31 tháng 12, 2015

Cuộc chơi của Cả Trọng

Dưới đây là bài viết của “Người Cấp Tiến” được gửi tới trang Ba Sàm, cùng một số tài liệu liên quan đến TT Nguyễn Tấn Dũng, mà chúng tôi không có điều kiện kiểm chứng. Đăng bài viết và các tài liệu này chỉ nhằm mục đích bạch hóa thông tin, không nhằm mục đích ủng hộ hay đứng về bất kỳ phe nhóm nào trong cuộc chiến tranh giành quyền lực đang diễn ra ở cấp cao nhất.
___
Lời người gửi: Có thể tôi sẽ phải lùi thời gian cung cấp cho các bạn tài liệu vì những tài liệu này có nguy cơ bị đánh dấu cao. Khi đó, nếu tài liệu xuất hiện, việc tìm ra người sở hữu tài liệu không khó. Có những dấu hiệu cho thấy sự xuất hiện của cơ quan tình báo nước ngoài.
Tôi sẽ phải kiểm tra kỹ các tài liệu này để đảm bảo sự an tòan cho bản thân và những người bạn của tôi. Các bạn có thể tham khảo bài viết của tôi như một góc nhìn, dù tạm thời vì sao tôi lại có góc nhìn, do chưa thể chứng minh bằng những tài liệu tôi đang nắm giữ.Vẫn như mọi khi.
Thân ái,
Người Cấp Tiến
Từ cuối năm 2014, trong các cuộc gặp gỡ với các cựu thần như Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh… Cả Trọng đã bày tỏ ý muốn ở lại với mong muốn “Giữ sự đoàn kết trong Đảng”. Cả Trọng sau quãng thời gian làm Tổng bí thư đã không thể giấu được sự bạc nhược trong ứng xử và sự thiếu vắng trí thông minh. Những gì Cả Trọng có chỉ đơn thuần là một chủ nghĩa cải lương dựa trên sự thương tâm của quần chúng, hào quang cũ nát của Đảng cộng cách tư duy bằng những định kiến giáo điều đã thành nếp hằn không thể thay đổi. Không chỉ tầng lớp trí thức mà tất cả các giai tầng trong xã hội, kể cả các Đảng viên và các Ủy viên Trung ương đều có một sự nghi ngờ lớn, nếu không nói là coi thường dành cho Cả Trọng.
Tổng kết cuộc thi Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng tiêu hết khoảng 4000 tỷ cho các tuyên truyền viên, in ấn tài liệu, ca nhi hát xướng… Số tiền này chưa kể đến số tiền xây các công trình như tượng đài, khu tưởng niệm… Vụ một loạt các địa phương xây dựng các tượng đài Nguyễn Sinh Cung với số tiền hàng trăm, hàng ngàn tỉ cũng chỉ là các hoạt động ăn theo cuộc vận động mà Đảng đề ra. Tất cả hiệu quả chỉ đơn thuần là một lớp sơn son thiếp vàng bong tróc. Vì vậy, những số liệu tổng kết cuộc thi này được đóng dấu Tuyệt mật. Khác với lĩnh vực kinh tế, báo chí đơn giản không bao giờ được đụng chạm đến lĩnh vực này.
Cả Trọng vốn vỗ ngực là người liêm khiết nhưng nguồn tài chính cho Cả Trọng được cất nhắc một cách chu đáo. Tiêu biểu như Nguyễn Đăng Tiến, Tổng giám đốc đài Tiếng nói Việt Nam vốn là giám đốc Nhà in Tạp chí Cộng sản. Nhân vật này chịu trách nhiệm thâu lãnh những nguồn tài chính quan trọng từ khi Cả Trọng là Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản để đầu tư cho các con đường chính trị. Vì thế dù Nguyễn Đăng Tiến không có chuyên môn về báo chí nhưng vẫn thăng tiến chóng mặt. Từ Giám đốc nhà in Tạp chí Cộng sản Nguyễn Đăng Tiến đã trở thành Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản và giờ là Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam. Đây là điều chưa từng xảy ra trong giới báo chí vì chuyên môn in ấn khác với chuyên môn báo chí. Chính vì vậy khi Cả Trọng tiếp tục tham vọng cố gắng đưa Nguyễn Đăng Tiến làm Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo, giới báo chí đã phân biệt rõ ràng thực chất nên Nguyễn Đăng Tiến trượt một cách thảm hại.Thậm chí dù là Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Nguyễn Đăng Tiến vẫn không thể vào nổi Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam khóa X.
Với tất cả khả năng của mình, nếu mọi chuyện diễn biến như bình thường, Cả Trọng sẽ không có bất kỳ cơ hội nào để ở lại Tổng bí thư. Cả Trọng thua tất cả các thành viên trong Bộ Chính trị về trí thông minh và tinh thần chịu trách nhiệm. Sau nhiệm kỳ của mình trong và ngoài nước đều nhận ra điều này ở Cả Trọng.
Một câu hỏi lớn đặt ra với trình độ và tính cách đó nếu Cả Trọng còn làm Tổng bí thư thì quốc gia nào sẽ được lợi nhiều nhất?
Ba Dũng và Tư Sang cũng như mọi người đều nhìn thấy sự yếu kém thậm tệ của Cả Trọng nên đều đinh ninh Cả Trọng sẽ không thể ở lại. Về mặt lý thuyết chiếc ghế Tổng Bí thư sẽ dành cho một trong hai người trong trường hợp này.
Thế nhưng Cả Trọng không cô độc. Vươn tới chiếc ghế Tổng Bí thư đã trở thành một ván bài ngoạn mục được bày ra để đẩy Ba Dũng và Tư Sang vào thế phải chiến đấu.
Nếu nhìn phản ứng của Ba Dũng thì dường như Ba Dũng đã nhận ra và thấm đòn này. Chính vì thế trong thời gian qua dù phe Tư Sang tung nhiều đòn như những bài viết đánh trực diện Tư Liêm, đánh Trầm Bê hay tham nhũng và các vấn đề kinh tế, Ba Dũng vẫn im lặng. Một loạt các cụ lão thành, trong đó có cả những thầy giáo cũ của Tư Sang tung đơn kiện liên tiếp một cách ấu trĩ, Ba Dũng vẫn im lặng. Dù Nguyễn Công Khế, Trương Huy San và một số Tổng biên tập các báo chính thống âm thầm câu kết phục vụ Tư Sang nhưng Ba Dũng vẫn im lặng. Đây là một động thái khác thường bởi như bài trước đã phân tích, nếu đúng bài cũ của Ba Dũng thì Nguyễn Công Khế chắc chắn đã bị bắt.
Sau khi Ba Dũng im lặng trước những đòn đánh của phe Tư Sang thì một loạt blog công bố những thông tin nhạy cảm về Nguyễn Công Khế và Tư Sang ra đời. Dường như có người muốn đẩy cuộc chiến lên cao trào để Tư Sang tiếp tục tung ra những vũ khí chiến lược để Ba Dũng buộc phải lên tiếng và phản đòn. Khi đó chắc chắn cuộc chiến Sang – Dũng sẽ lên đến đỉnh điểm và không loại trừ cả hai tự diệt trừ lẫn nhau. Trong trường hợp đó Cả Trọng nghiễm nhiên làm Tổng Bí thư thêm một khóa nữa, bất chấp những hạn chế về trí óc và sự trốn tránh trách nhiệm trong điều hành.
Không có bất kỳ vụ bắt bớ nào, dù mọi chuyện đều trong tầm tay. Ba Dũng vẫn im lặng một cách khó hiểu.
Chiêu bài “Ở lại để giữ đoàn kết” của Cả Trọng vì thế không thành công như mong muốn.
Chỉ mình Cả Trọng không đủ bản lĩnh để làm bất kỳ chuyện gì, ngoài việc khóc lóc.
Ai đã tiếp thêm dũng khí cho Cả Trọng trong việc chiến đấu để ở lại? Ai là người sau khi Cả Trọng thất bại trong âm mưu “Ở lại để giữ đoàn kết trong Đảng” tiếp tục vạch ra những thay đổi quan trọng trong quy trình nhân sự để Đại hội Đảng chỉ giữ lại sự tập trung mà loại trừ hoàn toàn dân chủ, tạo thế độc quyền cho Cả Trọng tiếp tục giữ chức?
Tư Sang giờ đã nhận bài học cay đắng của mình, khi các đệ tử đều nằm dưới giá treo cổ mà chiếc ghế Tổng bí thư đã thực sự xa vời. Thậm chí những tài liệu về Tư Sang và con trai Trương Tấn Sơn cũng bị phơi bày trước dư luận. Nếu như đó không phải đòn của Ba Dũng mà chỉ là một đòn “ném đá giấu tay” của một người Tư Sang đã từng coi là đồng chí cùng chung chiến tuyến thì nỗi đau của Tư Sang càng nhân lên gấp bội.
Ba Dũng thì vẫn tiếp tục im lặng và không thấy những phản ứng như thường lệ. Phải chăng ý chí chiến đấu của Ba Dũng đã bị đánh gục?
Vận động ngầm nào đã, đang và sẽ diễn ra tại Hội nghị Trung ương 13 và 14? Ai là người đứng sau lưng Cả Trọng?
Một người không đủ khả năng về trí tuệ và nhân phẩm tiếp tục lãnh đạo dân tộc Việt Nam thì quốc gia nào sẽ có lợi nhất?
Những thông tin trên mạng về các quan chức và việc đẩy mạnh chiêu bài chống tham nhũng trong thời gian gần đây có điểm gì tương đồng với cuộc chiến dư luận tại Trung Quốc trước chiến dịch đả hổ diệt ruồi?
Nếu Cả Trọng lên làm Tổng Bí thư, để tạo nên vị thế độc tôn về quyền lực và xử lý những mầm mống nguy hiểm, liệu sẽ có một chiến dịch Đả hổ diệt ruồi tại Việt Nam?
Chỉ nhìn vào những tranh giành quyền lực trong nội bộ Việt Nam sẽ là không đủ để hiểu những vận động ngầm đang diễn ra.
Thực chất trong thời gian vừa qua Cả Trọng đã phần nào thành công trong việc biến những người khác thành quân cờ trong tay mình nhưng nếu nhìn cuộc chơi lớn hơn thì phải chăng Cả Trọng cũng chỉ là một quân cờ? Khi đó ai sẽ chịu những hậu quả nặng nề nhất?

