mắt tre, dài khoảng một đến hai gang tay, đường kính bên trong chỉ khoảng vài ba mi li mét. “Đạn” được nhét vào cả hai đầu ống tre là viên giấy được vo tròn hoặc là các loại quả non như quả cây đình đẹ, ô rô hoặc quả bưởi non chỉ bằng hạt đậu. Qui lát là một thanh tre  được vót giống như chiếc que đan len có đường kính nhỏ hơn đường kính bên trong của nòng súng, một đầu được đóng chặt vào tay cầm cũng là một đoạn ống tre có cùng đường kính nòng súng nhưng chỉ dài bằng ngón tay trỏ.  Qui lát được đẩy vào một đầu nòng súng để ấn viên “đạn” chạy trong nòng súng. Khi “bắn”, qui lát được ấn thật mạnh, không khí không có lối thoát  bên trong nòng súng sẽ làm áp suất  tăng đột ngột khiến cho viên đạn  ở đâù còn lại bị bắn ra xa. “Ná bóc”, tiếng phổ thông gọi là nứa tép. “Trộ mưa cóc” là một trận mưa lúc mới bắt đầu có vẻ rất dữ dội nhưng chỉ được một lúc đã tạnh hẳn, tương tự như mưa rào nhưng lượng nước trút xuống không đáng kể. Còn “ngóc dam”, “ngóc tắn” là hang cua đồng, hang rắn. Danh từ “ngóc” trong tiếng Việt phổ thông  khi đứng một mình thì  không có nghĩa rõ ràng  mà phải đi cùng từ  khác như  ngách thành “ngóc ngách”. Trong khi đó, danh từ “ngóc” trong phương ngữ Hà Tĩnh gần như đồng nghĩa với từ “ngách” trong tiếng Việt phổ thông, được dùng để chỉ các hang hốc nhỏ, luồn sâu trong đất,  chỉ vừa đủ để các con vật như “dam”(cua đồng), “tắn” (rắn) chui vào ẩn nấp. Từ các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng  sử dụng âm vần “óc” nêu trên, tính từ “láu nóc” hình thành mang đậm nét phương ngữ Hà Tĩnh. Từ này có thể nói là đặc sệt Hà Tĩnh và khó mà tìm được một từ đồng nghĩa trong tiếng Việt phổ thông. Láu táu? Láu cá? Láu lỉnh? Láu tôm láu cá? Các từ này đều có vẻ giống nhưng không hề đồng nghĩa với “láu nóc”. “Láu nóc” là thái độ và hành động gây sự mang tính chất láo xược, ngỗ ngược nhưng lại là của trẻ con mà đối tượng bị gây sự  không thèm chấp vì  kẻ gây sự không có thực lực, khó mà mang lại ảnh hưởng hay hậu quả gì.
Ví dụ tiếp theo là âm vần và là động từ “eéc” (tạm phiên âm như vậy nhưng thực tế âm phát ra của người nói đối với từ này không hoàn toàn đúng như cách phiên âm này). Động từ này là để biểu đạt tiếng kêu của con lợn và cùng nghĩa với từ “eng éc” của tiếng Việt phổ thông. Nó còn là danh từ để chỉ cái ách cày quàng lên cổ trâu bò. Âm vần “eec” khi ghép với các phụ âm có thể tương ứng  không những âm vần “ach” mà cả âm vần “anh” trong tiếng Việt phổ thông. “Meéc” nghĩa là mách, “nhà có kheéc” nghĩa là nhà có khách, “geẹc ngang” nghĩa là gạch ngang, “nói seéc” nghĩa là nói thách… Cùng với rui, mèn, đòn tay, kẻ… “ngeẹc” là một bộ phận của kết cấu nhà tre, gỗ. “Ngeẹc” là  thanh xà ngang  bằng gỗ hay tre, cau… được nối mộng liên kết  với chân cột để làm chỗ tựa  cho các “bức thưng” (vách ngăn) bằng  ván gỗ hay bằng phên nứa. Khoảng trống giữa “ngeẹc” với mặt nền thường được chèn bằng gạch, nhưng nhiều khi được để trống tạo hiệu quả thông gió rất tốt cho bên trong ngôi nhà. Với nhà làm mới,“ngeẹc”  thường được lắp vào mộng ngay sau khi  dựng cột, kèo thành khung nhà. Với nhà đang sử dụng,  khi cần phải làm thêm các “bức thưng”, “ngeẹc” được lắp trước một đầu vào cột, đầu còn lại được lắp nhờ một loại mộng đặc biệt sau khi dùng vồ gỗ “đập” cột để nới rộng khoảng cách hai cột thêm khoảng dăm phân. Có thể từ “ngạch” trong tiếng Việt phổ thông có nguồn gốc là từ “ngeẹc” này. Muốn đi vào nhà, từ sân phải bước lên bậc thềm, sau đó bước qua “ngeẹc”  cửa, còn gọi là “bậu cửa”.  “Ngạch bậc” trong hệ thống thăng tiến của công chức, viên chức, công nhân… chắc chắn có nguồn gốc là các từ ngạch, bậc của một ngôi nhà. Từ điển tiếng Việt giải thích “ngạch” là khoảng trống dưới khung cửa là không chính xác. Khoảng trống dưới khung cửa được người Hà Tĩnh gọi là “dới ngeẹc”.  Còn trường hợp “eéc” tương ứng với âm vần “anh” trong tiếng Việt phổ thông thì ít gặp hơn, ví dụ như từ “beéc” lại có nghĩa là banh: “beéc meẹng beéc mồm” nghĩa là banh  miệng banh mồm. Đặc biệt, với âm vần “eec” này, đôi khi ghép với một phụ âm sẽ cho những từ chỉ có trong phương ngữ Hà Tĩnh. Ví dụ như từ “treéc”. “Treéc” là một dụng cụ để kho cá, kho thịt làm bằng đất nung có hình dáng giống như cái mũ nồi bằng dạ (mũ bê rê) mà trong tiếng Việt phổ thông cũng không có từ tương ứng…



