31 tháng 3, 2017

Tình trạng ‘sếp nhiều như nhân viên’ trong bộ máy hành chính Việt Nam

Quốc hội Việt Nam họp (ảnh tư liệu, 4/2016)
Trong những ngày cuối tháng 3, các đoàn giám sát của Quốc hội Việt Nam về cải cách bộ máy hành chính đã làm việc với một loạt các tỉnh. Đầu tháng này, các đoàn giám sát cũng làm việc với một số bộ.
Báo chí Việt Nam tường thuật rằng sau các cuộc làm việc này, các đoàn giám sát một lần nữa xác định rằng một số tỉnh, bộ có số lượng lãnh đạo đông bằng hoặc hơn nhân viên, một tình trạng đã tồn tại trong những năm gần đây và hiện chưa có dấu hiệu gì sẽ cải thiện.
Chưa có thống kê đầy đủ được công bố chính thức về tình trạng tại các bộ và các tỉnh, nhưng thông tin trên báo chí nêu lên những con số bị đánh giá là “khó coi”.
Tại Bộ Giao thông Vận tải, Vụ Pháp chế có 6 lãnh đạo, 8 chuyên viên; Vụ Tổ chức Cán bộ có 8 lãnh đạo, 14 chuyên viên, Cục Đường sắt 30 lãnh đạo, 72 chuyên viên. Nhiều đơn vị số lãnh đạo vượt cả số nhân viên, như Thanh tra Bộ có đến 20 lãnh đạo quản lý, trong khi chỉ có 18 chuyên viên và người lao động. Tương tự, Cục Quản lý Xây dựng và Chất lượng Công trình Giao thông có tỉ lệ lãnh đạo trên nhân viên là 41/31. Thậm chí Cục Quản lý Xây dựng Đường bộ có số lượng lãnh đạo gần gấp đôi nhân viên là 28/15.
Tình trạng ở Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng không sáng sủa hơn. Tỷ lệ lãnh đạo so với chuyên viên, người lao động ở Vụ Tổ chức cán bộ 11/11, ở Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục là 20/26.
Trong số các tỉnh, Thanh Hóa gây chú ý vì có nhiều đơn vị có số lãnh đạo cao hơn nhân viên. Sở Tư pháp tỉnh có 25 lãnh đạo cấp phòng trở lên và chỉ có 18 công chức với một người lao động. Sở Tài nguyên và Môi trường có tới 6 phó giám đốc, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đến cuối năm 2016 có 5 phó giám đốc.
Không dừng ở đó, một số đơn vị của tỉnh chỉ có lãnh đạo mà không hề có nhân viên, như Qũy Bảo trợ Trẻ em chỉ có một cấp trưởng, một cấp phó và không có nhân viên. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử cũng có một cấp trưởng và hai cấp phó.
Hai tỉnh khác được báo chí nhắc đến vì có vấn đề tương tự là Quảng Ninh và Hải Dương với các tít báo như “Đề nghị Quảng Ninh không để tình trạng lãnh đạo nhiều hơn nhân viên” trên báo Tiền Phong, hay “Hải Dương: Lãnh đạo nhiều gấp 2 lần nhân viên” trên báo Người Lao Động.
Giải trình với đoàn giám sát của Quốc hội, lãnh đạo tỉnh Hải Dương nói việc bổ nhiệm cán bộ của họ là theo đúng quy định của chính quyền trung ương.
Lý giải về điều tưởng như là nghịch lý này, chuyên gia Đinh Duy Hòa viết trong một bài đăng trên trang VietnamNet: “Tỉnh quyết sở ấy có bao nhiêu biên chế, ví dụ sở A có 45 người. Theo quy định của trung ương, sở A được tổ chức 5 phòng. Như vậy tổng lãnh đạo của sở A sẽ gồm giám đốc sở, cộng 3 phó giám đốc sở, cộng 5 trưởng phòng, cộng 10 phó trưởng phòng, bằng 19 người (công chức lãnh đạo phòng tối đa là 3). Trong thực tế sẽ có phòng có 4 hoặc 5 biên chế, như vậy rõ ràng công chức lãnh đạo là nhiều hơn nhân viên, nhưng vẫn đúng quy định”.