Toàn bộ quá trình đến cõi âm sau khi chết

Nhiều người vẫn còn mơ hồ về sinh mệnh sau khi chết sẽ như thế nào. Bài viết này sẽ mô tả toàn bộ quá trình đến cõi âm sau khi chết.
Toàn bộ quá trình đi đến âm gian sau khi con người chết đi 
Dựa vào các nền văn hóa của tôn giáo phương Đông (Phật giáo và Đạo giáo), tương truyền rằng sau khi thọ mệnh người ta kết thúc, sẽ có quỷ sai của âm gian, cũng chính là Hắc Bạch Vô Thường đến dẫn hồn phách người ta xuống Quỷ Môn quan. Sau đó lại được Tứ đại sứ giả của âm gian, cũng chính là Đầu Trâu Mặt Ngựa, dẫn vong linh đến âm tào địa phủ; tiếp đó được thẩm phán của chư vị Đại Phán quan của Thập Điện Diêm La dưới âm gian tiếp nhận. Cuối cùng mới quyết định vong linh là có thể đi vào cõi nào để tiếp tục luân hồi: hoặc là lên trời hưởng phúc lành, hoặc là tiếp tục đầu thai làm người nữa hoặc loại động vật nào đó, hoặc là bị đánh vào mười tám tầng địa ngục như trong truyền thuyết để chịu khổ hình. 
Chặng đường đi xuống âm gian sau khi người ta chết đi 
Tương truyền, trong quá trình đi xuống âm gian sau khi người ta chết đi thì quan ải đầu tiên là qua Quỷ Môn quan, rồi liền phải đi qua một con đường gọi là đường Hoàng Tuyền, hai bên đường nở rộ một loại hoa đẹp, chỉ thấy hoa nở không thấy lá xanh, người cõi dương gian gọi là hoa Bỉ Ngạn (hoa của cõi bên kia). 
Con đường này cần phải đi rất lâu rất lâu, đến tận cuối con đường sẽ có một con sông nhỏ gọi là Vong Xuyên Hà. Trên sông có một chiếc cầu đá gọi là cầu Nại Hà, bờ đối diện bên kia của cây cầu có một gò đất gọi là Vọng Hương đài, bên cạnh Vọng Hương đài có một cái đình nhỏ gọi là đình Mạnh Bà. Ở đó có một người tên là Mạnh Bà trông chừng và đưa cho mỗi người qua đường một chén canh Mạnh Bà. Uống canh Mạnh Bà sẽ khiến người ta quên hết tất cả mọi chuyện. 
Bên bờ sông Vong Xuyên còn có một tảng đá, gọi là Tam Sinh thạch (đá ba đời), ghi chép lại đời trước, đời này và đời sau của mỗi một người. Đi qua cầu Nại Hà, đứng trên Vọng Hương đài nhìn nhân gian một lần cuối cùng, sau đó mới đi vào cõi âm tào địa phủ. 
Ải thứ nhất: Quỷ Môn quan 
Người ta sau khi chết đi, trước hết là do quỷ sai nơi âm gian Hắc Bạch Vô Thường dẫn ba hồn bảy phách đi, rồi giao cho quỷ Đầu Trâu Mặt Ngựa đẫn đến Quỷ Môn quan – một quan ải cần phải đi vào cõi âm gian. 
Ngạn ngữ có câu: “Quỷ Môn quan, mười người đi, chín người trở về”. 
Trước Quỷ Môn quan có mười sáu quỷ lớn, truyền thuyết kể rằng Diêm La Vương đã đặc cách chọn ra một nhóm ác quỷ để trấn giữ cửa ải này, họ tra xét vô cùng hà khắc, nghiêm ngặt đối với những vong hồn dã quỷ tội ác đầy mình, bản tính hung ác không đổi; không để cho một ai có thể trà trộn đi qua quan này. 
Lúc còn sống bất luận là quan chức quyền quý hay bá tánh bình dân, ai đã đến nơi đây đều cần phải tiếp nhận tra xét, xem xem có mang theo lộ dẫn – giấy thông hành đến quỷ quốc hay không, đây là căn cứ của người sau khi chết đi đến quỷ quốc báo danh. 
Lộ dẫn dài 3 thước (90 cm), rộng hai thước (60 cm), được làm bằng giấy mềm màu vàng, mặt trên viết“Lộ dẫn do Phong Đô Thiên Vũ Diêm La Đại Đế phát cho và con người khắp thiên hạ, cần phải đi qua đường này, mới có thể đến địa phủ chuyển thế thăng thiên”. 
Đồng thời, trên mặt lộ dẫn có đóng ba dấu ấn của “thành hoàng âm ty, phủ huyện Phong Đô”. Phàm là người sau khi chết đưa vào quan tài hoặc trong lúc hỏa táng đốt bỏ, nó sẽ theo linh hồn đến địa phủ. 
Ải thứ hai: Đường Hoàng Tuyền 
Qua khỏi Quỷ Môn quan, tiếp đó chính là phải đi qua một con đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng. Hồn phách của người ta đến âm gian báo danh sẽ phải đi một đoạn đường rất dài, qua rất nhiều quan, vì vậy đường Hoàng Tuyền (Suối Vàng) là tên gọi chung đối với những quan và lộ trình này. 
Trên đường Hoàng Tuyền có hoa Bỉ Ngạn màu đỏ, từ xa mà nhìn thì giống như là tấm thảm máu trải dài, vì loài hoa này có màu đỏ như lửa nên được ví là “đường lửa chiếu rọi”. Cũng bởi nó là cảnh vật và màu sắc duy nhất trên con đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng này, nên mọi người cứ đi theo hoa này mà thông đến địa ngục của cõi u minh. 
Dương thọ của con người đến rồi thì sẽ chết, đây là cái chết bình thường; người chết bình thường trước hết cần phải đi qua Quỷ Môn quan, hồn phách của người ta đi qua quan này rồi liền sẽ biến thành quỷ. Ngoài ra, trên đường Hoàng Tuyền còn có rất nhiều cô hồn dã quỷ, họ là những người dương thọ chưa hết mà chết bất đắc kỳ tử; họ đã không thể lên trời, cũng không thể đầu thai, càng không thể đến âm gian, chỉ có thể lang thang trên đường Hoàng Tuyền, đợi đến dương thọ kết thúc rồi mới có thể đến âm gian báo danh, nghe Diêm La Vương phán xét. 
Ải thứ ba: Tam Sinh thạch 
Bên cạnh cầu Nại Hà có tảng đá xanh tên Tam Sinh thạch (đá ba đời), chữ trên đá đỏ như máu, mặt trên có khắc bốn chữ lớn “Tảo Đăng Bỉ Ngạn” (sớm đến bờ bên kia). Nghe nói rằng, tảng đá này ghi chép lại đời trước, đời nay và đời sau của mỗi một người. Nhân của đời trước, quả của kiếp này, duyên khởi duyên diệt, đều chất chồng mà khắc trên tảng đá ba đời. 
Trăm nghìn năm nay, nó đã chứng kiến sầu khổ và mừng vui, bi ai và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, cho đến hết thảy những món nợ và những tình cảm phải trả của tầng tầng lớp lớp chúng sinh; Đứng trước tảng đá ba đời này là thấu tỏ hết. 
Ải thứ tư: Vọng Hương đài 
“Trên Vọng Hương đài quỷ hốt hoảng, mắt mở trừng trừng lệ hai hàng. Vợ con già trẻ tựa bên hòm, bạn bè thân quyến trước linh đường”. 
Vọng Hương đài, cũng chính là Thổ Cao đài, nơi có đình Mạnh Bà, là ở phía trước cây cầu, chứ không phải ở phía sau cây cầu. 
Vọng Hương đàì lại gọi là “Tư Hương lĩnh” (đồi nhớ quê). 
Ở nơi này, có thể lên đài nhìn về ngôi nhà nơi dương thế, vậy nên nơi đây đã trở thành cửa sổ nhìn về dương gian của quỷ hồn và Thánh địa, là nơi liên lạc tình cảm giữa người sống và người chết. 
Truyền thuyết kể rằng, con người ta sau khi chết rồi, “ngày đầu tiền không ăn cơm nơi cõi người, ngày thứ hai liền qua âm dương giới, ngày thứ ba đến Vọng Hương đài, nhìn thấy người thân đang khóc lóc thảm thiết”. 
Quỷ hồn đến trước địa phủ báo cáo, rất nhớ mong người thân nơi dương thế. Dù cho quỷ tốt giận dữ quát mắng, vẫn nhất quyết muốn lên Vọng Hương đài nhìn về quê nhà, khóc lớn một trận mới hết hy vọng và đi đến “Âm tào địa phủ”. 
Theo truyền thuyết, Vọng Hương đài là nơi mà vong hồn nhìn về dương thế tạm biệt người thân một lần cuối cùng. Lại có truyền thuyết rằng, kiến tạo của Vọng Hương đài nơi âm gian rất kỳ lạ, trên rộng dưới hẹp, mặt như cánh cung, lưng như dây cung ngang nhau, ngoài một con đường đá rất nhỏ ra, còn lại đều là núi đao rừng kiếm, hiểm trở vô cùng. Đứng ở trên đó, năm châu bốn biển đều có thể nhìn thấy. 
Ải thứ năm: Vong Xuyên hà 
Vong Xuyên hà còn gọi “Tam Đồ hà”, chắn ngang giữa đường Hoàng Tuyền và âm phủ. Nước sông có màu đỏ như máu, bên trong hết thảy đều là cô hồn dã quỷ không được đầu thai, trùng rắn khắp nơi, những trận gió tanh hôi tạt thẳng vào mặt. 
Đương nhiên, vì để kiếp sau có thể gặp lại người mình yêu thương nhất trong kiếp này, bạn có thể không uống canh Mạnh Bà, vậy cần phải nhảy vào Vong Xuyên hà, đợi trên nghìn năm mới có thể đầu thai. 
Trong nghìn năm đó, hoặc có lẽ sẽ nhìn thấy người mà mình yêu thương nhất trong kiếp này đi trên đầu, nhưng không thể nói chuyện với nhau, bạn thấy họ, nhưng họ lại không thấy bạn. Trong nghìn năm đó, bạn nhìn thấy họ hết lần này lại đến lần khác đi qua cầu Nại Hà, uống canh Mạnh Bà hết chén này lại chén khác, tuy mong họ không uống canh Mạnh Bà nhưng lại sợ rằng họ chịu không nổi cái khổ dày vò nghìn năm trong Vong Xuyên Hà này. 
Sau nghìn năm, nếu như lòng nhớ nhung của bạn không hề giảm đi, còn có thể nhớ được chuyện của đời trước, vậy thì có thể trở lại nhân gian, tìm kiếm người mà bạn yêu nhất trong đời trước. 
Ải thứ sáu: Canh Mạnh Bà 
Canh Mạnh Bà còn gọi là Vong Tình Thủy hoặc Vong Ưu Tán, hễ uống vào liền quên hết mọi chuyện của đời này lẫn đời trước. Mạnh Bà phân phát canh Mạnh Bà ở đầu cầu Nại Hà, chứ không phải ở trên cầu. 
Mỗi một người đều phải đi qua cầu Nại Hà, Mạnh Bà đều sẽ hỏi có uống canh Mạnh Bà không, nếu muốn qua cầu Nại Hà, thì cần phải uống canh Mạnh Bà. Còn không uống canh Mạnh Bà, thì không qua được cầu Nại Hà, không qua được cầu Nại Hà, thì không được đầu thai chuyển sinh. 
Mỗi một người trong dương gian đều có một cái chén của mình ở tại nơi này, canh Mạnh Bà trong chén, thật ra chính là nước mắt chảy suốt một đời của bản thân người ta khi còn sống. Mỗi một người khi còn sống, đều sẽ chảy nước mắt: hoặc vui, hoặc buồn, hoặc đau khổ, hoặc căm hận, hoặc sầu não, hoặc yêu thương … 
Mạnh Bà thu giữ từng giọt từng giọt nước mắt của họ lại, đun nấu thành canh, khi họ rời khỏi nhân gian, đi đến đầu cầu Nại Hà, sẽ cho họ uống vào, quên hết yêu hận tình thù khi còn sống, kiền tịnh sạch sẽ, bắt đầu tiến nhập vào Lục đạo, hoặc là Tiên, hoặc là người, hoặc là súc sinh, v.v… 
Không phải mỗi người đều sẽ can tâm tình nguyện uống canh Mạnh Bà. Bởi vì một đời này, sẽ luôn có người từng yêu không muốn quên đi. Mạnh Bà sẽ nói với họ: “Nước mắt cậu rơi vì người ấy đều đã nấu thành chén canh này, uống nó rồi, chính là uống vào tình yêu cậu dành cho người đó vậy”. Một ký ức được xóa đi sau cùng trong mắt người ta chính là người mà họ yêu nhất trong đời này, uống canh vào, hình bóng người trong mắt dần dần phai nhạt đi, con mắt trong sáng như đứa trẻ sơ sinh. 
Uống canh Mạnh Bà rồi, có thể quên đi hết thảy sầu khổ, buồn vui nơi trần thế, chỉ uống canh thuốc của bà, mối thù trong đời này kiếp này sẽ quên sạch đi, đến thế gian làm một con người hoàn toàn mới. 
Những người mong nhớ, những người thống hận, đời sau đều sẽ là người xa lạ; loại canh khiến người ta gặp nhau mà chẳng biết nhau này chính là canh Mạnh Bà. 
Ải thứ bảy: Cầu Nại Hà 
“Đi qua đầu cầu Nại Hà, một đi không ngoảnh đầu nhìn lại”. 
Cây cầu chia thành ba tầng, tầng trên đỏ, tầng giữa màu vàng đen, tầng dưới cùng là màu đen, càng ở tầng thấp thì càng chật, càng hung hiểm vô cùng. Khi sống làm việc thiện thì đi tầng trên, người nửa thiện nửa ác thì đi tầng giữa, những người hành ác thì chính là đi tầng dưới cùng. 
Bên dưới cầu là con sông có vô số cô hồn dã quỷ không được đầu thai; những quỷ hồn chết đuối kia đều là ở trên dưới nhịp cầu hoặc trái phải đầu cầu, mong tìm thế thân cho mình, để bản thân có thể đầu thai chuyển thế. 
Những người đi tầng dưới sẽ bị quỷ hồn chặn lại, lôi vào trong sóng lớn bẩn thỉu, bị rắn đồng chó sắt cắn xé, chịu đủ thống khổ dày vò không được giải thoát. 
Đi qua hết cầu Nại Hà bèn có thể thông đến sáu nơi, tức là đi vào cõi lục đạo luân hồi: cõi người trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi súc sinh (cũng goi là đường bên cạnh), cõi quỷ đói, cõi địa ngục. 
Trong đó, người trời, A-tu-la là cõi người thuộc về ba đường trên, còn súc sinh, ác quỷ, địa ngục thì thuộc về ba đường dưới. 
Còn đi về cõi nào, là dựa vào nghiệp thiện ác tích được của vong hồn lúc còn sống mà phân loại. Người thiện nghiệp nhiều luôn luôn sẽ được bố trí ba đường trên, những người ác nghiệp nhiều luôn luôn được bố trí ba đường dưới. 
Quá trình đi xuống âm gian của người ta sau khi chết vốn không thông dụng với hết thảy mọi người. Những người tu hành làm thiện nếu như công đức đạt đến viên mãn, sau khi hết mệnh sẽ không phải trải qua quá trình âm gian này mà trực tiếp được Phật tiếp dẫn đến thế giới tây phương Cực Lạc; những kẻ đại ác làm nhiều việc gian ác cũng có thể sẽ không trải qua quá trình âm gian này, bởi nghiệp lực dẫn dắt mà sẽ bị đánh thẳng vào địa ngục. 
Đây là truyền thuyết lưu truyền hơn hàng nghìn năm nay, tuy khoa học không cách nào chứng thực được, nhưng vẫn mãi ảnh hưởng đến tâm linh của người ta, hết thảy mọi người không khỏi hiếu kì, e sợ … 
Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw 
Theo tinhhoa 
Từ xa xưa con người vẫn quan niệm rằng, người tốt chết rồi thì lên thiên giới, người xấu chết rồi thì xuống địa ngục. Và thực sự có tiêu chuẩn phân biết tốt xấu đó là văn hóa cổ truyền để phân định điều này. 
Ngày nay đạo đức xã hội càng ngày càng suy đồi bại hoại, nhưng tiêu chuẩn phân biệt tốt và xấu vẫn bất biến từ xưa đến nay, vì thế càng có nhiều người xấu thì càng có nhiều người phải xuống địa ngục. 
Ví như ai cũng biết Thạch Sanh là tốt thế nào, Lý Thông là xấu ra sao. Nhưng ngày nay người thật thà như Thạch Sanh bị xem là khờ khạo hay “hiền quá”, người giống như Lý Thông được xem là “nhanh nhạy”, khôn và có tài. Chẳng phải tiêu chuẩn nhận định tốt xấu đã đổi chỗ rồi sao. 
Nhưng tiêu chuẩn nhận định lên thiên giới hay xuống địa ngục là bất biến, không thể theo tư tưởng đạo đức suy đồi của con người mà thay đổi theo. Vì thế người xấu càng nhiều thì theo tiêu chuẩn ấy mà xuống địa ngục vậy, đó cũng là do con người tự lựa chọn cho mình.

Ảnh hưởng xấu của tiền tới mối quan hệ con người

Nghiên cứu chỉ ra, tiền đã khiến các mối quan hệ và sự giúp đỡ tự nguyện giữa con người với nhau đã bị thay thế hoàn toàn bởi sự toan tính.
Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của tiền trong xã hội hiện đại nhưng nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học đến từ Viện Khoa học Kinh tế thuộc ĐH Chapman (Mỹ) đã chỉ ra, tiền chính là nhân tố khiến các mối quan hệ hay sự giúp đỡ giữa con người với nhau không còn chân thành, thay vào đó là sự toan tính và vụ lợi. 
Đứng đầu nhóm nghiên cứu – Giáo sư Gabriele Camera đã giải thích cặn kẽ mối quan hệ giữa sự tồn tại của tiền tệ và hành vi con người. Từ xa xưa, loài người thường sống quy tụ theo nhóm nhỏ, các cá nhân đều thân thiết với nhau. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, đi kèm với đó là dân số tăng mạnh thì sự phát triển mối quan hệ tự nhiên này có xu hướng giảm dần. 
Để đưa ra kết luận trên, các nhà khoa học đã tiến hành cuộc thử nghiệm trên 448 người tình nguyện. Trong một loạt các thí nghiệm, người tham gia được yêu cầu có quyền lựa chọn từ chối hoặc đồng ý trợ giúp đồng đội của mình trong cuộc chơi. 
Và tất cả những sự giúp đỡ này dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Kết quả cho thấy, quy mô nhóm càng lớn thì tỉ lệ hỗ trợ nhau càng giảm. Ở nhóm 2 người, sự giúp đỡ là 80%, nhưng số liệu này chỉ có 28,5% ở nhóm 32 người. 
Mối quan hệ và sự giúp đỡ tự nguyện giữa con người với nhau đã bị thay thế hoàn toàn bởi toan tính lợi ích vật chất. 
Trong thí nghiệm thứ 2, nhóm nghiên cứu đã sử dụng đồng token và quy ước đó như 1 đơn vị tiền tệ để người tham gia trong nhóm có thể trao đổi khi muốn được giúp đỡ. Điều bất ngờ là, bất chấp sự gia tăng của số lượng thành viên trong nhóm, tỉ lệ trao đổi duy trì ở mức khá cao 52,1%. 
Giáo sư Gabriele Camera cho biết: “Một khi lợi ích của tiền bao phủ lên suy nghĩ của người trong cuộc, sự chân thành, tự nguyện giúp đỡ nhau dường như không còn nhiều, thay vào đó là sự trao đổi, hợp tác, toan tính điều có lợi cho mình. Điều này cho thấy, trong xã hội hiện đại, mối quan hệ và sự giúp đỡ tự nguyện giữa con người với nhau đã bị thay thế hoàn toàn bởi lợi ích vật chất”. 
(Nguồn tham khảo: DailyMail/kenh14)