Còn có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ tương tự. Tuy vậy, trong tiến trình lịch sử, sự giao lưu với các vùng miền, sự giao thoa của ngôn ngữ cũng như trào lưu phổ thông hóa thông qua giáo dục học đường đã làm cho khá nhiều từ cổ của phương ngữ Hà Tĩnh dần biến mất hoặc được thay thể. Các âm vần nêu trên cũng được dần thay thế bằng các âm vần của tiếng Việt phổ thông. Các loại hạt không phải bản địa và xuất hiện sau này như hướng dương, cà phê, dẻ cười…. đều không được sử dụng từ “óc” để chỉ chúng.  Trong rất nhiều từ  của ngôn ngữ Hà Tĩnh, vần “eec” không được sử dụng đối với các khái niệm cận đại hoặc đương đại mà chỉ dùng vần “ach”. Ví dụ như “phụ trách”, “viên gạch”, “quyển sách”. Tương tự, âm vần “eeng” được thay bằng âm vần “anh” như trong quả chanh, đài phát thanh, bức tranh …. mặc dầu vẫn tồn tại các từ cổ như “keeng” (canh), “treeng chắc” (tranh giành nhau)... Nguy cơ biến mất của các từ cổ trong phương ngữ Hà Tĩnh là nhãn tiền.


Xin được kể hơi cà kê một chút như vậy để thấy rằng cái mô tê răng rứa của tiếng địa phương Hà Tĩnh là một di sản văn hóa đậm đà bản sắc của ngôn ngữ Việt đáng được trân trọng, tìm hiểu và gìn giữ để không bị mai một trong quá trình “phổ thông hóa, toàn cầu hóa” làm ảnh hưởng đến sự phong phú đa dạng của văn hóa Việt.Cái sự học trong các bậc phổ thông ngày càng phổ cập với mọi tầng lớp, thành quả của sự nghiệp giáo dục kể từ ngày đất nước độc lập, cũng như sự phổ cập của các phương tiện thông tin đại chúng đã không những giúp cho chỉ đối với những người Hà Tĩnh từng cắp sách đến trường, mà còn giúp cho mọi người dân Hà Tĩnh dù sống ở những vùng miền heo hút nhất đều sử dụng  thành thục được tiếng Việt hiện đại trong mọi lĩnh vực. Tuy vậy, cũng chính vì thế mà ngày càng có nhiều người Hà Tĩnh biết rất ít vốn từ của ngôn ngữ địa phương mình, và do đó, nguy cơ mai một của phương ngữ Hà Tĩnh ngày càng rõ. Có những ngôn từ có thể nói là rất “đắt”, “độc nhất vô nhị” nhưng lại đang dần bị biến mất trong đời sống của chính người dân Hà Tĩnh. Ví dụ như động từ “trủ” chỉ công việc thu hái hàng loạt và bằng hết cùng một lúc các loại quả của những cây ăn quả (trủ vải, trủ nhãn, trủ cam...) hay danh từ “lặc lè” chỉ phần mặt sau của đầu gối (có thành ngữ “trục cúi đi mô lặc lè theo đó”, trục cúi chính là đầu gối)…là những từ đặc sệt phương ngữ nhưng lại không thể tìm được từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ phổ thông hay danh từ riêng “tấy” để chỉ con rái cá, còn gọi là hải ly, với câu thành ngữ “nghịch nhi tấy, khun nhi tấy”(nghịch như rái cá, khôn như rái cá) v.v và v.v
Do vậy,  việc sưu tầm và lưu giữ để vốn từ cổ này không biến mất trong quá trình phát triển ngày càng trở nên cấp bách. Các nhà khoa học trên thế giới đã khuyến cáo là khoảng 50% ngôn ngữ của loài người sẽ biến mất vào cuối thế kỷ XXI khi những nét văn hóa đặc thù xã hội nhỏ hơn bị đồng hoá vào văn hoá quốc gia cũng như văn hóa toàn cầu. Mất đi sự đa dạng về ngôn ngữ sẽ là một đòn giáng mạnh vào những nghiên cứu văn hoá và khoa học nhận thức. Hay nói cách khác, một ngôn ngữ mất đi sẽ kéo cả một thế giới cùng biến mất theo nó như một nhà khoa học Mỹ ở trường Đại học Yale đã từng cảnh báo.Đã đến lúc cần tổ chức sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn một bộ Từ điển phương ngữ Hà Tĩnh nhằm  gìn giữ và bảo tồn di sản này. Cùng với các di chỉ khảo cổ, các văn bia, các bằng sắc, các ấn phẩm v. v. thì ngôn ngữ địa phương, nhất là các ngôn ngữ cổ cũng là những chứng tích, những căn cứ khoa học  vô cùng quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử nói riêng và các bộ môn khoa học xã hội nói chung./.




Trang