Tất cả những chủ trương đó là những chủ trương mà ban hành thiếu khảo sát, cho nên đưa ra những chủ trương trên trời. Những quyết định, chính sách điều chỉnh mối quan hệ xã hội thì cần phải khảo sát, điều tra và nhất là cần phải hỏi các đối tượng đấy. Ban luật trên trời thì làm sao thực thi được. Đặt ra tổ chức là vì công việc, bố trí con người là vì việc chứ không vì người, nhưng cái đó cũng nói trên lý thuyết chứ không thực hiện được
Luật sư Trần Quốc Thuận, cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Từng là Vụ trưởng Vụ Cải cách Hành chính, Bộ Nội vụ, đã nghỉ hưu năm 2014, chuyên gia Hòa cũng giải thích về công tác nhân sự ở cấp bộ trong bài viết của mình: “Mỗi bộ được tổ chức bao nhiêu vụ, cục; vụ nào được tổ chức bao nhiêu phòng [điều đó] được quy định trong nghị định của Chính phủ. Cái này thì bộ cũng như tỉnh đều chấp hành nghiêm chỉnh. Chuyện còn lại là của bộ: Quyết định vụ B bao nhiêu người, bổ nhiệm vụ trưởng và phó vụ trưởng, trưởng và phó trưởng phòng trong vụ (giả sử theo quy định của Chính phủ, vụ có 3 phòng thì công chức lãnh đạo của vụ sẽ là: 1 vụ trưởng, 3 phó vụ trưởng, 3 trưởng phòng và 6 phó trưởng phòng, [tổng cộng] bằng 13, trong khi biên chế chung cả vụ được duyệt là 18 hoặc 20). Cuối cùng lại là lãnh đạo nhiều hơn nhân viên mà vẫn đúng quy định”.
Ông Hòa cho rằng các cơ quan trung ương và địa phương làm đúng theo quy định hiện hành dẫn đến tình trạng “hòa cả làng”. Ông gợi ý rằng cách làm khác đi là nghiêm túc định nghĩa lại “những cái tưởng đơn giản như phòng là gì, vụ là gì, cục là gì, lúc nào thì tổ chức phòng, lúc nào thì tổ chức vụ, làm thế nào ra chính xác số lượng người trong một phòng, một vụ”. Chuyên gia này nhận định làm như vậy “sẽ ra ngay số lượng hợp lý lãnh đạo trong một phòng, một vụ”.
Từ góc độ từng là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, luật sư Trần Quốc Thuận ở thành phố Hồ Chí Minh nhận xét với VOA rằng cũng như nhiều luật khác, các quy định về bộ máy hành chính Việt Nam đã được xây dựng “thiếu cơ sở thực tế” nên dẫn đến lãnh đạo đông bằng hoặc hơn nhân viên. Ông nói:
“Tất cả những chủ trương đó là những chủ trương mà ban hành thiếu khảo sát, cho nên đưa ra những chủ trương trên trời. Những quyết định, chính sách điều chỉnh mối quan hệ xã hội thì cần phải khảo sát, điều tra và nhất là cần phải hỏi các đối tượng đấy. Ban luật trên trời thì làm sao thực thi được. Đặt ra tổ chức là vì công việc, bố trí con người là vì việc chứ không vì người, nhưng cái đó cũng nói trên lý thuyết chứ không thực hiện được”.
Tình trạng bộ máy hành chính các cấp có quá nhiều lãnh đạo làm cho nhiều người phải than trên mạng xã hội lẫn báo chí chính thống rằng “quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi”.
Theo số liệu trên báo chí trong nước, Việt Nam ước tính có 2,8 triệu cán bộ, công chức và viên chức. Bên cạnh đó là nhiều người đã nghỉ hưu và những người hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước, con số này lên tới 7,5 triệu người, chiếm 8,3% dân số cả nước. Toàn bộ số người “hưởng lương và mang tính chất lương” lên tới 11 triệu người. Trong một cuộc phỏng vấn với một báo Việt Nam hồi giữa năm ngoái, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói “không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy”.
Việt Nam cần cải cách bộ máy hành chính để thúc đẩy kinh tế (ảnh tư liệu, Hà Nội, 2/2013)
Việc tinh giản biên chế trong những năm gần đây ngày càng trở nên cấp bách ở Việt Nam. Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản đã ra một nghị quyết về vấn đề này hồi tháng 4/2015. Nhưng trên thực tế, các con số cho thấy dường như đang có diễn biến ngược chiều.