Dân “gian” phải dạy, quan “tham” phải trị

Sân bay Nước Mặn (Đà Nẵng) 
Xuân Dương/GDVN
Vì sao ngày nay vẫn còn không ít người có trách nhiệm ở địa phương không hiểu thế nào là chủ quyền quốc gia, thế nào là bí mật quân sự? 
Được biết thời cố Bí thư Nguyễn Bá Thanh lãnh đạo, Đà Nẵng được dư luận đánh giá là thành phố đáng sống nhất Việt Nam.
Đà Nẵng ngày nay nêu tiêu chí trở thành “thành phố an bình”. Bài viết “Chung tay xây dựng thành phố an bình” trên báo Đà Nẵng điện tử đã đề cập đến khá nhiều vấn đề mà cán bộ, nhân dân Đà Nẵng còn phải làm. 
Báo Infonet.vn đang đề nghị bạn đọc bình chọn nhân vật của năm 2015, trong năm người mà Infonet giới thiệu có tên Bí thư Đà Nẵng. 
Trong các bài viết “An ninh quốc gia – lãnh đạo giỏi golf và gửi trứng cho ác” [1]; “Chủ quyền quốc gia, lãnh đạo bận họp và âm mưu ác độc của loài Tu hú” [2] vấn đề người nước ngoài, đặc biệt là người Trung Quốc đến Việt Nam, cụ thể là đến các tỉnh miền Trung, trên danh nghĩa làm ăn kinh tế đã được đề cập khá cặn kẽ, hy vọng sẽ có nhiều người dành thời gian đọc hai bài báo này. 
Không thuê được đất trên địa bàn chiến lược đèo Hải Vân, người ta mua đất ngay sát sân bay Nước Mặn, người ta xây nhà hàng, khách sạn án ngữ hết trục đường ven biển, mục đích xâm nhập khu vực trọng yếu Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng của người Trung Quốc không thay đổi, còn sự lơ là mất cảnh giác của người Việt, đặc biệt là cơ quan công quyền và an ninh địa phương thì lại có chiều hướng gia tăng đến mức khó tin. 
Một phóng sự điều tra từ báo Thanhnien.vn [3] cho thấy nguồn gốc tài chính của một trong hai phụ nữ trẻ (Trần Thị Yến Loan - 23 tuổi) đứng tên thành lập Công ty TNHH Thương mại - Du lịch Tuệ Dân, thành phố Đà Nẵng là không rõ ràng. 
Gia đình Yến Loan không thuộc diện khá giả, bản thân vừa tốt nghiệp đại học, vậy cô gái 23 tuổi này lấy đâu 4,5 tỷ góp vốn thành lập công ty? 
Và không thể không đặt câu hỏi hai người phụ nữ tuổi đời chưa quá 25, một quê Thừa Thiên-Huế, một quê Quảng Nam ấy có bị ai đó đứng sau chi phối khi quyết định không cho phép đồng bào mình vào mua hàng trong cửa hàng của công ty? 
Thuê người Việt đứng tên mua đất, lập công ty, đưa lao động sang chiếm công ăn việc làm của dân địa phương…, đó chỉ là phần nổi của một âm mưu lâu dài mà người dân ai cũng biết, tại sao trước đó an ninh không biết, lãnh đạo địa phương không biết? 
Lỗi trong hiện tượng người dân tiếp tay cho người nước ngoài lũng đoạn kinh tế và trật tự xã hội trước hết là do chính quyền buông lỏng quản lý. 
Trước khi phê phán một số ít người tham lam quên đi trách nhiệm công dân của mình, cần hỏi những người lãnh đạo có biết nhiệm vụ mà họ được nhân dân và nhà nước giao phó là gì? 
Có phải họ cần lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân hay họ chỉ cần những báo cáo đẹp gửi lên cấp trên trước mỗi đợt tổng kết? 
Chuyện Đà Nẵng xây dựng cho người dân một “thành phố an bình” không có nghĩa là tạo một ốc đảo trong lòng quốc gia. 
Một “thành phố an bình” liệu có an bình khi chủ quyền quốc gia có nguy cơ bị xâm phạm? 
Khi Phó Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội Đà Nẵng trả lời về sự kiện “giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm trái phép vùng biển Việt Nam" rằng: “Chuyện "Hải Dương Hải diếc" tôi không quan tâm. Quan tâm chi cái chuyện Hải Dương của họ” thì ai dám khẳng định, rằng ở “thành phố an bình” sẽ không còn những lãnh đạo sẽ “ngây thơ” trả lời “chuyện "Nước Mặn nước miếc" tôi không quan tâm. Quan tâm chi cái chuyện sân bay Nước Mặn của họ”? 
Nhớ lại thời kỳ cuối năm 1978, một nhóm người Hoa đã gây bạo loạn, chiếm giữ một khách sạn tại khu vực ga Hàng Cỏ - Hà Nội, góp phần tạo nên một sự kiện mà Bắc Kinh gọi là “nạn kiều” từ đó lấy cớ xua quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam đầu năm 1979. 
Những người Hoa mà Bắc Kinh gọi là “nạn kiều” ấy đa số là người dân làm ăn lương thiện. 
Nhiều thế kỷ trước, khi đất nước Trung Hoa bị người Mông Cổ, người Mãn Châu đô hộ (thời nhà Nguyên, nhà Thanh) rất nhiều con dân Tống triều, Minh triều đã chạy sang Việt Nam lánh nạn. Họ được người Việt cưu mang xem như những người anh em ruột thịt của mình. 
Thế nhưng trước lời kêu gọi của các “đồng chí” từ “tổ quốc”, trước những ràng buộc về huyết thống và sự đe dọa ngầm trong cộng đồng người Hoa, họ quay lại phản bội mảnh đất và dân tộc đã cưu mang tổ tiên họ từ nhiều đời trước và chính họ thời hiện đại. 
Lấy gì đảm bảo rằng ngày nay, khi sự việc xấu đi, những người “làm ăn lương thiện” ấy không gây nên sự kiện “Ga Hàng Cỏ” một lần nữa khi mà chỉ cần vài bước chân họ đã có thể tiến vào bên trong sân bay Nước Mặn hay tiếp cận các địa điểm nhạy cảm thuộc địa bàn chiến lược: biên giới, miền trung, Tây Nguyên…? 
Các tòa nhà không cho người Việt vào có phải chỉ vì mục đích kinh doanh thuần túy hay còn ẩn giấu nhiều thứ bên trong mà người ta không muốn “gây tò mò” cho người khác? 
Xây dựng sơ sở kinh doanh trên đất Việt nhưng lại không bán hàng cho người Việt, đó có phải đạo đức kinh doanh mà hai cô gái trẻ công ty Tuệ Dân học tập được từ thương trường? 
Vì sao chỉ khi báo chí phanh phui thì chính quyền mới can thiệp, mới xử phạt trong khi tất cả phường, xã (không riêng gì Đà Nẵng) đều có cơ quan Đảng, chính quyền, công an và các đoàn thể quần chúng, họ hưởng lương để làm gì? 
Vì sao ngày nay vẫn còn không ít người có trách nhiệm ở địa phương không hiểu thế nào là chủ quyền quốc gia, thế nào là bí mật quân sự? Do năng lực yếu kém hay còn có những liên hệ tiềm ẩn phía sau rất khó nhận diện? 
Giải quyết câu chuyện nguồn vốn đầu tư của hai người thuộc công ty Tuệ Dân và 71 công dân Đà Nẵng đứng tên mua 137 lô đất cho người nước ngoài tuy không đơn giản nhưng hoàn toàn có thể làm được. 
Xin đề xuất một vài giải pháp có thể áp dụng: 
1. Công bố quy hoạch các khu đất và vành đai bảo vệ dành cho an ninh quốc phòng, cấm xây dựng các công trình dân sự do tư nhân làm chủ đầu tư trong khu vực này. Nghiêm cấm việc chia lô, bán đất hoặc sang nhượng quyền sử dụng các lô đất thuộc khu vực nhạy cảm cho cá nhân, kể cả công dân Việt Nam. 
2. Nghiêm khắc kiểm điểm trách nhiệm những người xây dựng quy hoạch đô thị, chia lô bán đất các khu vực nhạy cảm về an ninh quốc phòng kể cả khi họ đã nghỉ hưu. 
3. Yêu cầu các công dân đứng tên mua đất hoặc thành lập cơ sở kinh doanh giải trình nguồn gốc số tiền họ có để đầu tư, trên cơ sở đó xem xét việc đóng thuế thu nhập cá nhân của họ. 
Những người có số tiền lớn đầu tư nhưng không giải trình được nguồn gốc thu nhập và không nộp thuế thu nhập cá nhân cần phải xử lý tội danh trốn thuế theo điều 161 Bộ Luật Hình sự. 
4. Đối với người dân trót ham lợi, nhận tiền của người nước ngoài mua đất, thành lập công ty để hưởng hoa hồng, có thể xem xét giảm mức hình phạt về tội danh trốn thuế (nếu có) nếu họ tình nguyện bán lại các lô đất đã mua cho chính quyền với giá thấp hơn hoặc cùng lắm là bằng giá họ đã mua. 
Những người không đồng ý bán lại đất, trước mắt cần vận động giải thích để họ hiểu, nếu có người cố tình không bán lại thì mới xem xét những vi phạm về thuế và kê khai thu nhập để xử lý theo luật. 
Việc xử lý người Việt mua đất tuân theo pháp luật Việt Nam, chính vì thế sẽ không có bất kỳ lý do gì để người nước ngoài núp bóng người Việt có ý kiến phản đối. 
5. Chính quyền cần chuẩn bị nguồn kinh phí để thu mua lại tất cả các lô đất này, cần thiết có thể đề nghị sự hỗ trợ của ngân hàng hoặc tạm ứng từ nguồn ngân sách nhà nước. 
Không thể quy hết trách nhiệm cho người dân bởi dân có thể làm những điều pháp luật không cấm. 
Trách nhiệm trước hết thuộc về người đứng đầu cơ quan quyền lực địa phương mà cụ thể là người đứng đầu tổ chức Đảng địa phương, bởi theo hiến pháp, Đảng lãnh đạo toàn diện, triệt để mọi hoạt động của chính quyền. 
------------- 
*** Tài liệu tham khảo: 

Con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: Chúng ta đã thực sự tin nhân dân?

Là con trai của một người Cộng sản đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, Tiến sĩ Toán - Lý Lê Kiên Thành có một khao khát tột cùng, Đảng sẽ thực sự là Đảng của dân tộc, của nhân dân...

Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII sẽ diễn ra. Đến thời điểm này, Đảng đã tròn 85 tuổi, với 70 năm lãnh đạo đất nước.
Là con trai của một người Cộng sản đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, tôi có một khao khát tột cùng, là Đảng sẽ thực sự vững mạnh, sẽ thực sự là Đảng của dân tộc, của nhân dân, quên mình vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân…
Nhưng những đêm vắt trán nằm suy nghĩ về đất nước, tôi hiểu chúng ta còn thiếu và sai nhiều. Một trong những cái sai đó là chúng ta chưa thực sự biết tin dân!
Ở châu Âu, Thụy Sĩ là một quốc gia nhỏ bé, không giáp biển, không tài nguyên thiên nhiên. Đất nước Thụy Sĩ không có ngôn ngữ chung: 40% nói tiếng Pháp, 30% nói tiếng Đức, 20% nói tiếng Italia và một số nói thổ ngữ…
Nhưng nước Thụy Sĩ có thịnh vượng không? Rất thịnh vượng!
Vì sao nước Thụy Sĩ thịnh vượng, với hoàn cảnh đất nước phức tạp như thế?
Đó là vì cái gì họ cũng trưng cầu dân ý. Mọi quyết định lớn nhỏ của đất nước giàu có đó, đều được Chính phủ Thụy Sỹ thực hiện trưng cầu dân ý, hỏi ý kiến nhân dân.
Khi Chính phủ trưng cầu dân ý có nên hạn chế lương của người giám đốc công ty chỉ được cao hơn 12 lần so với lương của công nhân không? Người Thụy Sĩ bảo không. Họ nói người tài đã ít, chúng ta muốn giàu thì phải tôn trọng người tài!
Khi Chính phủ hỏi nhân dân, người Pháp làm 35 giờ một tuần, chúng ta có nên làm theo không? Người Thụy Sĩ nói không, nước mình nghèo nên mình vẫn phải làm 40 giờ một tuần… Nhờ đó, Chính phủ Thụy Sĩ biết nhân dân cần gì, muốn gì. Mọi quyết định hệ trọng của đất nước đều được sự góp ý và đồng thuận của nhân dân.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan khi sang gặp Tổng thống Thụy Sĩ, đã từng được Tổng thống Thụy Sĩ tiếp đón trong một bốt bưu điện, với chỉ một cái giường, một cái bàn, hai cái ghế. Theo luật, Tổng thống nước họ không được ở khách sạn mà phải ở nhà của bưu điện. Và người làm Tổng thống của họ không có quyền hành gì ghê gớm mà là do các Bộ trưởng thay nhau làm tổng thống trong vài tháng. Tổng thống chỉ đơn thuần sẽ có vai trò báo cáo lại với nhân dân. Nghĩa là ở đất nước đó, người dân giám sát chính phủ một cách gần như tuyệt đối và có quyền đồng ý hay phủ quyết với mọi việc chính phủ làm.
Đó chính là ví dụ rõ nét nhất về sự giám sát và làm chủ của nhân dân.
Đó là lý do khiến Thụy Sĩ trở thành quốc gia được cả thế giới tôn trọng về những thành tựu đã đạt được.
Việc thừa nhận vai trò của người dân và lắng nghe ý kiến của người dân là bài học mà chúng ta phải học từ đất nước này!
Năm 1284, khi quân Nguyên Mông mang 50 vạn quân xâm lược nước ta lần thứ hai, nhà Trần đã biết tổ chức Hội nghị Diên Hồng, để hỏi ý kiến nhân dân về việc chủ hoà hay chủ chiến. Nhờ nhân dân cả nước đồng lòng đánh giặc, nhà Trần đã đánh bại đội quân hùng mạnh nhất thế giới khi đó.
Tiến sĩ Toán - Lý Lê Kiên Thành, con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn
Nghĩa là từ cả nghìn năm trước, những người đứng đầu đất nước ta thời kỳ đó đã biết hỏi ý kiến nhân dân, biết tin nhân dân, và biết cách để quân dân trên dưới một lòng trong những quyết định lớn lao của dân tộc.
Và thực tế đã chứng minh, khi có được sự đồng lòng, thì một dân tộc nhỏ bé cũng có thể trở thành vĩ đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta cũng mang vóc dáng đó, và cũng vì thế mà ta đã chiến thắng được Mỹ.
Nhưng ngày hôm nay, Đảng còn tin vào sự sáng suốt của dân như đã từng tin trong quá khứ hay không?
Tôi vẫn thường nghĩ đi nghĩ lại, là tại sao, Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường theo tư tưởng của Karl Marx, lấy giai cấp công nhân là nòng cốt, ngay từ thuở ban đầu chưa có thành công gì mà lại có thể hấp dẫn quần chúng nhân dân ở một đất nước nông nghiệp như nước ta thuở trước? Điều đặc biệt là Đảng đã thu hút được những người tinh túy nhất của xã hội vào trong lòng nó, hấp dẫn được cả dân tộc tham gia vào sự nghiệp đó.
Năm xưa, khi bà mẹ miền Bắc gửi con vào miền Nam đánh giặc, khi bà má miền Nam đào hầm nuôi giấu bộ đội, họ - những người phụ nữ ấy, chẳng thể hiểu thế nào là Chủ nghĩa Xã hội, cũng chẳng biết ông Karl Marx, ông Lenin là ai. Nhưng họ vẫn theo Đảng, theo Bác Hồ. Không phải họ chọn chúng ta vì lý thuyết đó, mà vì thời điểm ấy, ngay khi ra đời Đảng đã đặt mục đích của giai cấp, mục tiêu của giai cấp nằm trong lòng mục đích, mục tiêu của dân tộc.
Chưa bao giờ ở thời đó Đảng đặt vị trí của giai cấp, vị trí của Đảng lên cao hơn mục đích, lý tưởng của cả dân tộc này. Và khi biết đặt mục đích của dân tộc, của đất nước lên cao, không phải vì một nhóm người nào, Đảng đã quy tụ được những người ưu tú nhất vào trong hàng ngũ của mình và có được sự ủng hộ mãnh liệt nhất của cả đất nước này. Suốt một thời gian dài, Đảng gần như dựa hết vào người dân, người dân nuôi, người dân bảo vệ, người dân ủng hộ. Người Cộng sản có thể gửi gắm cả tính mạng mình cho nhân dân khi bị kẻ thù uy hiếp.
Nhưng khi sự nghiệp lớn đã thành công, những người Cộng sản trở thành những người lãnh đạo đất nước, họ dần dần trở thành giai cấp cầm quyền và có lúc "nhìn xuống" nhân dân của mình.
Bác Hồ nói "người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân". Nhưng một số người Cộng sản, khi đã trở thành quan chức, khi đã đi xe hơi, ở nhà lầu thì họ không còn nhìn thấy phần "đầy tớ" thực thụ của họ trước nhân dân. Tôi cho anh quyền ở cái nhà này, đi cái xe này, nhưng anh phải làm như trâu như ngựa cho tôi. Đó mới là thân phận thực sự, là ý nghĩa thực sự, bản chất thực sự của hai từ "đầy tớ".
Cũng có nghĩa là, anh chỉ là người lái xe ôtô, còn người chủ thực sự là tất cả những người mua xe đó, ngồi trong xe đó, và bất kể anh muốn lái chiếc xe đó đi theo con đường nào, lái nhanh hay lái chậm, đều phải có được sự đồng thuận từ chủ nhân thực sự của nó, là nhân dân.
Người lãnh đạo ở Thụy Sĩ hiểu một điều, nếu người dân không đồng ý thì anh sẽ không được nắm quyền. Quyền đó là người dân trao cho anh, chứ không phải tự anh sinh ra đã có.
Người Cộng sản Việt Nam cũng phải hiểu điều đó!
Nhưng tôi vẫn lo sợ rằng, cách mà chúng ta đang điều hành bây giờ có thể đó đây phần nào đã làm lu mờ đi vai trò của nhân dân với tư cách "làm chủ".
Những cụm từ "Đảng soi đường", "Đảng chỉ lối", "Đảng dẫn dắt" mà chúng ta vẫn hay dùng, vô hình trung đã khiến cho tất cả chúng ta đều có cảm giác Đảng đang vượt lên cả dân tộc và làm cho vai trò rất lớn của nhân dân phần nào bị lu mờ đi. Tôi rất lo sợ, qua năm tháng, chính những câu chữ đó cũng đã tạo ra sự ngộ nhận cho chính những người trong Đảng. Nhưng người Cộng sản không được phép quên rằng, Đảng sinh ra là từ dân tộc này, tồn tại được cũng nhờ dân tộc này, vinh quang được cũng là nhờ dân tộc này, thành công này cũng là do cả dân tộc cùng đồng lòng trả bằng xương bằng máu. Vượt lên trên dân tộc là điều không bao giờ được phép!
Năm nay là tròn 70 năm Đảng lãnh đạo đất nước, nhưng theo tôi nhớ chúng ta chưa một lần trưng cầu ý dân. Phải mãi đến ngày 25/11/2015, đúng một tháng trước, sau rất nhiều lần nâng lên đặt xuống, Luật Trưng cầu dân ý mới được Quốc hội chính thức thông qua, trong khi đó đáng lẽ là điều phải làm từ lâu lắm rồi!
Lẽ nào đất nước mình tốt đẹp đến mức, hùng mạnh đến mức không còn bất cứ vấn đề nào cần thiết để trưng cầu ý dân?
Tất cả chúng ta đều biết sự thật không phải vậy! Những người đứng đầu Đảng và Nhà nước đã báo động về sự tồn vong của Đảng, sự tồn vong của dân tộc trước sự tha hoá của một bộ phận không nhỏ đảng viên. Những ai thẳng thắn nhất, sòng phẳng nhất đều phải đối diện với sự thật này.
Một đảng cộng sản đã từng được nhân dân che chở từ những ngày đầu, nhờ nhân dân mà trở nên hùng mạnh, nhờ dân tộc mà trở thành Đảng lãnh đạo, không có lý do gì lại không nhờ nhân dân hiến kế để sửa chữa những vấn đề của mình.
Nếu không làm được việc này, chỉ có thể là vì chúng ta đã chưa thực sự tin vào nhân dân và không hiểu được đến tận cùng sức mạnh của nhân dân. Mà, muốn tin nhân dân, thì phải có trí tuệ, phải có lòng dũng cảm.
Tôi mãi băn khoăn một điều, tại sao ở nước ta, hình thức bầu cử là "Đảng cử, dân bầu" mà không phải là "Đảng cử, dân cử, dân bầu", để nhân dân cũng được quyền trực tiếp đề cử và lựa chọn những người lãnh đạo mà họ thực sự mong muốn?
Tôi cũng mãi băn khoăn một điều, khi Quốc hội - cơ quan đại diện cho nhân dân giám sát Đảng và Nhà nước mà lại có đến 90% là đảng viên thì mình sẽ hình dung được cách làm của Quốc hội như thế nào? Khi một cơ quan của dân và không nhiều người dân ở trong đó đến như vậy, thì chúng ta đã tin dân hay chưa? Tất nhiên Quốc hội đang phấn đấu thay đổi tỷ lệ này trong khóa tới.
Với những chính sách ràng buộc khiến 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên, vô hình trung, chúng ta đã khiến Quốc hội không còn là cơ quan nói lên tiếng nói của dân. Mà cơ quan dân cử phải là của dân, đó là lẽ đương nhiên. Những sự ràng buộc đó chỉ chứng tỏ rằng bản thân chúng ta không tự tin vào sự sáng suốt của người dân, chúng ta không đủ dũng cảm để tin vào người dân như chúng ta đã từng tin trong quá khứ.
Trước đây sự sống còn của Đảng là do người dân, và tất cả những đảng viên đều hiểu điều đó. Vậy mà giờ đây, khi vận mệnh của Đảng đang khó khăn như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chúng ta lại không dám hỏi ý kiến dân.
Trước đây khi chúng ta muốn nói điều gì với dân, chỉ dùng một tờ truyền đơn là người dân tin. Trong khi đó hiện chúng ta có đến khoảng 800 đầu báo mà chúng ta lại lo sợ nhân dân sẽ hiểu sai về Đảng khi đọc những tiếng nói trái chiều trên những trang báo lề trái. Đó là điều phi lý mà tôi không cắt nghĩa được.
Lẽ nào chúng ta không đủ tự tin vào sự nhận thức của nhân dân? Vào khả năng phân biệt đúng sai của nhân dân trước những luận điệu đó?
Thật ra có lẽ điều đáng sợ nhất hôm nay, điều mà người Cộng sản nên lo lắng nhất hôm nay, không phải là những bài viết mà chúng ta quy kết là "phản động", là "chống phá" trên mạng xã hội. Điều đáng sợ là tại sao người dân bây giờ lại ít mua báo?
Ngày xưa những bài báo làm nức lòng người nhất là trên báo Nhân Dân, ngược lại ngày nay những tờ báo như vậy hầu như không bán được ở sạp, vậy mà không lãnh đạo nào để ý, hay cảm thấy lo lắng, khi mà điều đó đã đánh động rằng, tiếng nói của Đảng và dân đang ngày càng cách xa nhau.
Thế giới đang thay đổi theo từng giờ, từng ngày. Mọi thứ đều phải đổi mới, đương nhiên dòng sông không chảy thì sẽ thành một vũng nước, con chim không đập cánh thì sẽ trở thành một bộ xương ở gốc cây và cá nhân một người Cộng sản, mặc dù vẫn là con người ấy, chính thể ấy nhưng vẫn phải đổi thay từng bước. Ngày hôm nay, Đảng Cộng sản cũng cần phải thay đổi để tránh những nguy cơ ấy.
Đầu tiên, có lẽ là học cách tin vào sự sáng suốt của nhân dân!
Tiến sĩ Lý Lê Kiên Thành

28 tháng 12, 2015

Làm lãnh đạo phải có dũng khí và trình độ

Trung tướng Lưu Phước Lượng
Trung tướng Lưu Phước Lượng: "Kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại, cần phải quyết liệt áp dụng các quy luật của nó đầy đủ và đúng mới phát triển được. Nói “định hướng xã hội chủ nghĩa” ở đây có nghĩa: bên cạnh các quy luật kinh tế thị trường cần chú trọng thực hiện những chính sách xã hội để khắc phục mặt trái như khoảng cách giàu nghèo, bảo vệ công nhân, người lao động trước giới chủ, thực hiện công bằng xã hội..."
Điều này các nước tư bản phát triển đã làm, đang làm rất thành công nhưng họ có bao giờ nói "định hướng xã hội chủ nghĩa đâu". 
Trung tướng Lưu Phước Lượng đang "vô tình" ca ngợi chủ nghĩa tư bản nhưng lại cố gượng ép bám lấy "cái đuôi xã hội chủ nghĩa" thì có khác nào con nòng nọc không chịu đứt đuôi.
Hãy đứt đuôi đi các đảng viên muốn đặt quyền lợi Tổ quốc và Đất nước trên quyền lợi và cái ghế của đảng cộng sản! 
TT -Trung tướng Lưu Phước Lượng, nguyên phó trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, đã tiếp nối mạch ý kiến góp ý Đại hội Đảng XII như vậy.
“Xoay quanh vấn đề cán bộ và tiếp tục đổi mới để chủ động hội nhập, gần đây đã có nhiều tham luận, đối thoại đăng trên mặt báo gây nhiều ấn tượng và cảm xúc mạnh mẽ, thúc đẩy tôi tiếp tục những suy nghiệm từ lâu của mình về những giáo điều, khuôn sáo mà lịch sử và thực tiễn đã vượt qua...” - trung tướng Lưu Phước Lượng chia sẻ.
Cần thay đổi quan điểm về sở hữu
* Ông cho biết điều lo lắng, bức xúc nhất của mình là đường lối đổi mới của Đảng chưa được thực hiện triệt để, khiến yêu cầu hội nhập không được đáp ứng, phát triển không được bền vững. Ông có thể nói rõ hơn nội dung “chưa triệt để” này?
- Chúng ta theo đuổi đường lối đổi mới đã gần 30 năm và đã tiến được những bước dài, nhưng vẫn còn xa với mong muốn của nhiều người quan tâm đến đất nước. Tôi cho rằng đổi mới nhưng không triệt để là nguyên nhân sâu xa của mọi vấn đề.
Kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại, cần phải quyết liệt áp dụng các quy luật của nó đầy đủ và đúng mới phát triển được. Nói “định hướng xã hội chủ nghĩa” ở đây có nghĩa: bên cạnh các quy luật kinh tế thị trường cần chú trọng thực hiện những chính sách xã hội để khắc phục mặt trái như khoảng cách giàu nghèo, bảo vệ công nhân, người lao động trước giới chủ, thực hiện công bằng xã hội...
Còn tham nhũng: vì sao không chống được? Căn nguyên của tham nhũng bắt nguồn từ quyền lực không được giám sát, từ trách nhiệm tập thể, và theo tôi, quan trọng nhất là từ cơ chế sở hữu công cộng. Không ngẫu nhiên mà hầu hết đối tượng tham nhũng, tài sản tham nhũng đều rơi vào khối này. Quan điểm “đất đai là sở hữu toàn dân” dẫn đến nhiều người tìm cách lợi dụng quyền lực để biến thành của riêng.
Các công ty, tập đoàn nhà nước quản lý, sử dụng vốn không hiệu quả, gây thất thoát cũng bắt nguồn từ nguyên nhân này, nếu tiền của chính họ thì không thể mất vốn dễ dàng như thế. Chuyện năng suất lao động bao năm nay không tăng được bao nhiêu, ngoài nguyên nhân lương bổng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vấn đề về chế độ sở hữu không?... Tôi cho là có. Bài học và câu trả lời của khoán 10, khoán 100 vẫn còn nguyên đó. Cũng vì nguyên do này mà công bằng xã hội của chúng ta chẳng thực hiện được bao nhiêu, khiến lòng tin của nhân dân bị xói mòn.
* Nhiều người đã phân tích rõ về những vấn đề này rồi?
- Nhìn lại lịch sử, chúng ta có nhiều giai đoạn đã áp dụng lý thuyết giáo điều mà chưa có kinh nghiệm thực tiễn, không nhận ra được vấn đề và bản chất vấn đề dẫn đến những sai lầm, tổn thất. Không động đến những vết thương đã quá đau nữa vì điều cần thiết nhất hiện nay là đoàn kết dân tộc, nhưng nhân dân muốn Đảng nhìn nhận lại những sai lầm để trưởng thành, để thể hiện sự nhận ra ấy qua đường lối đổi mới cụ thể. Vì thế, chúng ta nhất thiết phải chọn được những người lãnh đạo có dũng khí và trình độ, có bản lĩnh chính trị để có những quyết định đột phá cho tương lai.
Lấy dũng khí để đổi mới
* Dùng chữ dũng khí có trừu tượng quá không để lựa chọn lãnh đạo?
- Người có dũng khí là người luôn vì nước vì dân, có lòng tự trọng để dám nói sự thật, không vì động cơ cá nhân và tự chịu trách nhiệm, dũng cảm, thẳng thắn bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình.
Và tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm rằng dũng khí phải đi đôi với trình độ, bản lĩnh chính trị. Lâu nay, có cán bộ bị những giáo điều hằn sâu trong nhận thức, có người nhận ra nhưng lại ngán ngại vượt qua, lại có người vượt qua thì bị quy chụp... bất chấp thực tiễn đang thay đổi và nguyện vọng quần chúng đang sục sôi. Đó cũng là nguồn gốc, nguyên cớ dẫn đến sự tụt hậu và tụt hậu ngày càng xa của đất nước, dân tộc chúng ta, hàm chứa những vấn đề lớn đang trong quá trình giải quyết với nhiều bất cập: tham nhũng, dân chủ trong Đảng, trong nhân dân, thể chế kinh tế, công bằng xã hội...
* Ông tin tưởng rằng Đại hội Đảng lần này sẽ chọn được những vị lãnh đạo có dũng khí như vậy?
- Tin nên tôi lên tiếng để đóng góp và tôi tin rằng không thể không chọn con đường đổi mới triệt để. Theo quy luật, đổi mới sẽ phải đến, đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải đến, chúng tôi lên tiếng vì sốt ruột, vì muốn thúc đẩy để chúng ta tiến nhanh hơn, mạnh hơn.
PHẠM VŨ thực hiện

Sao lại dạy điều xấu, việc ác?

Tác giả: Lương Hoài Nam
Nelson Mandela từng nói rằng: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới”. Những câu chuyện cổ tích mang đầy “màu sắc báo thù” trên đây là sản phẩm của một xã hội sơ khai. Chúng đáng bị lãng quên từ lâu bởi những thông điệp trong đó đã không còn phù hợp với thời đại văn minh, pháp trị, nơi hành vi của con người được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật.
————
Trên chuyến bay từ Hà Nội vào TP HCM tôi đọc được truyện “Gốc tích cái nốt dưới cổ con trâu” trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, đăng trên một tờ tạp chí song ngữ.

Tôi thực sự thấy sốc. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại tuyên truyền những truyện như thế? Lại còn dịch ra tiếng Anh cho bạn bè quốc tế đọc nữa.
Truyện kể rằng: Ngày xưa trâu và người nói cùng một thứ tiếng. Một người làm ruộng thuê một cậu bé chăn trâu. Do ham chơi, cậu bé không dắt trâu đi ăn, mà cột trâu lại một nơi rồi bỏ đi chơi khăng. Cuối ngày, để che mắt chủ, cậu lấy mo cau áp vào bụng trâu, trát bùn ra ngoài rồi dắt trâu về chuồng. Cậu khôn ngoan dùng lời lấp liếm, không cho trâu có dịp mở miệng. Nhưng đến một hôm, khi chủ dắt trâu đi cày, trâu mách. Chủ biết chuyện, đánh cho cậu bé một trận tả tơi. Cậu bé ngồi trên bờ ruộng khóc. Bỗng dưng một ông lão hiện ra, hỏi cậu vì cớ gì mà khóc. Cậu bé giải thích rồi bày tỏ mong muốn “làm thế nào trâu không nói được nữa”.
Ông lão bèn rút từ trong người ra một que hương, đốt lên rồi bất thình lình gí vào dưới cổ con trâu. Con trâu kêu oai oái, tiếng nói của trâu dần dần mất hẳn, chỉ còn “nghé ọ” được mà thôi. Chỗ bị thương sau này thành một cái nốt và từ đó trâu không còn nói được nữa.
Tôi sốc bởi trong truyện này, cậu bé chăn trâu là một kẻ xấu. Cậu lười lao động, khôn lỏi, gian dối với người và tàn nhẫn với trâu – loài động vật hiền lành, có ích. Ông lão (ông Bụt) khi biết chuyện đã không dạy bảo điều khôn, lẽ phải cho cậu, lại còn thương hại kẻ xấu mà ra tay làm điều ác với con trâu.
Chúng ta muốn dạy người Việt Nam điều gì qua truyện cổ tích phản giáo dục này, khi điều xấu, việc ác không những không bị lên án, mà còn được chia sẻ và tiếp tay? Tôi cũng nghi ngờ cả tính giáo dục của phần kết truyện Tấm Cám – kiệt tác cổ tích Việt Nam. Đành rằng Cám là người xấu, nhiều lần hãm hại Tấm, nhưng chúng ta có nên giáo dục các thế hệ trẻ em Việt Nam bằng chuyện Tấm xui Cám tắm nước nóng cho chết bỏng, rồi chặt xác Cám làm tám khúc, lấy thịt làm mắm gửi cho mẹ kế ăn?
Tôi tin rằng, chúng ta sẽ mong muốn có một cô Tấm biết kiềm chế và cư xử nhân đạo hơn với những người sai trái trong và ngoài gia đình. Chúng ta muốn con em mình vị tha và có ý thức pháp quyền hơn để biết bắt trói và giao nộp những kẻ trộm chó cho công an, thay vì thẳng tay đánh chết họ…
Đời sống kinh tế của nước ta ngày một cải thiện, nhưng đồng thời điều xấu, cái ác trong xã hội ta cũng ngày càng nhiều hơn, cuộc sống của mỗi người ngày càng có nhiều rủi ro hơn từ những người sống quanh mình. Nước nào ít nhiều cũng đều có tội phạm. Nhưng ở nước ta, trong những năm gần đây có rất nhiều vụ giết người vì những lý do lãng xẹt: vì “bọn nó dám sang làng ta tán gái”; vì “nhìn đểu”; vì va quệt xe máy; vì cãi nhau ở quán nước…
Tôi nghĩ, nhiều kẻ, sau khi đã gây án, cũng không thể hiểu nổi tại sao chúng lại giết người một cách vớ vẩn, ngu xuẩn đến như vậy. Đấy là nói về chuyện giết người, còn về những điều xấu, việc ác chưa đến mức giết người thì vô vàn, kể ra không xuể. Tôi chỉ có thể đặt nghi vấn về sự tích tụ cái ác quá nhiều ở những kẻ đó, nhiều đến mức chúng không còn nhận thức được về cái ác nữa.
Nelson Mandela từng nói rằng: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới”. Những câu chuyện cổ tích mang đầy “màu sắc báo thù” trên đây là sản phẩm của một xã hội sơ khai. Chúng đáng bị lãng quên từ lâu bởi những thông điệp trong đó đã không còn phù hợp với thời đại văn minh, pháp trị, nơi hành vi của con người được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật.
Tôi cho rằng, cần phải rà soát lại những gì chúng ta dạy cho con em ở mọi hình thức và loại bỏ tất cả những gì vô tình tuyên truyền, cổ xúy cho điều xấu, việc ác.
Mỗi một thế hệ trẻ là một vụ mùa của đất nước. Hạt gieo xuống không được chăm sóc đúng cách thì không thể đòi hỏi những vụ mùa xanh tươi.

Thực chất chuyến thăm TQ của ông Sinh Hùng

Tác giả: BBC Tiếng Việt.
KD: Một Quốc gia mà bất cứ chuyến đi thăm láng giềng nào cũng bị dư luận XH nghi ngờ là “dựa nọ, dựa kia”, “xin nọ, xin kia”, thân phận người dân QG đó thật là đau khổ, tủi hờn!
————
Other
Ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội VN, thăm Trung Quốc từ ngày 23-27/12/2015.
Chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Sinh Hùng, chỉ có ý nghĩa ‘đối ngoại’ hơn là liên quan tới vấn đề nhân sự của Đại hội đảng lần thứ 12 sắp nhóm họp đầu năm tới đây, theo một nhà nghiên cứu quan hệ Việt – Trung từ Hà Nội.
Bình luận với BBC về chuyến thăm của ông Nguyễn Sinh Hùng, người vừa thăm Trung Quốc từ ngày 23-27/12/2015 theo lời mời của nhà lãnh đạo Quốc hội Trung Quốc, ông Trương Đức Giang, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy từ Việt Nam nói:
Ông Nguyễn Sinh Hùng nhiều tuổi rồi, theo tôi, mà cũng không phải là nhân vật đặc biệt. Cho nên khó mà có thể ở lại để làm chức vụ gì mới trong ban lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đâuNhà nghiên cứu Dương Danh Dy
“Có thể giải thích là chuyến đi thăm cuối cùng khi còn cương vị thì tội gì không đi.
“Đi thì vừa tỏ lễ nghĩa, tỏ tình cảm, còn chuyện họ có ý đồ gì nữa thì chuyện đó là cái chuyện để đó xem thôi.
“Chứ còn theo tôi thì ông Nguyễn Sinh Hùng nhiều tuổi rồi, theo tôi, mà cũng không phải là nhân vật đặc biệt.
“Cho nên khó mà có thể ở lại để làm chức vụ gì mới trong ban lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đâu,” nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu nói.
Bỏ một lá phiếu’
Về ý nghĩa của việc Chủ tịch, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong chuyến thăm Việt Nam hồi đầu tháng 11/2015, đã bày tỏ lời mời đương kim Thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng, sang thăm Trung Quốc ‘vào một thời điểm thích hợp’ trong tương lai, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy bình luận thêm:
“Cá nhân tôi, với sự hiểu biết của tôi, thì tôi cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng ‘khá chắc’ rồi.
“Cho nên khi mời ông Dũng đi, thì tức là phía Trung Quốc đã bỏ phiếu Tổng bí thư cho ông Dũng đấy.”
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng đưa ra đánh giá của mình về mức độ ‘hiệu quả tác động’ của Trung Quốc ‘vào nội bộ’ của Việt Nam.
Ông nói: “Tôi biết ảnh hưởng của Trung Quốc từ những đại hội trước đó, từ thời ông Lê Khả Phiếu, rồi đến ông Nguyễn Phú Trọng…, ông Nông Đức Mạnh, Trung Quốc làm sao can thiệp được Việt Nam, (can thiệp) rất nhiều, nội bộ không muốn nói ra đấy chứ.
Làm sao ngần ấy đảng viên người ta mù hay sao mà người ta chọn những anh ngu, anh ngốc, những anh không làm được việc? Cho nên yên chí rằng là Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ theo tôi thì qua nhiều đại hội, và đặc biệt là qua mấy chục năm đổi mới rồi, thì họ trưởng thành lắmNhà nghiên cứu Dương Danh Dy
“Họ ép anh này, ép anh kia, nhưng có ép được đâu, vấn đề là Việt Nam vẫn chọn người của mình thôi,” nhà nghiên cứu nói.
‘Yên chí sẽ chọn đúng’
Nhân dịp này, ông Dương Danh Dy cũng bày tỏ tin tưởng của mình là Đại hội đảng lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ chọn ra giàn lãnh đạo một cách đúng đắn.
Ông khẳng định: “Làm sao ngần ấy đảng viên người ta mù hay sao mà người ta chọn những anh ngu, anh ngốc, những anh không làm được việc? Cho nên yên chí rằng là Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ theo tôi thì qua nhiều đại hội, và đặc biệt là qua mấy chục năm đổi mới rồi, thì họ trưởng thành lắm.
“Cho nên các đại biểu đi dự không phải người ta cũng bầu đâu, anh vớ vẩn họ không bầu đâu. Bầu lên không làm việc, họ không bầu đâu,” ông Dương Danh Dy nói.Reuters Kham 
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 11/2015 đã mời ông Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Trung Quốc ‘trong tương lai vào một thời điểm thích hợp’.
Trở lại với ý nghĩa thực sự của chuyến thăm Trung Quốc của ông Nguyễn Sinh Hùng, người vừa thăm Trung Quốc trên cương vị Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, nhà nghiên cứu quan hệ Việt – Trung, bình luận:
“Theo tôi, phải nói thẳng ra là nó là một chuyến đi bình thường thôi, hai bên đi thăm nhau thì qua lại bình thường thôi, nhưng trong tình hình hiện nay, theo tôi nghĩ là nó cũng có một số ý nghĩa mà mình (Việt Nam) cần phải chú ý.
“Tức là, thứ nhất phải nói thẳng là quan hệ Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn tiếp tục căng thẳng xung quanh vấn đề Biển Đông, nói chung là như thế. Điểm thứ hai là Việt Nam và Mỹ, qua chuyến đi thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã có bước tiến dài trên con đường bình thường hóa và cải thiện quan hệ hai nước.
“Cho nên chuyến đi của ông Nguyễn Sinh Hùng sang thăm Trung Quốc nó cũng có thêm ý nghĩa mà chúng ta không thể xem thường được,” cựu Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu nói với BBC hôm Chủ Nhật