Tại một hội thảo về cải cách bộ máy hành chính nhà nước do đoàn giám sát của quốc hội tổ chức hồi cuối tháng 2, thông tin được công bố cho biết vào năm 2016, các cơ quan trung ương được giao quản lý 3.725.559 người. Tuy nhiên, tính đến ngày 30/10/2016, tổng số người hưởng lương, phụ cấp thực tế là 3.734.302 người, vượt 8.743 người.
... hợp đồng nó sẽ loại những người vô tích sự ra. Thiếu gì giải pháp nhưng mà người ta không làm, bởi vì người ta quen cái thói là nói một đằng, làm một nẻo
Luật sư Trần Quốc Thuận
Luật sư Trần Quốc Thuận nói nhà nước Việt Nam đã đặt ra giải pháp là thay thế chế độ biên chế suốt đời bằng hợp đồng lao động, nhưng việc thực hiện còn chưa nghiêm chỉnh. Ông nói:
“Tất cả chuyển sang hợp đồng. Giờ những người đã làm lâu thì có thể hợp đồng 5 năm là dài nhất. Rồi 3 năm, 2 năm, 6 tháng. Tự nhiên cái hợp đồng nó sẽ loại những người vô tích sự ra. Thiếu gì giải pháp nhưng mà người ta không làm, bởi vì người ta quen cái thói là nói một đằng, làm một nẻo”.
Hội thảo về cải cách bộ máy hành chính nhà nước chỉ ra rằng vì có “tâm lý ngại va chạm” nên các cơ quan, tổ chức “chưa thực hiện nghiêm túc chủ trương về quản lý biên chế và tinh giản biên chế”. Trong khi đó, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện biên chế và quản lý biên chế “còn buông lỏng” và “chưa có chế tài cụ thể đủ mạnh”.

Ông Trịnh Văn Lâu yêu cầu xét xử Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Bình, bắt đại gia Trầm Bê, truy tố tướng Trần Quốc Liêm


Ông Trịnh Văn Lâu, tức Tư Cẩn, tác giả Bản Kiến Nghị. Ảnh: internet
Đôi lời: Trang Ba Sàm nhận được Bản Kiến Nghị được cho là của ông Trịnh Văn Lâu, cán bộ cao cấp nghỉ hưu, gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các lãnh đạo cao cấp trong Bộ Chính trị, đề nghị cách chức và xét xử Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Bình vì bao che cho các hoạt động lũng đoạn ngân hàng, bắt ông trùm ngân hàng Trầm Bê, truy tố vợ chồng Thiếu tướng Trần Quốc Liêm vì liên quan đến việc chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng trong vụ án Dương Thanh Cường với ngân hàng Agribank. Không rõ các chi tiết nêu ra trong Bản Kiến Nghị này chính xác ra sao, xin được đăng tại đây để quý độc giả tham khảo và kiểm chứng.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
*****
                                      BẢN KIẾN NGHỊ

– Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng;
– Đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị- Thường trực Ban Bí thư;
– Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị – Thủ tướng Chính phủ;
– Đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị – Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung Ương;
– Đồng kính gửi: Các đồng chí trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tôi là Trịnh Văn Lâu (Tư Cẩn) nguyên Ủy viên Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI, VII; Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy Ban kiểm tra Trung ương Đảng; nguyên Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh: Tây Ninh, Cửu Long, Vĩnh Long; Bí thư Đảng bộ nhà tù Côn Đảo.
Kính thưa các đồng chí!
Thời gian gần đây, dư luận quần chúng nhân dân, nhất là các vị lão thành cách mạng, cán bộ cao cấp về hưu, đặc biệt các cựu tù Côn Đảo đều phấn khởi về kết quả việc phát hiện, điều tra, xử lý kỷ luật tập thể và cá nhân liên quan đến các vụ án tham nhũng, lợi ích nhóm, lợi dụng chức vụ quyền hạn, nhất là đã và đang phanh phui tới cấp Thứ trưởng, Bộ trưởng, Bí thư, Chủ tịch tỉnh và người đứng đầu các cơ quan tương đương… do báo chí, dư luận xã hội phát hiện.
Bước đầu đã chứng minh lời phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng trong phiên họp thứ X, ngày 28/12/2015 như sau:”…Sau Đại hội XII của Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng phải được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa, có hiệu quả rõ ràng hơn…”.