27 tháng 12, 2015

Cải cách trước hết phải từ thống kê

Tác giả: Tô Văn Trường
KD: Những con số tưởng vô hồn thực ra lại biết nói về sự hưng thinh hay suy vong của XH. Những con số tưởng là thực mà hóa ra lại …ảo. Dù thế giới ta đang sống là thế giới thật!
Cảm ơn Ts Tô Văn Trường đã gửi bài viết này.
————
Ảnh chỉ mang tính minh họa (Nguồn: trên mạng)
Theo lý thuyết điều khiển thì việc ghi nhận dữ liệu của mọi hệ thống một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời và phân tích chúng mang ý nghĩa quyết định đối với sự vận động của hệ thống đó. Từ đây, mới thấy thống kê là công cụ không thể thiếu của các nhà kỹ trị trong thế giới văn minh.
Thống kê hay…. bóp méo?
Thế nhưng với tâm thế bưng bít sự thật của một thể chế toàn trị thì thống kê không bao giờ được đặt đúng vị trí cần phải có của nó vốn là môn khoa học và tất nhiên bị chế biến, bóp méo cho phù hợp với chủ quan của nhà cầm quyền.
Con số mà ông Tổng thanh tra chính phủ Huỳnh Phong Tranh đưa ra ngày 13/12 vừa qua trong chương trình “Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời”, mới thật sự làm người dân phải giật mình. Theo đó, trong năm 2015, ngành thanh tra chính phủ đã thực hiện 40.000 cuộc thanh tra các cấp và đã phát hiện sai phạm 212.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 10 tỷ USD.
Người dân còn kinh ngạc, chỉ riêng số tiền ngót nghét 100 triệu đô-la ngân sách phải chi tiêu để nuôi Văn phòng Trung ương đảng năm 2014. Nhiều người dân ngạc nhiên là báo cáo về tham nhũng của ông Huỳnh Phong Tranh có vẻ rất bi đát, nhưng lại mâu thuẫn với những thống kê tạo ra một sự lạc quan có thể giả tạo. 
Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, phải chịu trách nhiệm về tình trạng kinh tế xã hội của đất nước hôm nay. Chỉ nhìn vào các con số biết nói để thấy bức tranh toàn diện về nền kinh tế nước nhà. Tiếc thay, công tác thống kê lâu nay, rất tù mù, “ru ngủ” là mầm mống đại họa của nguy cơ “vỡ trận” tài chính! Cải cách trước hết phải bắt đầu từ công tác thống kê!
Một trong những khiếm khuyết lớn nhất của hệ thống quản trị của nước ta là sự thiếu công khai, minh bạch, trong việc chi tiêu và quản lý tiền bạc (tiền thuế của dân) và đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình cảnh đất nước hiện nay. Suy cho cùng là hậu quả của một xã hội thiếu dân chủ và không minh bạch.
Nếu đi sâu tìm hiểu sẽ thấy tình hình thống kê từ Tổng cục thống kê, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước ngày càng tệ cho nên không thể vẽ ra một bức tranh đầy đủ và trung thực về kinh tế của nước nhà.
Cách đây 3 năm , tôi đã viết bài “Con số mà biết nói năng” trong đó nêu rõ con số thống kê ở Việt Nam do bệnh thành tích và “phục vụ yêu cầu lãnh đạo” nên thường được “chế biến” theo ý kiến chỉ đạo của những người có trách nhiệm ở cả trung ương và địa phương (GDP các địa phương sai lệch rất nhiều so GDP cả nước) vv…
Không có gì phải ngạc nhiên, trên báo Phụ nữ Today có lần đăng bài phỏng vấn ông Chủ tịch hội Thống kê quốc gia Nguyễn Văn Tiến đã huỵch toẹt thẳng thừng các chỉ số thống kê luôn có hai loại. Loại dùng công bố cho dân hầu hết là con số láo, khác xa với chỉ số thật. Chủ tịch hội Thống kê quốc gia còn khuyên người dân một cách rất mỉa mai và… ngang ngược rằng “chấp nhận công bố bao nhiêu biết bấy nhiêu, người dân thấy sao cứ biết vậy đi!”
Nhìn lại lịch sử từ năm 1954-1975 đất nước Việt Nam chia làm hai miền thuộc hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Bắc, ngành thống kê áp dụng phương pháp luận của “Hệ thống các bảng cân đối vật chất – MPS”. Ở miền Nam, Viện Thống kê thuộc chính quyền Sài Gòn áp dụng “Hệ thống các tài khoản quốc gia – SNA”. Thời kỳ 1976-1988 đất nước thống nhất, ngành thống kê áp dụng MPS cho phạm vi cả nước. Từ 1989 đến nay, ngành thống kê Việt Nam áp dụng SNA trên phạm vi toàn quốc (ngày 25-12-1992, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 183/TTg về việc chính thức áp dụng hệ thống SNA trên phạm vi cả nước thay cho hệ thống MPS trước đây).
Theo tôi hiểu, tất cả mọi số liệu thống kê đều phải đi từ số liệu nguyên thủy, số liệu gốc từ nơi phát sinh ra. Trình độ phát triền khoa học, công nghệ cho phép thu thập số liệu này ngày càng đầy đủ hơn, chuẩn xác hơn. Thống kê về tình hình kinh tế-xã hội có phức tạp hơn so với những số liệu, thống kê về các hiện tượng tự nhiên.
Vấn đề được đặt ra không phải chỉ là có được số liệu thống kê mà còn phải biết phân tích xử lý thống kê. Chẳng hạn như có số liệu thống kê tổng số nợ, nợ xấu và số liệu đó được hình thành từ việc tổng hợp các khoản nợ do các con nợ và chủ nợ đứng ra cho vay. Thế nhưng khi báo cáo lại không chịu làm rõ là ai nợ, vay nợ để kinh doanh trong lĩnh vực nào thì khó có thể có giải pháp thích hợp để khắc phục tình hình. Các đại biểu Quốc hội cũng không chú ý đúng mức đến yêu cầu Chính phủ phải báo cáo cụ thể thực trạng đó mà nặng về đòi hỏi phải có con số chuẩn xác về nợ. Đó là thiếu sót trong việc xử lý phân tích số liệu thống kê.
Chuẩn mực và không chuẩn mực
Ngay từ thập kỷ 80, chuyên gia quốc tế đã giúp đỡ Việt Nam xây dựng Thống kê theo chuẩn của Liên Hiệp Quốc. Chính ông Võ Văn Kiệt là người ký giấy ra lệnh cho Tổng cục thống kê phải làm. Nhờ có quyết định nhanh chóng của ông Võ Văn Kiệt và ông Nguyễn Cơ Thạch cho phép điều tra thống kê để nắm rõ tình hình kinh tế thay vì dựa vào báo cáo vừa láo, vừa không đầy đủ.
Năm 1989, tiền viện trợ làm điều tra tổ chức lại hệ thống thống kê là 700 ngàn USD. Sau đó, nhiều dự án của ADB, WB và EU liên tục giúp đỡ Việt nam. Nhưng sau đó, công tác thống kê không được coi trọng, nhiều vấn đề các cơ quan chức năng ở trong nước không tiếp tục vì ngại mất sức. Nhiều thông tin chỉ còn được giữ trong ngăn kéo. Chuẩn mực quốc tế, trước kia có thể châm chước, vẫn không được áp dụng đặc biệt là ngân sách. Tài khoản quốc gia cũng thế. Số liệu về tiền tệ tín dụng gần như không được công bố.
Nếu bạn đọc quan tâm, chỉ cần đọc báo cáo về doanh nghiệp nhà nước thì thấy không thể tưởng tượng được Bộ Tài chính lại có thể làm sơ sài đến thế. Tại sao không công bố số liệu của từng doanh nghiệp trong 871 doanh nghiệp nhà nước sở hữu 100% theo một bảng báo cáo chuẩn theo đúng qui định và công bố rộng rãi hàng năm?
GDP: 186 tỷ đô la US. Chi tiêu của Chính phủ có thể nhìn theo hai cách:
1. Tổng chi phí hàng năm cho dịch vụ nhà nước, đầu tư, và trả nợ: Tổng là 47,8 tỷ US, bằng 25,6% GDP. Trước đây, tỷ lệ cao gần 30% GDP. Đây là tỷ lệ rất cao so với các nước khác trong khu vực. Đây là số liệu của ADB nhưng có thể chỉ phản ánh số dự toán chứ không phải thực chi. Sự thật, sau khi kiểm toán có thể cao hơn..
2. Hoạt động chi phí trong khu vực dịch vụ nhà nước (chi phí thường xuyên cho hành chính, giáo dục, y tế, an ninh, vv…).
Ngay cả đối với những người làm công tác nghiên cứu, nếu mở quyển niên giám thống kê hàng năm thì không thể tìm được số liệu rõ ràng về lao động trong từng hoạt động thuộc khu vực nhà nước. Thí dụ, báo cáo điều tra lao động có việc làm, không cho số liệu lao động trong khu vực nhà nước (nhưng không phải doanh nghiệp nhà nước).
Tôi đã tra cứu niên giám thống kê cũng thế: 
Trong tổng chi phí, thì theo báo cáo, 9,8 tỷ hay 20,6% là đầu tư. Con số này nhỏ, hơi khó tin vì Việt Nam không kể giá trị đất đai đưa vào đầu tư. Tuy vậy, còn phải kể đầu tư trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nơi tham nhũng nhiều nhất là đầu tư của nhà nước + đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đầu tư thường là 30% GDP (nhiều năm trước đây lên đến 40%). Như vậy, có thể hình dung con số tham nhũng, thất thoát khủng đến cỡ nào?
Mới đây, trên báo Vef.Vn có bài :”Lạm phát thấp kỷ lục: Kỳ tích không cần đánh đổi” đưa ra những con số của Tổng cục thống kê để minh họa cho nội dung bài viết. Theo tôi hiểu thực ra không có quan hệ tuyến tính giữa tăng trưởng và lạm phát. Thế giới trong năm qua, giá dầu giảm nhanh, giá nguyên liệu, sản phảm thế giới đều giảm. Nếu chỉ tính “core inflation” thì tăng hơn 2% một chút. Đó là vì chưa điều chỉnh dịch vụ, nếu tính đủ cũng tăng CPI thêm 2% nữa. 
Nếu nhìn lại quá khứ, Đảng và Chính phủ đã hai lần (năm 2007 và 2011) đẩy mạnh in tiền, phát hành tín dụng để tăng tốc GDP lên 9-10% đã thất bại, và chỉ tăng lạm phát và tham nhũng. Vì vậy, mà phải dẹp cái trò “QUYẾT TÂM”! Nếu có một tý công làm tình hình ổn định (tức là ít lạm phát) thì phải tìm ra người đã quyết tâm ngăn cản việc lạm phát tín dụng. Riêng về thất nghiệp và doanh nghiệp nội địa còn nhiều khó khăn là điều dễ hiểu vv…
Thay cho lời kết
Cái sai, cái láo của con số thống kê chỉ là một biểu hiện thấy rõ của cái sai lỗi hệ thống ở nước ta. Dưới chiêu bài giữ vững ổn định chính trị hoặc đề phòng kẻ địch lợi dụng phá hoại, người ta đã cố tình vẽ ra một bức tranh không trung thực về tình hình kinh tế xã hội. Suy cho cùng, đó mới chính là nguy cơ làm cho đất nước mất ổn định dẫn đến “vỡ trận tài chính”!.
Thống kê phải độc lập để bảo đảm tính khách quan, ngân sách phải được Quốc hội qui định trực tiếp. Mọi điều tra và báo cáo thống kê không phải thông qua bất cứ ai.
Công tác thống kê có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Con số thống kê là động lực phát triển hay là hòn đá tảng cản trở sự phát triển phụ thuộc vào tư duy, tầm nhìn của người lãnh đạo và bản lĩnh của những người làm công tác thống kê. Trong thời đại hội nhập, và thông tin kỹ thuật số những ngôn từ che đậy và các con số “biết nhẩy múa” của thống kê chỉ làm hại cho sự phát triển vững bền của đất nước.

Những tư tưởng tạo nên bước nhảy vọt kỳ diệu của Nhật Bản

Tác giả: Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
KD: Quốc gia văn minh, tiên tiến nào cũng biết và lấy GD là động lực phát triển. Thế nhưng thử xem GD Việt Nam như thế nào? Chỉ loanh quanh “Học để thi” đã chứa đựng biết bao tiêu cực rùi. Chán mớ đời một nền GD chỉ vì thành tích, vì lợi ích của người lớn, không hề vì lợi ích đứa trẻ! Thì đất nước cất cánh kiểu gì đây???
———————–
Những tư tưởng làm nên bước nhảy vọt của Nhật Bản Fukuzawa Yukichi (1835-1901) là một nhà tư tưởng “khai quốc công thần” có ảnh hưởng sâu và rộng nhất đến xã hội Nhật Bản cận đại. Những tư tưởng về chính trị, xã hội, kinh tế mà Fukuzawa truyền bá đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của Nhật Bản cận đại.
Tài năng và nhân cách Fukuzawa Yukichi thăng hoa cùng với những năm tháng của cuộc cải cách Minh Trị duy tân. Ông đã để lại trước tác với số lượng lên tới hàng vạn trang, trong đó tiêu biểu phải kể đến là“Khuyến học” (Gakumon no susume) được ông viết trong thời gian 1872 – 1876. Khi mới được in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người. Chỉ riêng điều đó đã cho thấy đây thực sự là cuốn sách gối đầu giường của mọi người dân Nhật trong thời kỳ Duy Tân. Kể từ đó đến nay, cuốn sách này đã được tái bản liên tục, chỉ tính từ năm 1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản Iwanami Bunko cũng đã tái bản đến 76 lần.
Trong cuốn sách này, Fukuzawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, quyền con người, ý nghĩa của nền học vấn mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị… Khuyến Học đã làm lay chuyển tâm lý người dân Nhật Bản dưới thời Minh Trị. Với tuyên ngôn “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”, Fukuzawa Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng – như “không tin vào tai mình” – cho đa số người dân Nhật Bản vốn bị trói buộc bởi đẳng cấp, thân phận, quen phục tùng phó mặc và e sợ quan quyền suốt hàng trăm năm dưới chính thể phong kiến Mạc phủ. Ông khẳng định mọi người sinh ra đều bình đẳng và nếu có khác biệt là do trình độ học vấn.
Về học vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực học”. Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc.
Quan điểm xuyên suốt cuốn sách là “Làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản” trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa.Với độc giả Việt Nam hiện nay, nhiều tư tưởng của Fukuzawa Yukichi trong Khuyến Học có lẽ không còn là điều mới mẻ gân chấn động lòng người như đối với người dân Nhật Bản ở thời Minh Trị. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của ông thì vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với những quốc gia đang trên con đường hiện đại hóa.
Cuốn “cẩm nang” của người Nhật này cũng sẽ giúp cho độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính cách và tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô “ăn nhờ ở đậu”, nhờ có sự khai sáng của những con người như Fukuzawa Yukichi mà đã trở thành “quốc dân” của một đất nước Nhật Bản hiện đại và văn minh như ngày nay.
Xin trích giới thiệu một số trích đoạn của cuốn sách với bạn đọc. Các bạn cũng có thểclick vào đây để download e-book cuốn sách (.PRC file).
Trích cuốn Khuyến Học, Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
1. Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì Lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn, vô trách nhiệm.
2. Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc (độc lập, tự do) thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính quyền lộng quyền?
3. Đáng buồn là nước ta chỉ có người Nhật mà không có quốc dân Nhật.
4. …đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thức này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.
5. Thử nhìn lại xem, không ít người trong nhân dân dưới thời Minh Trị vô học, mù chữ, cái thiện, cái ác không phân biệt nổi, chỉ biết ăn xong rồi lại ngủ, “vô công rồi nghề”. Không những thế, thường đã ngu dốt lại hay tham vọng, tìm mọi cách lừa đảo, luồn lách pháp luật, không cần hiểu ý nghĩa của luật pháp, không cần biết đến nghĩa vụ của bản thân, chỉ biết đẻ cho thật nhiều con nhưng lại không hề chăm sóc, dạy dỗ chúng.
Những kẻ ngu dốt đó không biết xấu hổ và con cái của họ khi lớn lên cũng chẳng có ích gì cho đất nước, trái lại chỉ là gánh nặng, nỗi khổ cho xã hội. Xã hội mà toàn là những con người như vậy thì có đem đạo lý ra giảng giải cũng vô ích, chỉ còn cách buộc phải làm là dùng sức mạnh để răn đe, để trấn áp những hành động bạo lực, hành vi quậy phá, phá rồi mà thôi. Đó cũng là lý do khiến cho các chính phủ chuyên chế, chính phủ độc tài được thể tồn tại trên thế giới.
6. Nước Nhật chúng ta hiện nay yếu kém, hoàn toàn không thể sánh vai với các cường quốc Âu, Mỹ giàu mạnh. Nhưng về quyền lợi, với tư cách là một quốc gia, thì chúng ta hoàn toàn ngang hàng với họ. Trường hợp nếu các cường quốc phương Tây đi ngược lại đạo lý quốc tế, xâm phạm đến lãnh thổ của chúng ta thì cho dù có phải biến cả thế giới này thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ. Như tôi đã nói ở phần 1, khi đất nước bị làm ô nhục thì tất cả người Nhật chúng ta sẵn sàng xả thân để bảo vệ đến cùng thanh danh của Tổ quốc.
Nhưng, còn tình trạng giàu, nghèo, mạnh, yếu dứt khoát không phải là do mệnh Trời hoặc là do ý Trời mà ta đành phải cam chịu. Mà đó là do con người có nỗ lực hay không chịu nỗ lực mà thôi. Nhờ nỗ lực như thế, không biết chừng mới hôm qua còn là kẻ ngu dốt, nhưng ngày mai đã trở thành người tài giỏi; mới hôm qua còn tự vỗ ngực giàu mạnh, nhưng ngày mai trở nên hèn kém. Từ xa xưa, lịch sử đã nhiều lần minh chứng cho điều này.
7. Nếu như toàn thể quốc dân, ai nấy đều chỉ tìm cách dựa dẫm hay ỷ lại vào người khác, không có tính tự lập thì khi ra xã hội cũng sẽ lại trở thành những kẻ chuyên ăn bám đục khoét tiền của của đất nước, của các tổ chức xã hội. Giữa cá nhân với cá nhân có lẽ cũng chẳng còn ai sẵn lòng giúp đỡ ai. Tất cả đều dửng dưng với nhau, còn nhìn thấy người mù lòa qua đường cũng không có một ai chìa tay ra giúp đỡ…
8. Cổ nhân có câu: “Dân thì phải tuân theo sự cai trị. Còn cai trị thế nào thì dân không cần phải biết”. Câu này có nghĩa là ở trên đời, những người hiểu được đạo lý không nhiều. Chi bằng thiểu số người đó lên nắm chính trị, cai trị nhân dân, bắt dân phai tuân theo chính sách vạch ra là được. Không cần phải thông báo hay giải thích gì cả. Như thế tốt hơn là việc cái gì cũng phải giải thích, phải cắt nghĩa, mà có giải thích xong, cắt nghĩa xong thì đâu lại vào đấy cứ như nước đổ đầu vịt vậy.
Đây là lời răn của Khổng Tử. Nhưng lời răn này thật phi lý, hoàn toàn xa rời thực tế.
Người có năng lực để có thể cai trị được dân chúng thật ra rất ít ỏi. Trong cả ngàn người may ra mới có được một người. Giả dụ, dân số của một quốc gia nọ là một triệu người. Trong số đó chỉ có 1.000 người có tri thức. 990.000 người còn lại là những kẻ một chữ cắn đôi cũng chịu. Cứ cho rằng 1.000 người có trí tuệ đó, cai trị số dân ngu bằng tất cả lòng yêu thương, chăm bẵm họ như chăm bẵm bầy cừu. Và 990.000 người mù chữ này cũng một mực tuân theo lời răn dạy của “cha mẹ dân”, sống trong cảnh ngu si hưởng thái bình. Cứ như thế, dần dần quan hệ chủ nhân và khách ăn nhờ ở đậu. Mà đã là phận khách ăn nhờ ở đậu thì nhân dân (khách) cứ chỉ biết dựa vào chính phủ (chủ nhân). Người dân đâu cần màng tới việc nước, càng không chút mảy may lo lắng vận mệnh quốc gia. Việc quốc gia đại sự đã có chủ nhân lo rồi…
9. Dưới mắt tôi, việc điều hành đất nước không mang lại kết quả cũng có nghĩa là trình độ của chính phủ Minh Trị đại để cũng chỉ như trình độ của chính quyền phong kiến chuyên chế mà chúng ta đã lật đổ. Nhân dân ta vẫn còn trong vòng u mê như xưa, cũng có nghĩa là người dân dưới thời Minh Trị cũng vẫn chỉ là người dân dưới thời Mạc phủ, không hơn không kém. Hãy thử so sánh công lao, sức lực, tiền của mà chính phủ đã bỏ ra với kết quả đạt được thì mới thấy ít ỏi biết nhường nào.
Qua đó tôi muốn khẳng định với mọi người rằng nền văn minh của quốc gia không thể tiến bộ nếu chỉ bằng quyền lực của chính phủ.
10. Trên cương vị cá nhân thì người nào cũng tỏ ra thông thái. Nhưng hễ trở thành quan chức chính quyền thì sự thông thái thường thấy lại biến đi đâu mất. Nhưng khi tập hợp nhau trong tập thể thì cái cảnh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” thường xuyên xảy ra.
Tôi buộc phải nói rằng chính phủ Nhật Bản hiện nay là một tổ chức của nhiều người có tri thức, tập hợp nhau lại để làm một việc hồ đồ. Có lẽ họ đã không thể phát huy được cá tính vì bị trói buộc bởi nếp nghĩ theo kiểu “chủ nghĩa bình yên vô sự”.
Chính sách của chính phủ không hiệu quả là vậy. Bằng một số kế sách như dùng những lời lẽ hoa mỹ mị dân, dùng quyền lực, áp đặt văn minh…. chính phủ có thể giật dây được dân chúng. Nhưng như thế cũng chỉ là nhất thời mà thôi. Chính phủ trị dân bằng uy quyền thì dân sẽ đáp lại bằng sự giả vờ chấp hành. Chính phủ lừa dối cũng sẽ tạo ra vỏ bọc hữu hiệu. Mà cứ như vậy thì không thể chỉ dựa vào quyền lực để thúc đẩy văn minh xã hội.
11. Từ đời này qua đời khác, người ta chỉ học để làm quan chứ có ai muốn học để làm dân đâu. Làm quan đã trở thành cái đích trong cuộc đời. Ngay cả các bậc tiên sinh danh giá cũng không thoát khỏi ảnh hưởng đó. Tuy nhiên, xu hướng “làm quan” cũng là điều dễ hiểu vì khí chất xã hội đã khiến người ta phải như vậy. Cứ thế, trào lưu “quyền lực là chìa khóa vạn năng” nhiễm sâu vào lòng người. Nên dân ta ai cũng chỉ muốn làm trong công sở chính quyền, rồi tìm cách leo lên hàng quan chức chính phủ để có quyền hành và bổng lộc.
Thí dụ: gần đây trên các tờ báo hiếm thấy bài viết nào có ý kiến ngược lại với ý kiến của chính phủ. Lâu lâu chính phủ đưa ra được một vài chính sách cải cách nho nhỏ, tức thì những bài viết tán dương tâng bốc chính phủ xuất hiện đầy rẫy trên mặt báo. Những bài viết như vậy có khác nào thái độ phỉnh nịnh khéo léo của các cô gái làng chơi để lấy lòng khách mua hoa đâu. Tệ hại hơn nữa, những người viết bài đó lại chính là những thành viên trong nhóm Tây học. Thật khó có thể chấp nhận. họ đâu có phải là “gái làng chơi” và lại càng không phải là những kẻ tâm thần hay thiếu hiểu biết.
Thái độ xu nịnh và suy nghĩ cơ hội đang đầy rẫy trong xã hội Nhật Bản như hiện nay là do đâu? Vì chưa có được một minh chứng thực tế nào chứng tỏ có tự do dân quyền trong xã hội, vì người Nhật Bản đã nhiễm quá nặng bản tính nhu nhược, không còn nhìn ra bản sắc vốn có của mình.
Tóm lại, hiện nay Nhật Bản có chính phủ, có cả dân. Nhưng có lẽ chúng ta mới chỉ có dân mà chưa có “quốc dân Nhật Bản”.
12. Khai hóa văn minh bắt đầu từ việc tự mình bắt tay vào làm và chứng minh bằng thực tế cụ thể, cho mọi người tận mắt thấy việc thực. Làm trước nói sau. Chứ không thể để như tình trạng nước ta hiện nay, hễ định làm gì cứ phải họp bàn, giải thích, thảo luận dài dòng vô bổ. Chính phủ có quyền ban bố chỉ thị, mệnh lệnh. Nhưng hiểu và biến chúng thành hiện thực phải là nhân dân, là khu vực tư nhân. Chính vì thế, song song với việc mở trường tư thục, chúng ta quyết định thực hiện sự nghiệp khai sáng cho dân chúng bằng cách giảng dạy học thuật, làm thương nghiệp, nghiên cứu luật pháp, xuất bản sách, phát hành báo, với tư cách của một người thuộc khu vực tư nhân, không nằm trong chính phủ.
Chúng ta làm việc này trong phạm vi, bổn phận của một quốc dân làm theo luật pháp, không sợ làm mất mặt chính phủ. Nếu chính phủ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, với bổn phận của mình, chúng ta sẽ đường đường chính chính kháng nghị, tranh luận với chính phủ cho đến khi chính phủ tỉnh ngộ, giành lại chữ “Tự do Dân quyền”.
13. Trình độ của nền văn minh hiện có ở nước ta là kết quả của bao đời ông cha chúng ta tự lực làm nên, nhưng nếu đem so với phương Tây thì rõ ràng “mình mới bước được một bước thì người ta đã nhảy ba bước”. Đã chậm hơn phương Tây thì đương nhiên phải học, đằng này trong chúng ta lại nảy sinh tư tưởng chỉ biết ngồi bi quan than thở: vì họ chạy nhanh như vậy ta có cố mấy cũng chẳng làm sao mà bằng được phương Tây.
Đến giờ chúng ta mới cảm nhận được môt thực tế là nền độc lập của nước ta sao mà mong manh, yếu ớt đến khi đứng trước sức mạnh của phương Tây.
14. Không thể đánh giá được công cuộc khai hóa văn minh của một nước nếu chỉ nhìn vào diện mạo bề ngoài không thôi. Dù chính phủ Minh Trị có tự mãn đến mấy vì đã xây dựng đợc rất nhiều trường học, nhà máy xí nghiệp, xây dựng lục quân hải quân, thì tất cả những thứ đó cũng chỉ là cái vỏ bên ngoài, chỉ là “phần xác” của một quốc gia văn minh. Để hoàn thiện hình thức bề ngoài thì rất đơn giản vì chỉ cần có tiền. Có tiền là xây được trường học, mua được máy móc, dựng được nhà xưởng, trang bị, súng ống, tàu bè cho quân đội.
Nhưng, có một vấn đề không hiện ra thành hình ở đây. Vấn đề này mắt không nhìn thấy, tai không nghe được, không thể mua bán, không thể vay mượn. Nó liên quan tới hết thảy người Nhật Bản chúng ta. Nó có ảnh hưởng rất mạnh. Không có nó, mọi hình thái của văn minh như những gì mà tôi đã nêu ra ở trên đều không thể phát huy được hiệu quả trong thực tế. Nó là cái quan trọng nhất và phải được coi là “phần hồn” của văn minh. Vậy đó là cái gì?
Đó chính là: “Chí khí độc lập của nhân dân, tinh thần độc lập của nhân dân”!
15. Thời gian qua, chính phủ nước ta ra sức xây dựng trường học, chấn hưng xí nghiệp nhà xưởng, cải cách quân đội và hầu như đã hoàn tất diện mạo bề ngoài, “phần xác” của một nước văn minh trên đất Nhật Bản. Thế nhưng, cái quan trọng nhất mà chúng ta thiếu đó là chí khí, tinh thần của nhân dân để đưa đất nước thực sự độc lập, thực sự bình đẳng với phương Tây. Nhân dân ta cũng không có cả chí khí tinh thần quyết không để đất nước thua kém phương Tây. Và không chỉ nhân dân không có chí khí đó tinh thần đó mà ngay cả những quan chức chính phủ – những người có trách nhiệm phải tìm hiểu phương Tây – cũng thế, chưa tìm hiểu thì họ đã tặc lưỡi buông xuôi, vì chính họ cũng mang tâm lý tự ti, mặc cảm trước phương Tây. Đã tự ti và mặc cảm như vậy thì còn đầu óc đâu để mà tỉnh táo nắm bắt tình hình được nữa.
Vấn đề chính là ở chỗ: nếu không có chí khí độc lập, tinh thần độc lập thì mọi hình thái của văn minh chỉ còn là hình thức, hoàn toàn vô dụng.
16. Chính quyền phong kiến Mạc phủ trước đây, chỉ biết dùng quyền lực để cai trị, còn chính phủ Minh Trị hiện nay, dùng cả sức và trí để cai trị. Chính quyền cũ không biết thủ thuật để cai trị dân, còn chính phủ mới bây giờ thì ngược lại. Chính quyền cũ dùng mọi cách làm tê liệt, làm rã rời sức dân, chà đạp tới tận chân tơ kẽ tóc của dân, quy định cả cách ăn mặc, đi đứng của mọi thành phần trong xã hội, trừng phạt nghiêm khắc mọi sự lẫn lộn. Còn chính phủ hiện nay thì cai trị khéo léo tới mức người dân bị lấy mất cả “hồn lẫn xác” mà cũng không hay. Vì thế, dân ta trước sợ chính quyền như sợ ma quỷ, còn dân ta ngày nay thì tôn chính quyền lên như thần thánh để thờ…
17. … trường học là trường học của chính phủ, quân đội là quân đội của chính phủ. Đường sắt, bưu điện, điện tín, công trình kiến trúc bằng đá, cầu cống bằng sắt thép cũng như vậy. Tất cả đều là của chính phủ.