Với tinh thần đó, tôi xin đại diện các đồng chí lão thành cách mạng, cán bộ cao cấp nghỉ hưu gởi đến tôi và nhờ tôi gửi đến các đồng chí Bản kiến nghị này với những bức xúc của đông đảo đồng chí, đồng bào ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.Để gởi đến đồng chí Tổng Bí thư – Trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cùng các đồng chí trong Bộ Chính trị với tất cả niềm tin và tâm huyết. Mong các đồng chí tiếp tục xem xét và xử lý đối với những vụ trọng án đã và đang được xét xử nhưng vẫn còn những nhân vật liên quan, có trách nhiệm to lớn, nặng nề trong các vụ án đó, vẫn chưa được điều tra phanh phui làm rõ trước kỷ cương pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất: Việc ông Nguyễn Văn Bình, đang là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, nguyên Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trực tiếp trong các vụ án vừa qua, nhưng chưa được quy trách nhiệm và đưa ra xét xử? Cụ thể:
1-     Vụ án Phạm Công Danh và Ngân hàng xây dựng:
Một là, Qua Bản cáo trạng xét xử vụ trọng án này, Nhân dân rất bức xúc và hiểu cặn kẽ: Phạm Công Danh nguyên là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đòan Thiên Thanh, là Tập đoàn nợ lớn, tài chính yếu kém. Phạm Công Danh phải thụ án 6 năm tù vì sự thua lỗ ấy. Vậy mà Tập đoàn Thiên Thanh lại được Ngân Hàng nhà nước lựa chọn để tái cơ cấu Ngân hàng Đại Tín và Phạm Công Danh lại được Ngân hàng nhà nước bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng quản trị – Giám đốc Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam nầy?
Hai là. Cần được làm rõ là: Ngân hàng Xây dựng là Ngân hàng đầu tiên được Ngân hàng nhà nước mua lại với giá “không đồng” vào ngày 02/02/2015.
Được biết, đến cuối năm 2014 phần vốn chủ sở hữu âm tới hơn 24.000 tỷ đồng và lỗ lũy kế 27.000 tỷ đồng.
Việc Ngân hàng Nhà nước mua lại Ngân hàng Xây dựng đang thua lổ trầm trọng với giá “không đồng” là việc làm kỳ lạ, cần được điều tra làm rõ. Trong lúc đó, ai đứng phía sau cho Phạm Công Danh thành lập hàng chục Chi nhánh “Ngân hàng ảo”để rút tiền Nhà nước?
Ba là: Có quy định khi Ngân hàng Xây dựng thua lỗ lớn, phải được kiểm soát đặc biệt mỗi khi rút tiền từ Ngân hàng này có số tiền từ 5 tỷ đồng trở lên, phải được sự đồng ý của Tổ giám sát thuộc Ngân hàng nhà nước đặt tại đây.
Vậy mà, chỉ trong vòng hơn 01 năm, Phạm Công Danh đã rút được từ Ngân hàng Xây dựng hơn 18.678 tỷ đồng. Trách nhiệm này, ngoài Tổ giám sát, còn có trách nhiệm của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Cần phải được điều tra làm rõ?
2- Ngân hàng nhà nước mua lại “không đồng” với Ngân hàng Phương Nam và câu hỏi “Ai bảo kê ông Trầm Bê”?
Ở đồng bằng Sông Cửu Long, Nhân dân các giới vẫn còn bức xúc việc…”Ngân hàng nhà nước đứng ra nhận ủy quyền phần vốn âm nhiều chục nghìn tỷ đồng của  gia đình ông Trầm Bê sau khi sáp nhập Ngân hàng Phương Nam vào Sacombank…”,”…còn được gọi Ngân hàng nhà nước mua lại Ngân hàng Phương Nam bằng ”không đồng” để lãnh lấy số nợ khổng lồ của gia đình Trầm Bê về cho Nhà nước phải trả nợ thay? Và đông đảo dư luận không quên chuyện Trầm Bê còn  cho Dương Thanh Cường ở Ngân hàng Agribank vay 1.500 lượng vàng từ Ngân hàng Phương Nam trong vụ án Dương Thanh Cường gần như ai cũng biết. Đặc biệt vụ  Trầm Bê đã mua với giá rẻ trên 150 héc ta đất Quốc phòng của Quân Khu 9 do ông Huỳnh Tiền Phong, nguyên Tư lệnh Quân Khu 9 đứng bán cho Trầm Bê và Trầm Bê kinh doanh bán lại đã thu lợi có được hàng chục ngàn tỷ đồng, chưa kể đất Quốc phòng của Quân khu 7 tại thành phố Hồ Chí Minh mà Trầm Bê đã mua.