Người dân suy nghĩ về những việc trên như thế nào? Và dân chúng nói với nhau ra sao? Họ bảo rằng: “Chính phủ hiện nay vừa có sức mạnh vừa có đầu óc, nên chẳng ai có thể đọ nổi. Chính phủ ở trên cao trị quốc, mọi thứ đã có chính phủ lo nghĩ và làm cho rồi. Còn chúng ta là loại dân đen ở dưới, cứ có cái ăn để sống là được. Việc nước là chuyện đại sự, là việc của “các quan trên”, chứ đâu phải là việc của lũ dân đen mình là lo”.
Nếu nhân dân ta không tỉnh ngộ, không nhận ra sự “lầm tưởng” mà cứ thế quen dần với tình trạng như hiện nay, thì chính phủ có đổ công đổ của để hoàn thiện “cái vỏ” văn minh nhiều đến đâu đi nữa cũng chỉ tổ làm cho khí lực trong dân ngày một mất đi và như thế tinh thần – phần hồn của văn minh – cũng suy yếu theo.
18. Cả ngàn năm qua, chính phủ nắm trong tay mọi quyền hành trên đất nước… Nhân dân chỉ còn biết nhắm mắt tuân theo các chỉ thị của chính phủ. Đất nước ta giống như tài sản riêng của chính phủ, còn nhân dân chẳng khác nào như những người ăn nhờ ở đậu vậy… Và thế thì quốc gia cũng chỉ như cái nhà trọ, để người dân tạm dừng chân trong cuộc đời họ mà thôi…
19. Tại sao lũ chí sĩ rởm lại cứ hoành hành mãi vậy? Bọn này hễ cứ mở miệng là đều có cùng giọng điệu… Người thường dễ bị lừa phỉnh bằng vẻ ngoài của chúng. Kỳ thực bọn chúng đều là một lũ chí sĩ rởm cả. Được cất nhắc vào chức vụ cao một chút, ngoài lương bổng, phụ cấp quy định ra, không hiểu sao tiền cứ vào như nước. Hóa ra, kẻ trông coi việc xây cất thì luôn thúc giục chủ thầu phải cống lễ. kẻ trông coi ngân khố thì đòi thị dân phải biếu xén quà cáp mới cho vay tiền. Những chuyện như vậy diễn ra như cơm bữa đến độ trở thành lệ…
20. Người ta thường nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con người thì tất cả sinh ra đều bình đẳng, mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới, giàu nghèo.
Loài người, chúa tể của muôn vật, bằng hoạt động trí óc và hoạt động chân tay mà biến mọi thứ có trên thế gian thành vật có ích cho bản thân mình. Nhờ thế mà thỏa mãn được nhu cầu ăn, mặc, ở, sống tự do theo ý muốn và không làm phiền, làm cản trở cuộc sống của đồng loại. Con người có thể sống yên ổn, vui vẻ trên thế gian. Đó là ý Trời, là niềm hi vọng của Trời đối với con người.
Vậy mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ ngu độn; giữa người giàu và kẻ nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đẳng.
Như thế là tại làm sao? Nguyên nhận thực ra rất rõ ràng.
Cuốn sách dạy tu thân “Thự ngữ giáo” có câu: “Kẻ vô học là người không có tri thức, kẻ vô tri thức là người ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiểu: Sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
Trên thế gian có cả việc khó lẫn việc dễ. Người làm việc khó được coi là người quan trọng. Người làm việc dễ thường có địa vị thấp, bị coi thường. Công việc cần sự khổ nhọc về tinh thần được xem là việc khó, còn lao động chân tay là việc dễ. Vì thế học giả, quan chức chính phủ, giám đốc các công ty lớn, chủ trang trại sử dụng nhiều nhân công… là những người có địa vị cao, quan trọng. Và một khi đã là những người có địa vị, quan trọng thì đương nhiên gia đình họ cũng giàu sang sung túc đến mức tầng lớp hạ đẳng nằm mơ cũng không được. Tuy vậy, nếu suy nghĩ kỹ lưỡng gốc rễ của vấn đề thì chỉ có một nguyên nhân. Đó chẳng qua là do có chịu khó học hay không mà thôi, chứ có người nào được trời phú đâu. Ngạn ngữ có câu: “Trời không ban cho con người phú quý. Chính con người tạo ra giàu sang phú quý.” Có nghĩa là Trời nhìn vào kết quả hoạt động, lao động của con người để ban thưởng.
Như tôi đã đề cập: Ở con người vốn dĩ không có chênh lệch sang hèn, giàu nghèo. Vì thế, có thể nói rằng: Người chịu khó học, hiểu biết nhiều sẽ trở thành người quan trọng, sống sung túc; người vô học sẽ trở thành con người thấp kém, nghèo khổ.
21. Thử nhìn vào công cuộc văn minh đang diễn ra trên đất nước ta mà xem, tôi chỉ có thể nói rằng chúng ta đang làm ngược với quy luật.
Ở nước Nhật chúng ta hiện nay, người chủ trương thúc đẩy văn minh, gìn giữ độc lập trước áp lực phương Tây là những người thuộc tầng lớp giữa trong xã hội, là các nhà trí thức và đơn độc chỉ có họ. Nhưng số đó cũng chỉ là thiểu số ít ỏi. Còn đa phần các trí thức đều thiếu con mắt nhận biết thời cuộc. Họ yêu quý và lo giữ chỗ cho bản thân hơn là lo lắng, ưu tư cho đất nước. Đối với họ, gió chiều nào theo chiều đó. Đa số các trí thức kiểu này luôn rình rập tìm kiếm lợi ích trước mắt, săn đón cơ hội leo vào hàng “quan chức”, sa vào các sự vụ quản lý vặt vãnh, tiêu phí thời gian bằng nhưng việc vô bổ, xa rời công việc nghiên cứu, học thuật. Họ thỏa mãn với quyền cao bổng hậu. Tệ hại hơn nữa, họ lại tự cao tự đại: “Uyên bác như chúng tôi đã tập trung hết trong hàng ngũ chính quyền rồi, trong xã hội đâu còn ai?”
Tôi buộc phải nói rừng những người trí thức như vậy là nỗi bất hạng cho công cuộc văn minh đất nước. Lẽ ra phải đảm nhiệm vai trò mở mang, nuôi dưỡng văn minh với tư cách của người trí thức, thì họ lại vùi đầu vào việc kiếm lợi cho riêng bản thân, họ chẳng bận tâm đến sự thoái hóa của tinh thần học vấn trong xã hội, đất nước ra sao họ cũng mặc. Như thế mà vẫn tự cho mình là trí thức được sao?
Đó là một thực tế đáng hổ thẹn.
22. Chúng ta chỉ có một mục đích gánh vai nâng đỡ tinh thần độc lập trong nhân dân.
Chúng ta lẻ loi, đang đứng mũi chịu sào trong cơn cuồng phong, trong dòng nước xiết, chúng ta đang phải gồng mình chống chọi với cả một trào lưu đang làm thoái hóa xã hội. Nhiệu vụ của chúng ta thật khó khăn. Nhưng chính lúc này đòi hỏi chúng ta phải có lòng quả cảm và tinh thần cương quyết.
Dũng khí của con người không sinh ra từ sách vở.
Đọc sách là phương tiện nâng cao học vấn.
Học vấn là phương pháp tiến tới thực tiễn.
Chính kinh nghiệm, sự từng trải sản sinh ra lòng quả cảm.
Hội Keio chúng ta, bất chấp khó khăn, bất chấp gian khổ, nguyện đem hết tri thức kiến thức có được, xây đắp con đường phát triển văn minh. Để đi tới đó, chúng ta không phân biệt, không từ nan bất kỳ lĩnh vực nào, ngành học nào. Chúng ta làm thương nghiệp, khuyến nông, viết sách, dịch sách, phát hành báo, tất cả những gì liên quan tới văn minh.
Mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về vai trò, sự đóng góp của bản thân, phải đi tiên phong trong nhân dân. Chúng ta cùng hợp tác với chính phủ.
Sức dân và sức chính quyền có cân bằng thì tiềm lực quốc gia mới gia tăng, nền móng độc lập của quốc gia mới vững chắc, có như vậy nước ta mới mong được bình đẳng với phương Tây.
23. Nhân dân lẫn chính phủ, nếu cả hai phía đều làm trọn bổn phận, trách nhiệm của mình thì chẳng cần phải nói gì thêm cả. Nhưng cũng có những lúc chính phủ đi chệch hướng, thi hành lối chính trị chuyên chế bạo tàn, chạy theo quyền lực vô tri thức. Những lúc như thế, nhân dân buộc phải hành động. Và sẽ hành động theo một trong ba giải pháp như sau. Hoặc từ bỏ khí tiết, khuất phục chính phủ. Hoặc phản kháng chính phủ bằng bạo lực. Hoặc sẵn sàng hiến thân, hy sinh tính mạng chứ không chịu để mất khí tiết.
Tôi xin giải thích rõ hơn.
– Giải pháp thứ nhất: Nếu chấp nhận vứt bỏ khí tiết, tuân theo chính phủ vô điều kiện thì có thể coi đây là giải pháp mù quáng. Tôi đã giải thích ở phần trước: Đạo làm người là tuân theo đạo trời. Nếu vất bỏ đạo lý, khí tiết, đồng lõa với những sai trái bất chính thì tự chúng ta đã làm hỏng vị thế của con người, và tập quán xấu đó sẽ truyền tới đời con, đời cháu. (…)
– Giải pháp thứ hai: cá nhân chống lại chính quyền, là điều không tưởng. Vì thế mà tập hợp nhau, lập nhóm lập đảng gây nên nội chiến, nội loạn. Cách này tôi không cho là cách làm nghiêm túc. Bởi nếu xảy ra nội loạn thì vấn đề phân biệt thiện, ác sẽ bị loại bỏ. Các bên chỉ dựa vào sức mạnh trên chiến trường để giải quyết. Và kẻ thắng sẽ quyết định tất cả. (…)
– Giải pháp thứ ba: giữ trọn đạo lý chính nghĩa, sẵn sàng hy sinh mạng sống trước mọi áp bức của chính quyền. Tức là tin tưởng một lòng một dạ vào đạo Trời, dù phải chịu mọi cực hình của chính quyền chuyên chế, bạo ngược cũng không khuất phục, giữ vững khí tiết, bảo vệ chân lý, niềm tin, hơn nữa không bao giờ sử dụng vũ khí bạo lực, chỉ dùng đạo lý để kháng cáo với chính phủ (…)
24. … Nếu chúng ta chất vấn chính quyền bằng lý lẽ thì những luật pháp tốt hoặc những chính sách tuyệt vời hiện hành trong quốc pháp không bị ảnh hưởng. Thuyết phục bằng lý lẽ, điều đó sẽ thấm dần vào lòng người theo lẽ tự nhiên. Năm nay, thuyết phục chưa được thì sang năm tiếp tục thuyết phục cho tới khi chính quyền hiểu ra. Vì mục đích của nó là ngăn chặn và cải thiện bất chính trong chính quyền. Và một khi chính phủ đã chấp thuận cải thiện chính sách thì việc chất vấn chính phủ cũng sẽ chấm dứt.
Nếu chúng ta dùng sức mạnh đối địch với chính phủ thì chính phủ cũng sẽ đáp lại bằng việc đàn áp, bắt bớ. Quan chức chính phủ dù có là những kẻ bạo chính thì cũng là người Nhật chúng ta cả. Trước những lời lẽ đúng với đạo lý của những người chất vấn chính phủ trong hòa bình và sẵn sàng hy sinh thân mình vì đạo lý đó thì không có lẽ không thuyết phục hoặc không làm lay động được các quan chức chính phủ. Tôi nghĩ rằng họ không thể không hối hận về những lầm lỗi, sai trái của họ và sẽ cải tà quy chính.
25. Nếu khảo sát cụ thể các hoạt động ở mỗi con người thì sự hoạt động đó có thể chia thành hai loại như sau:
Thứ nhất là hoạt động với tư cách của một cá nhân độc lập.
Thứ hai là hoạt động với tư cách của một thành viên trong xã hội con người.
Mưu cầu cái ăn, cái mặc, chỗ ở ổn định dựa vào hoạt động của khối óc và cơ thể là lẽ thường tình ở con người.
(…) Tất nhiên, đối với con người việc tự lập kiếm kế sinh nhai rất quan trọng. Người xưa thường dạy: “Hãy kiếm sống bằng chính mồ hôi của mình”. Thế nhưng theo tôi, cho dù chúng ta có làm đúng theo lời dạy này thì cũng chưa phải là đã làm đúng trách nhiệm và nghĩa vụ với tư cách là con người. Lời dạy này mới dừng lại ở chỗ răn người ta làm người thì đừng để thua kém muông thú và cũng chỉ dạy có thế.
Các loài chim chóc, muông thú, tôm cá, côn trùng… tự chúng không kiếm mồi được sao? Ví như loài kiến chẳng hạn. Loài kiến không những biết kiếm mồi mỗi ngày mà còn biết làm hang, làm tổ, tích trữ mồi trong suốt mùa đông giá rét.
Vậy mà trên đời này, có không ít người, hành vi của họ cũng chỉ ngang với đàn kiến thôi mà cũng tự mãn.
(…) Nhưng, tôi lại hoàn toàn không nghĩ rằng loài người với tư cách là chúa tể của muôn loài – mới có được kết quả nhỏ nhoi như vậy mà đã coi là hoàn tất mục đích đích thực của cuộc đời.
Giải quyết được cái ăn, cái mặc, chỗ ở mà đã mãn nguyện, đã cảm thấy hài lòng rồi thì hóa ra cuộc đời con người trên thế gian này chỉ đơn thuần là được sinh ra rồi chết đi thôi hay sao? Tình trạng lúc anh ta chết đi có khác gì lúc được sinh ra. Tức là quanh quân vẫn chỉ là chuyện sao cho có nhà cửa, có cuộc sống ổn định và có của ăn của để nữa. Vẻn vẹn chỉ có vậy. và nếu đến thế hệ con cháu, cũng lặp đi lặp lại y hệt cuộc sống của anh ta thì dù có trải qua hàng trăm đời, làng xóm thị trấn nơi anh ta đã sống xưa thế nào nay chắc cũng vậy, không chút thay đổi.
Không một người nào nghĩ tới sự nghiệp công ích, công cộng, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân và gia đình. Ngoài ra thì mặc kệ.
Không một người nào có suy nghĩ là phải làm gì, để lại cái gì cho quê hương khi đang còn sống.
Người châu Âu có câu: “Nếu mọi người ai cũng chỉ mong thỏa mãn và an nhàn cho riêng cá nhân mình, thì thế gian này cũng không có gì khác khi mới có loài người”.
26. Một khi còn sống trên đời, còn giao tiếp với mọi người thì bản thân mỗi con người vẫn còn là một thành viên trong xã hội. Cho nên lẽ đương nhiên là phải có nghĩa vụ với xã hội. Ngay cả học vấn, kỹ thuật, chính trị, luật pháp… không có cái nào là không cần thiết để cho con người sống trong xã hội, tất cả những thứ này sinh ra là vì xã hội con người.
(…)
Con người ta, bất kỳ là ai, hễ có chút ít “sở trường” là đều muốn đem ra giúp ích cho đời. Đó âu cũng là lẽ thường. Nhiều khi tưởng chừng như con người không có ý thức vì xã hội, nhưng rồi không biết bằng cách nào mà con cháu họ vẫn nhận được ơn huệ. Đó là vì trong con người có thiện tâm, nên các nghĩa vụ trong xã hội rồi cũng đều được thực hiện.
Nếu trong xã hội từ xa xưa mà không có những con người như vậy thì chúng ta ngày nay đâu có được hưởng thành quả văn minh đang tràn đầy khắp nơi trên thế gian.
27. Mục đích của học vấn phải đặt ở tầm cao.
Nếu tôi không nhầm thì việc nấu cơm, đun nước cũng là học vấn. Việc bàn luận về quốc gia đại sự cũng là học vấn. Nhưng lo cuộc sống của gia đình thì dễ hơn lo kinh tế, chính trị của một quốc gia. Hơn nữa trên đời này cái gì dễ kiếm thì ít được quý trọng, càng khó kiếm thì giá trị càng cao.
Tôi nhận thấy sinh viên hiện nay có xu hướng né tránh việc khó, tìm kiếm việc dễ.
Dưới thời phong kiến, người học có miệt mài học hành cũng không có chỗ để ứng dụng học vấn, vì trong xã hội đó con người mất tự do. Do vậy cực chẳng đã họ chỉ còn biết học, tự mình tích lũy học thức. Vì thế, sinh viên chúng ta hiện nay khó mà theo kịp họ về tri thức.
Sinh viên hiện nay không bị bất kỳ hạn chế cả. Cứ có học là có thể ứng dụng ngay kết quả học tập vào thực tế. Tôi lấy ví dụ, các sinh viên theo ngành Âu học trong ba năm, họ học lịch sử, học vật lý… Sau khi ra trường họ được tuyển dụng ngay tức thì để làm giáo viên giảng dạy, hoặc đi làm công chức chính quyền nếu họ muốn. Ngoài ra, nhiều người còn tìm cách đơn giản hơn, nhanh hơn. Đó là chỉ cần lùng sục và đọc qua các cuốn sách dịch đang bán chạy, đi đây đi đó để có chút thực tế, tích lũy thêm một ít thông tin trong và ngoài nước, gặp dịp may là được chọn ngay vào làm việc trong các công sở. Thế là họ nghiễm nhiên trở thành một thành viên đắc lực trong bộ máy nhà nước.
Những điều tôi lo sợ là các hiện tượng trên đây nếu trở thành xu hướng, thành trào lưu trong xã hội thì học vấn sẽ mất đi bản chất đích thực và mục đích cao quý của nó.
(…) Chỉ đến khi trên khắp mọi miền đất nước Nhật Ban, nơi đâu cũng gặp những người vừa có tài, vừa có đức, ngày đêm rèn giũa và tích lũy thực lực thì ắt hẳn đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ ngang hàng, sánh vai với nền văn minh của các cường quốc phương Tây.
28. Tạm gác sang bên vị trí của cá nhân, nếu chúng ta quan tâm tới nghĩa vụ đối với xã hội, thì trước hết là không làm vẩn đục danh dự người Nhật Bản, tiếp đến là mọi người dân đồng lòng góp sức mang lại vị trí quốc tế trong độc lập và tự do cho Nhật Bản. Như thế mới được coi là làm tròn nghĩa vụ giữa cá nhân và xã hội.
Tôi thừa nhận những người đang toại nguyện với cuộc sống của bản thân họ trong căn nhà riêng của mình là những người độc lập. Nhưng tôi không thể thừa nhận họ là những người Nhật Bản độc lập được. Hãy thử nhìn kỹ xem. Ở thời điểm này, nền văn minh của nước Nhật Bản chỉ có Danh mà không có Thực. Về hình thức thì trông cũng được đấy, nhưng về tinh thần thì thật đáng buồn lòng.
Lực lượng quân sự của Nhật Bản, từ lục quân tới hải quân có khả năng kháng cự với lực lượng quân sự của các cường quốc phương Tây chưa? Hiển nhiên là chưa. Nước Nhật không thể chống chọi được với các thế lực phương Tây trong lúc này.
Thế còn trình độ học vấn của Nhật Bản hiện nay ra sao? Với nền học vấn hiện thời, chúng ta có thể đem rao giảng cho người phương Tây không? Rõ ràng là không có cái gì cả. Ngược lại, chúng ta phải học ở họ mọi thứ. Và không chỉ đơn thuần là cứ học những thứ mà chúng ta chưa có là được…
29. Những hỗn loạn trong buổi đầu du nhập văn minh phương Tây là điều không tránh khỏi. Việc chính phủ Nhật Bản yêu cầu phương Tây viện trợ, cung cấp văn minh cho chúng ta cũng không phải là sai.
Nhưng điều quan trong mà tôi muốn nói là tất cả những gì đang diễn ra trên đất nước ta hiện nay cũng chỉ là giải pháp nhất thời. Chúng ta không thể thuê vĩnh viễn người phương Tây làm thay chúng ta *). Chúng ta ra sức học tập họ, nhưng không nên quá sùng bái, tôn thờ họ. (* – Để học hỏi thể chế chính trị, xã hội và kỹ thuật phương Tây, chỉ riêng chính phủ Minh Trị đã thuê hơn 500 chuyên gia, học giả trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là Giáo dục, Luật pháp, Xây dựng, Nông nghiệp và In ấn, sang Nhật Bản làm việc trong suốt thời kỳ Minh Trị duy tân (1868-1912))
Có cách nào để Nhật Bản không phụ thuộc vào quốc gia khác? Làm như thế nào để chúng ta có thể đi trên đất nước mình bằng chính đôi chân của chúng ta? Để đạt được điều này, chúng ta còn phải vượt qua cả một chặng đường vô cùng khó khăn.
Các bạn sinh viên! Chỉ có một cách, đó là các bạn phải ra sức học tập, chờ ngày đem mọi tinh lực ra phục vụ cho đất nước. Chính điều này cũng là trách nhiệm mà các bạn phải gánh trên vai, là trách nhiệm vô cùng cấp bách.
30. Dù thế nào đi nữa thì sự nghiệp khẩn cấp nhất – vì đất nước Nhật Bản hiện này – là mọi quốc dân chúng ta, bất kể người nào cũng phải học tập, phải nghiên cứu. Nhất là sinh viên – những người ý thức rõ nhất nghĩa vụ của công dân – lại càng không thể bàng quan trước sự tình của đất nước. Phấn đấu học tập là công việc quan trọng nhất trong lúc này của các bạn.
Nếu nghĩ được như vậy thì sinh viên hiện nay quyết không thể thỏa mãn với một chút kiến thức học được ở trong nhà trường. Cần phải đặt mục tiêu cao hơn, xa hơn. Cần tìm hiểu cặn kẽ bản chất của học thuật. Cần phải xây dựng được vị trí đích thực. Dù chỉ một mình – không có bạn cùng chí hướng – cũng phải có khí phách để xây dựng đất nước Nhật Bản, tận tâm tận tụy đem hết mọi khả năng đóng góp cho xã hội.
Từ trước tới nay, tôi vốn không ưa lối học của các sĩ phu, các nhà nho tối ngày vùi đầu dùi mài kinh sử, làm thơ phú, câu đối… theo kiểu khoa cử Trung Hoa. Vì với lối học đó, có đỗ đạt ra làm quan, họ chỉ biết cai trị xã hội, cai trị dân chúng hoàn toàn theo cảm tính. Chính vì thế, ngay từ Phần 1, tôi đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của “Thực học”, học các môn tự nhiên, các môn xã hội, ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày, sao cho tất cả mọi người đều có thể gây dựng cuộc sống bằng trách nhiệm và khả năng của mình. Tôi nhấn mạnh tới tầm quan trọng về sự bình đẳng giữa các tầng lớp trong xã hội.
31. Việc tìm kiếm chân lý thường bắt đầu từ sự hoài nghi
Những tiến bộ của văn minh đều ra đời từ sự phát hiện chân lý trong quá trình nghiên cứu mọi sự vật tự nhiên xung quanh ta. Nguyên nhân phát triển của nền văn minh phương Tây cũng xuất phát từ tinh thần hoài nghi. Galile tìm ra thuyết trái đất quay quanh mặt trời vì nghi ngờ thuyết mặt trời quay quanh trái đất. Newton tìm ra quy luật vạn vật hấp dẫn từ việc quan sát trái táo rơi. Watt phát minh ra máy hơi nước do để ý tới hơi khói bốc ra từ phích nước. Tất cả đều đạt tới chân lý xuất phát từ sự hoài nghi trước các hiện tượng, sự vật.
Và không phải chỉ có khoa học tự nhiên, những tiến bộ của khoa học xã hội cũng vậy. Từ chỗ hoài nghi chế độ chiếm hữu nô lệ, nên đã đề xuất Luật cấm buôn bán nô lệ. Và về sau, Thomas Clark đã chấm dứt thảm cảnh này. Hoài nghi về Công giáo Roma, Martin Luther đã thực hiện cải cách tôn giáo. Nhân dân Pháp vì căm giận sự bạo ngược của tầng lớp quý tộc nên đã làm cuộc cách mạng Pháp. Nhân dân mười ba bang Hoa Kỳ đã giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh giành độc lập vì hoài nghi những luật lệ của Anh Quốc. Chưa hết, người Nhật Bản thường nghĩ rằng đàn ông làm việc ngoài xã hội, còn đàn bà trông nom nhà cửa, cơm nước trong nhà. Nhưng Steward Mill đã viết bài “Giải phóng phụ nữ” để xóa bỏ tập quán này. Nước Anh với học thuyết mậu dịch tự do được cả giới kinh tế trên toàn cầu thừa nhận. Nhưng tại Hoa Kỳ, các học giả lại chủ trương học thuyết bảo hộ mậu dịch, thể hiện lập trường coi trọng việc nuôi dưỡng và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước.
Tại phương Tây, cứ một học thuyết ra đời thì lại có học thuyết mới phản biện lại. Những cuộc tranh luận với các ý kiến, học thuyết khác nhau diễn ra liên tục không ngừng.
Hãy thử so sánh thực tế đó với tình hình tại các quốc gia châu Á xem sao? Châu Á vẫn trong vòng mê muội. Người ta vẫn tin không một chút nghi ngờ vào lời của những người được coi là thánh nhân từ hàng ngàn năm về trước, vẫn mê tín dị đoan,vẫn tin vào lời nói của các đồng cốt. Chẳng thể nào so sánh, hoàn toàn không thể bàn luận được với người phương Tây.
Tuy vậy, việc mang trong lòng sự hoài nghi, khởi xướng ra dị thuyết, tìm tòi chân lý là một việc hết sức khó khăn, nó giống như muốn giong thuyền ra khơi trong khi gió ngược vậy. Nhưng có khi vận may, gió thuận thì chẳng tốn nhiều công sức, thuyền vẫn tiến thẳng.
Tuy vậy, đừng có ảo tưởng sẽ gặp vận may như vậy trong xã hội.
Có một cách để đạt tới chân lý là phải vượt qua được cuộc phản biện, phải bảo vệ được chính kiến của mình trước mọi ý kiến đối nghịch.
33. Hoài nghi sinh ra chân lý.
– … Học vấn không phải là việc chỉ có đọc và cứ đọc thật nhiều sách là đủ. Bản chất của học vấn phụ thuộc và khả năng ứng dụng. Có học vấn mà không ứng dụng được vào cuộc sống thực tế thì chẳng khác gì vô học.
Nếu nhìn vào thực trạng giờ học ở các trường thành phố thì thấy học sinh có vẻ siêng năng học tập lắm, cứ đà này xem ra tất cả sẽ trở thành học giả. Nhưng nếu thu hết sách giáo khoa và vở chép của chúng, và “trò ở đâu trả về quê đấy” thì sự thể sẽ ra sao? Chắc là khi cha mẹ, bè bạn hỏi đến thì học sinh chỉ còn nước: “Học vấn đề quên tại Tokyo mất rồi”.
Theo như suy nghĩ của tôi, bản chất thực sự của học vấn là phải động não suy nghĩ, chứ không phải chỉ là đọc sách một cách đơn thuần.
Và để ứng dụng sống động suy nghĩ vào cuộc sống thực tế thì cần phải biết trù tính, lo liệu. Tức là phải quan sát sự vật. Phải suy đoán đạo lý của sự vật. Phải đưa ra chính kiến, cách nghĩ cách làm của bản thân mình. Ngoài ra đương nhiên là còn phải đọc sách, phải viết sách. Phải nói lên ý kiến của mình cho người ta nghe. Phải tranh luận. Biết vận dụng tổng hợp các biện pháp như vậy thì mới được gọi là nghiên cứu học vấn.
Quan sát sự vật, suy luận, đọc sách là cách để tích lũy tri thức.
Bàn bạc, tranh luận là cách để trao đổi tri thức.
Viết, diễn thuyết là các để mở rộng tri thức.
Trong các biện pháp trên đây, có cái đạt được bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình. Có cái cần có người bàn, người nghe. Đó là khi tranh luận, diễn thuyết. Và như vậy cần thiết phải tổ chức các buổi tranh luận và diễn thuyết.
Hiện nay, vấn đề lo ngại nhất ở nước ta là dân trí quá thấp kém. Khai sáng quốc dân, đưa họ đến tầm cao kiến thức vốn được xem là nhiệm vụ cơ bản của các học giả. Vì vậy, các học giả, khi đã nắm bắt được cách thức nghiên cứu, thì phải nỗ lực làm tròn vai trò này.
Tranh luận, diễn thuyết cần thiết ra sao và có tầm quan trọng thế nào, các bạn đều đã rõ. Nhưng tại sao đến giờ này nó vẫn chưa được thực hiện ở nước ta? Tôi buộc phải nói rằng đó là do các học giả quá lười biếng.
Hành vi, hoạt động của con người thường hướng theo hai phần: trong và ngoài. Cần phải nỗ lực cả hai.
Đa số các học giả hiện nay thường chỉ hoạt động hạn hẹp trong phạm vi cá nhân. Họ e ngại, chây lười không muốn mở rộng ra thế giới bên ngoài. Hãy mau tỉnh ngộ. Chỉ khi nào có kiến thức sâu như vực thăm, tiếp xúc trao đổi với người khác như chim tung cánh mở rộng tự do tự tại trong không trung, mới đúng là học giả thực thụ.
34. Thói xấu xa tệ hại nhất trong xã hội là tham lam. Nguồn gốc của tham lam là ở chỗ trói buộc tự do. Vì thế, ngôn luận phải được tự do. Hoạt động của con người không thể bị cản trở.
Thử so sánh giữa xã hội Nhật Bản và xã hội các nước Âu Mỹ xem sao. Xã hội nào gần giống với tình trạng trong chốn hậu cung (thói tham lam hoành hành) nói trên? Chẳng phải là xã hội Nhật Bản đó sao. Ở dân chúng Anh, Mỹ không phải là không có thói tham lam, xa xỉ, lỗ mãng… Họ cũng không thiếu những kẻ lừa đảo, bịp bợm. Và không phải là cái gì trong phong tục của họ cũng đều tốt đẹp cả.
Nhưng có một điểm không thể nói là giống hệt với tình trạng của xã hội Nhật Bản. Đó là tham vọng. Trong xã hội văn minh người ta không đến nỗi ghen ghét, căm tức trước hạnh phúc của người khác và ngấm ngầm cầu mong cho người khác gặp bất hạnh như con người trong xã hội Nhật Bản.
Hiện nay, trong xã hội Nhật Bản, những người hiểu biết, các thức giả đang lên tiếng đòi tự do xuất bản, tự do ngôn luận, yêu cầu lập viện dân biểu. Vì sao và hoàn cảnh nào hoặc những thức giả phải lên tiếng như vậy?
Xã hội không thể là chốn hậu cung như trước đây. Nhân dân không thể như những cung tần, mỹ nữ. Chỉ có đoạn tuyệt với tham lam, lòng đố kỵ, ghen ghét và được tự do mới có thể giành lại và dấy lên dũng khí ganh đua lẫn nhau. Hạnh phúc hay bất hạnh, danh dự hay nhơ nhuốc… phải làm sao để đó là kết quả đương nhiên từ nỗ lực của mọi cá nhân.
Cản trợ tự do ngôn luận, trói buộc hoạt động của dân chúng đa phần đều liên quan đến chính sách của chính phủ. Và ai cũng đổ hết cho nền chính trị. Nhưng thực ra không hẳn là vậy. Chính trong nhân dân cũng thải ra nhiều thứ độc hại không kém. Nếu chỉ cải cách chính trị không thôi cũng không thể gột sạch những thứ độc hại đó ngay được.
35. Vì sao cứ muốn quan hệ ngoài xã hội phải như quan hệ cha con trong gia đình?
Tôi lấy việc nuôi dạy một đứa con khoảng chín, mười tuổi làm ví dụ.
Khi nuôi con, cha mẹ thường không để ý xem chúng cần cái gì và suy nghĩ ra sao. Cho ăn, cho mặc thế nào hoàn toàn dựa theo cảm tính. Miễn là con ngoan ngoãn biết vâng lời, không làm trái ý mình thì trời lạnh sẽ cho mặc ấm, bụng đói sẽ cho ăn no. Thức ăn, manh áo, chỗ ở giống như của Trời cho, cần lúc nào có lúc đó, con cái không phải lo nghĩ.
Đối với người làm cha làm mẹ, con cái là thứ quý giá nhất. Nếu có chiều chuộng, có yêu thương hay mắng mỏ, có cho roi cho vọt, cũng đều là hành vi xuất phát từ hành vi tình thương chân thực.
Hình ảnh cha mẹ với con cái là một như vậy mới đẹp làm sao! Đương nhiên, trong mối quan hệ này, trên (cha mẹ) vẫn ra trên, và dưới (con cái) vẫn ra dưới. Hoàn toàn không có bất cứ một sự lẫn lộn nào.
Những người chủ trương một xã hội phân thành đẳng cấp, có trên có dưới, luôn ao ước quan hệ xã hội cũng được như quan hệ cha con trong một nhà (không có cai trị bằng “ác ý”). Mong ước đó rất hay nhưng có một vấn đề lớn phải suy nghĩ.
Thực ra, quan hệ cha con chỉ hình thành trong điều kiện cha mẹ là những người lớn, chín chắn và con cái là những đứa trẻ còn non dại. Mà phải là con đẻ mới được. Nhưng cho dù là con mình đẻ ra, khi tới độ tuổi nhất định thì người cha, người mẹ nào cũng cảm thấy chúng bắt đầu khó bảo. Và mối quan hệ cha con bất hòa dần theo thời gian.
Với con cái nhà mình còn khó, huống chi là với con cái nhà người. Bởi thế, quan hệ ở ngoài đời giữa những người lạ – mà đều đã trưởng thành – lại còn khó gấp bội. Vậy phải làm sao để có thể hình thành được mối quan hệ giữa người với người trong xã hội giống như quan hệ cha con trong gia đình? Biến lý tưởng thành hiện thực quả là không dễ.
Hơn nữa, một đất nước, một làng, một cính phủ, một công ty… tất cả những gì mà người ta gọi là “xã hội loài người” cũng đều là xã hội của những người đã trưởng thành, xã hội của những người không có quan hệ huyết thống với nhau. Trước một thực tế như vậy, mà lại mong ước áp đặt quan hệ cha con trong một nhà vào quan hệ người với người ngoài đời thì thật là ảo tưởng.
Nhưng dù biết là khó song ai cũng đều muốn biến trí tưởng tượng thành hiện thực. Con người là vậy. Và đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới đẳng cấp, địa vị trên dưới trong quan hệ giữa người với người, cũng chính là nguyên nhân sinh ra nền chính trị chuyên chế tàn bạo trong xã hội.
Vì thế tôi mới viết đoạn trên rằng: Nguyên nhân chính đẻ tra đẳng cấp, địa vị không xuất phát từ sự ác ý mà xuất phát từ trí tưởng tượng của con người.
Tại các quốc gia Á châu, người ta gọi quân chủ là “vua cha”, gọi dân chúng là “thần dân”, “con đỏ”. Ngoài ra, người ta còn gọi công việc của chính phủ là “mục dân” (chăn dân, trông coi dân). Ở Trung Hoa, người ta còn đặt tên cho các quan cai trị địa phương là “quan châu mục”.
Thực ra cái chữ “mục” ở đây, có nghĩa là chăn nuôi gia súc. Tức là đàn bò, bầy cừu dược người ta chăn dắt vỗ về ra sao thì dân chúng trong vùng cũng được chăn dắt như vậy. Họ công nhiên tán thành dương “chiêu bài” này. Đối xử với người dân như lũ ngựa non, bầy nai tơ. Càng làm vô cùng thất đức, ngạo mạn.
Tuy vậy, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, việc họ coi dân chúng như lũ trẻ non dại, như bầy cừu, như đàn bò cũng không phải do ác ý gì. Chẳng qua họ cố gắn việc trị vì một đất nước theo kiểu cha mẹ chăm sóc, nuôi nấng con cái.
Để làm dược như vậy, họ tự tôn quân chủ là “vua cha” vừa có đức, vừa có tài. Tiếp đến, bên dưới lại có các quan đại thân anh minh sáng suốt giúp sức. Họ ra sức truyền bá trong dân chúng, rằng đấng quân chủ và các đại thần có tấm lòng trong như nước, ngay thẳng như “mũi tên”, tình thương bao la, lo cho dân từng bát cơm, manh áo, từng chốn nương thân. Dân đói thì cho gạo, gặp hỏa hoạn thì cho tiền bạc.
Cứ như thế, ơn đức của đấng quân chủ như luồng gió nam mát rượi thổi vào dân chúng. Còn dân chúng tuân phục đấng quân chủ như cờ phướn cuộn bay theo gió, nhũn như con chi chi, vô cảm như sỏi đá. Đấng quân chủ và thứ dân quyện vào nhau. Thế gian yên ổn thanh bình.
Nghe họ ca tụng mà cứ ngỡ là quang cảnh trên thiên đường đang hiện ra trước mắt!
Tuy vậy, thử suy ngẫm hiện thực xã hội sẽ rõ. Quan hệ giữa chính phủ và nhân dân vốn là quan hệ giữa những người lạ với nhau, không phải quan hệ máu mủ ruột thịt. Quan hệ giữa người lạ với người lạ, nhất thiết phải ràng buôc nhau bằng khế ước, hợp đồng. Cả hai cùng phải tôn trọng hợp đồng, điểm nào chưa được thì phải tranh luận dàn xếp rồi thống nhất thực hiện. Luật pháp của một quốc gia cũng được hình thành trên cơ sở đó.
Trên thế gian này, có quốc gia nào có được đấng quân chủ nhân đức, có được các quan đại thần sáng suốt anh minh, có được lữ thần dân nhu mì dễ bảo… không? Đó chỉ là giấc mộng ảo tưởng.
Có trường học nào đảm bảo sẽ đào tạo ra toàn các bậc thánh nhân, toàn người tài đức? Có cách giáo dục nào chắc chắn sẽ sản sinh ra thần dân dễ sai bảo?
Ngay cả Trung Hoa, từ thời nhà Chu, các nhà cai trị đã bao lần đau đầu khổ sở vì ước nguyện đó. Và đã có lần nào họ trị vì dân chúng được đúng như ý nguyện không? Nếu được như thế thì đâu đến nỗi giờ đây cả quốc gia rộng lớn này đang bị ngoại bang giày xéo? (tác giả ám chỉ cuộc chiến tranh Nha phiến xảy ra tại Trung Hoa thời kỳ đó)
Vậy mà họ vẫn cứ rao giảng ra rả lòng dạ quân chủ như biển Thái Bình… Mà họ có muốn ca ngợ thì cứ việc ca ngợi lấy một mình. Bị ngoại xâm giày xéo mà vẫn cứ tiếp tục ca ngợi nền chính trị nhân từ của quân chủ.
Cứ cho là đó chuyện của người ta, nhưng mù quáng nếu như vậy thi chỉ tổ cho thiên hạ chê cười.

Trang