Hiện Trầm Bê còn những tài sản: dinh thự, cảng biển, những ngôi chùa mênh mông, bao gia sản, nhà cửa ở thành phố Hồ Chí Minh và Trầm Bê đã “đền ơn” ông Tiền Phong mấy căn biệt thự ở Sài Gòn… Tại sao từ khi sáp nhập và được mua “không đồng”, Ngân hàng Phương Nam vào Sacombank, Trầm Bê và con trai là Trầm Khải Hòa vẫn giữ chân Hội đồng thành viên và điều hành Ngân hàng Sacombank cho đến nay?
Tại sao Ngân hàng nhà nước và ông Nguyễn Văn Bình bắt Nhà nước phải lãnh khối nợ khổng lồ của gia đình Trầm Bê để trả nợ, còn Trầm Bê thì cứ sống ngoài vòng pháp luật, giàu có, nhởn nhơ, đường hoàng? Liệu đây có phải là một nhóm lợi ích của những người có chức, có quyền bảo kê không?
2- Ngân hàng Nhà nước mua lại “không đồng” với Ngân hàng Đại dương (Oceanbank):là một trong 6 đại án tham nhũng, đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Hà Văn Thắm đã được Ngân hàng Nhà nước với sự chỉ đạo của Thống đốc Nguyễn Văn Bình mua Ngân hàng Đại dương với giá “không đồng” từ ngày 25/04/2015
Dư luận của cán bộ, đảng viên được biết: theo đánh giá, nhận định của Bộ Công an thì đây là vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.Theo thông tin chính thống từ các nguồn tin: đây là những diễn biến vi phạm nổi bật của Ngân hàng Oceanbank trước lúc được Ngân hàng Nhà nước mua với giá “không đồng”.
- Đến 31/03/2014 nợ xấu lên đến 15.000 tỷ đồng, chiếm 49,84%. Vốn Điều lệ 4.000 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế lỗ gần 10.200 tỷ đồng, bằng 299,63% (âm vốn chủ sở hữu gấp 2,5 lần).
- Hà Văn Thắm lập khống 09 hồ sơ vay, chiếm đoạt 137 tỷ đồng của  Oceanbank.
- Hà Văn Thắm cho Phạm Công Danh vay trong danh nghĩa Công ty TNHH- MTV Dịch vụ và thương mại Trung Dung vay gần 350 tỷ đồng không có tài sản bảo đảm, không có khả năng thu hồi và nhiều vi phạm khác.
- Tháng 5/2014 Hà Văn Thắm cho lập khống 24 hợp đồng chuyển nhượng căn hộ…
Với những vi phạm, tham ô, chiếm đoạt tiền Nhà nước của Hà Văn Thắm và  Ngân hàng Đại dương vô cùng nghiệm trọng như vậy, ông Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại quyết định mua lại Ngân hàng này với giá “không đồng”? Nhà nước phải lãnh số nợ khổng lồ để trả thay cho Hà Văn Thắm và nhóm lợi ích của hắn. Ông  Bình phải chịu trách nhiệm về quyết định này?
Thứ hai: Vụ án liên quan đến Thiếu tướng Trần Quốc Liêm – (Tổng Cục phó Tổng Cục An ninh – Bộ Công An) – em ruột của vợ cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và vợ là Trần Hoa Mai trong vụ án Dương Thanh Cường cùng đồng bọn lừa đảo, chiếm đoạt gần 1.000 tỷ đồng của Ngân hàng Agribank.
Mối quan hệ đó là: Với “Dự án ma – Thạnh Phát”, Dương Thanh Cường cùng đồng bọn chiếm đoạt của Agribank 966 tỷ đồng (trên thực tế, theo luật sư Trương Thị Hòa là 1.500 tỷ đồng). Đó là Dự án “Bất động sản”, trong đó có thương vụ của vợ chồng Thiếu tướng Liêm – Mai bán cho Dương Thanh Cường 5 héc ta (đất ruộng) ở huyện Bình Chánh với giá 397,9 tỷ đồng ( 7,95 triệu đồng/1m2). Số tiền lớn này vợ chồng ông Liêm vừa nhận trực tiếp 171,2 tỷ đồng, vừa chuyển khoản vào tài khoản Trần Hoa Mai đứng tên: 119 tỷ đồng; Còn 52,2 tỷ đồng Cường mang đến giao tận nhà của Liêm – Mai nhiều lần. Thực tế 5 ha đất ruộng của vợ chồng Trần Quốc Liêm với giá trị thị trường lúc đó không đến 5 – 6 tỷ đồng;mà vợ chồng Liêm lấy 397,9 tỷ đồng của Dương Thanh Cường là điều cần làm rõ?
Trong mối quan hệ này, Dương Thanh Cường đã khai: “Có nhờ Trần Quốc Liêm, là Thiếu tướng An ninh, Bộ Công An làm giấy tờ tín chấp nói với Tổng Giám đốc Agribank là Nguyễn Thế Bình để Cường được vay tiền của Ngân hàng. (Sau này vào tù, Cường rút lại lời khai đó). Theo cáo trạng (liệt kê) có tới 566 tỷ đồng (một con số khác là 386,2 tỷ đồng) trong số 628 tỷ đồng từ Ngân hàng Agribank chuyển cho Dương Thanh Cường đều qua tài khoản của bà Trần Hoa Mai (vợ Trần Quốc Liêm) đã mở tại Ngân hàng này.
Có nguồn tin, cơ quan chức năng có đủ những chứng cứ này. Cũng có dư luận rằng, cơ quan điều tra trước đây đã có kết luận khởi tố vợ chồng Liêm – Mai, nhưng lại có thế lực chỉ đạo nên coi vi phạm này là quan hệ giao dịch dân sự. Nhưng theo chúng tôi đây là phạm tội trực tiếp giúp sức của vợ chồng ông Liêm – bà Mai cho Dương Thanh Cường lừa đảo chiếm đoạt của Agribank 966 tỷ đồng (theo LS Trương Thị Hòa là 1.500 tỷ đồng).
Được biết, Dương Thanh Cường lúc ấy mới vừa ra tù (từ án tử hình, xuống chung thân, rồi còn 20 năm với 5 tội danh, trong đó có tội lừa đảo và đưa hối lộ. Nhưng chỉ đến năm 2005 thì Cường được ra tù rất sớm). Vì thế, sự tiếp tay, giúp sức của Thiếu tướng Liêm đối với Cường là đã có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, vi phạm pháp luật cần được xử lý nghiêm minh. Chúng tôi kiến nghị: đình chỉ công tác đối với Thiếu tướng Trần Quốc Liêm và làm rõ những hành vi vi phạm của họ trước pháp luật.
Kính thưa đồng chí Tổng bí thư và các đồng chí!
Như nhận xét của đồng chí Tổng Bí thư: “… Khó là chỗ lợi ích nhóm, liên quan chằng chịt giữa kinh tế và chính trị, giữa doanh nhân và những người có chức, có quyền, ngoắt ngoéo với nhau. Không giải quyết được thì đó là một trong bốn nguy cơ …” Từ những nhận xét trên, chúng tôi càng thấy rõ cuộc chiến chống tham nhũng, chống “giặc nội xâm” là hết sức gay go và phức tạp
Chúng tôi tha thiết kiến nghị như sau:
Một là: Đề nghị làm rõ trách nhiệm của ông nguyên Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình trong việc tiếp tay cho hệ thống các Ngân hàng thua lỗ để Ngân hàng nhà nước mua lại “không đồng” . Đặc biệt, đó là những ngân hàng gắn với những can phạm với tội danh lừa đảo, chiếm đoạt khối tiền hàng ngàn tỷ để Nhà nước phải gánh nợ, trả thay. Việc mua lại “không đồng” thường vào năm 2015, trước Đại  hội XII của Đảng, trong khi hàng ngàn tỷ đó lại nằm trong túi bọn tham nhũng đang sống trong sự chở che, đùm bọc của ông Bình gắn với những đại án, trọng án tham nhũng?
Hai là: Đề nghị xử lý ông Nguyễn Văn Bình về những sai phạm trong việc Ngân hàng nhà nước quyết định cho Phạm Công Danh làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị, giám đốc Ngân hàng Xây dựng khi vừa thụ án 6 năm tù. Đây là Ngân hàng nhà nước làm trái với quy định đối với các tổ chức tín dụng. Đồng thời, điều tra làm rõ việc ông Nguyễn Văn Bình đã tiếp tay cho Phạm Công Danh, trong vòng 1 năm được Ngân hàng nhà nước giải ngân để hắn rút ruột hơn 18 nghìn tỷ đồng, trái với qui định của chính Ngân hàng nhà nước đã đề ra đối với Ngân hàng Xây dựng đang thua lỗ này?
Ba là: Điều tra làm rõ việc ông Nguyễn Văn Bình chỉ đạo về việc mua lại “không đồng” Ngân hàng Phương Nam, để Nhà nước phải gánh trả nợ thế cho cha con gia đình Trầm Bê, trong khi đó Trầm Bê và gia đình vẫn tồn tại với tài sản kết sù ở thành phố Hồ Chí Minh, ở Trà Vinh, Đồng bằng sông Cửu Long và cả ở nước ngoài. Có dư luận rằng: Trầm Bê đã tẩu tán tài sản và rửa tiền.
Từ những sai phạm của ông Nguyễn Văn Bình nêu trên. Chúng tôi đề nghị cách chức Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên trung ương Đảng đối với ông Nguyễn Văn Bình và đưa ra xét xử công khai trước pháp luật để giử nghiêm kỷ cương phép nước.
Bốn là: Đề nghị bắt Trầm Bê – nguyên Giám đốc Ngân hàng Phương Nam để điều tra, làm rõ những thua lỗ, sai phạm, cũng như nhóm lợi ích đang bảo kê cho Trầm Bê mà dư luận Nhân dân, cán bộ ở đồng bằng sông Cửu Long rất bức xúc trong nhiều năm nay với câu hỏi: “Ai bảo kê Trầm Bê?”
Năm là: Đề nghị đưa Thiếu tướng Trần Quốc Liêm và vợ Trần Hoa Mai ra trước pháp luật vì có liên quan đến việc chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng trong vụ án Dương Thanh Cường với ngân hàng Agribank, lâu nay đã trở thành vùng cấm (?)
Cán bộ và nhân dân ở đồng bằng sông Cửu Long hết sức vui mừng và tin tưởng ở đồng chí Tổng bí thư, Bộ chính trị, và Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng trong cuộc chiến chống tham nhũng hết sức quyết liệt, đầy phức tạp nhưng ngày càng giành được thắng lợi to lớn để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ yêu quí được Bác Hồ, các bậc tiền nhân cùng máu xương biết bao đồng bào, đồng chí đã dựng xây và truyền lại cho  chúng ta!
Xin kính chào!
Đại diện cán bộ lão thành, cao cấp nghỉ hưu đồng kiến nghị
Trịnh Văn Lâu (Tư Cẩn)

29 tháng 3, 2017

Ngủ Không Lương Và Ngủ Có Lương.

Ngủ không lương:
Sao lại có thể thảm đến thế này?!
Ngủ có lương:

Nhà máy thép có cổ phần của Chủ tịch Huỳnh Đức Thơ đang hoạt động ra sao?

Văn Sơn
(GDVN) - Từ khi đi vào hoạt động đến nay, nhà máy thép Dana-Ý đã nhiều lần gây ô nhiễm, khiến người dân sống xung quanh bức xúc, kéo đến bao vây, yêu cầu ngừng xả thải.Người dân mong muốn nhà máy di dời đi nơi khác để họ có thể sống yên ổn với những giá trị làng xóm truyền thống với từ đường họ tộc tồn tại suốt bao năm qua. 
Tuy nhiên, sau nhiều bàn thảo, hiện có phương án di dời, tái định cư chính họ bằng ngân sách nhà nước.
Nhà máy thép gây ô nhiễm vì thế có cơ hội tiếp tục tồn tại, hoạt động để đảm bảo lợi ích kinh doanh.
“Sống không yên” với nhà máy thép
Cùng với nhà máy thép Dana-Úc, nhà máy thép Dana-Ý (thuộc Công ty cổ phần thép Dana-Ý) có trụ sở tại đường 11B (khu công nghiệp Thanh Vinh, xã Hòa Liên, Hòa Vang, Đà Nẵng) là hai thủ phạm gây ra tình trạng ô nhiễm dai dẳng cho người dân nơi đây.
Nhà máy thép Danan-Ý đã nhiều lần gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân. Ảnh: VS
Không chịu nổi cảnh ô nhiễm khói bụi, nước thải, hàng trăm người dân thuộc các thôn: Vân Dương 1, 2, 3 và 5 (xã Hòa Liên) đã nhiều lần kéo đến bao vây nhà máy, yêu cầu ngừng hoạt động. Người dân đã chặn tất cả các xe tải ra vào nhà máy.
Đỉnh điểm, vào cuối tháng 12/2016, trước sức ép của người dân, hai nhà máy thép nói trên phải tạm ngừng hoạt động.
Chính quyền địa phương phải tổ chức đối thoại với người dân và đại diện hai nhà máy thép nhưng vẫn chưa giải quyết dứt điểm vấn đề.
Đầu tháng 1, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có thông báo kết luận của Chủ tịch thành phố Huỳnh Đức Thơ về xử lý tình hình ô nhiễm môi trường tại khu vực hai nhà máy thép Dana-Ý và Dana-Úc.
Bản kết luận nêu, giao Sở Tài nguyên và môi trường chỉ đạo Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố khẩn trương lập dự toán kinh phí đền bù, giải tỏa, tái định cư các hộ dân tại khu vực.
Phương án cụ thể là di dời các hộ dân nằm sát gần với khu vực nhà máy để nhà máy hoạt động tạm thời trong thời gian khấu hao tài sản, thu hồi vốn.
Di dời hẳn các hộ dân nằm trong khoảng cách ly an toàn đối với nhà máy thép theo quy định của pháp luật để các nhà máy tiếp tục tồn tại và hoạt động.
Về lâu dài có hai phương án là di dời hai nhà máy thì phải chọn địa điểm di dời, lập khái toán kinh phí di dời hai nhà máy.
Hoặc phương án để lại hai nhà máy thì phải chọn địa điểm các khu tái định cư để di dời, giải tỏa các hộ dân, khái toán kinh phí đầu tư các khu tái định cư.
ÔNG THƠ CŨNG YÊU CẦU HAI NHÀ MÁY NÀY CÓ TRÁCH NHIỆM, TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG VÀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ, NÂNG CẤP, ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT ĐỂ HẠN CHẾ ĐẾN MỨC THẤP NHẤT ẢNH HƯỞNG MÔI TRƯỜNG TRONG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT.
Đồng thời thường xuyên kiểm tra, bảo trì, bảo dưỡng không để xảy ra sự cố gây ảnh hưởng đến môi trường như thời gian qua.
Phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện các chính sách hỗ trợ cho người dân tại khu vực bị ảnh hưởng do hoạt động của hai nhà máy gây ra.
Với phương án cho nhà máy thép “tiếp tục hoạt động để thu hồi vốn” đang khiến người dân Hòa Liên phải quay trở lại cảnh “sống chung với ô nhiễm”.
Dư luận cũng đặt nghi vấn: liệu với cách giải quyết này thì lãnh đạo địa phương có đang “ưu ái cho người nhà”?
Bà Lệ Thị Danh (làng Vân Dương 2, Hòa Liên) phản ánh: “Mấy đêm vừa rồi (ngày 18 và 19/3), từ nhà máy thép phát ra những tiếng nổ lớn khiến cả làng giật mình, hoảng sợ. Không biết là tiếng nổ gì nhưng nó khiến nhà cửa rung chấn như động đất”.
Cũng theo bà Danh, từ khi có nhà máy thép (cách đây khoảng 10 năm) thì cuộc sống của người làng không khi nào yên ổn. “Họ xả ra mùi khói khét lẹt, mỗi lần có mưa thì nước thải chảy lênh láng ra khu dân cư” bà Danh bức xúc.
Di dời dân: thành phố phải chi ngân sách
Những ngày nay, nhiều người dân ở xã Hòa Liên càng thấp thỏm không yên vì chưa biết sẽ đi hay ở.
“Vừa rồi trong đợt họp dân, chính quyền thông báo sẽ giải tỏa các hộ dân quanh nhà máy. Theo đó, vệt 200 mét gần nhà máy là phải đi trước vào cuối quý 1/2017 nhưng đến giờ vẫn chưa thấy thông báo gì cụ thể” anh Phan Văn Minh (thôn Vân Dương 2, Hòa Liên) cho biết.
Một trường mầm non nằm sát ngay sau lưng nhà máy Dana-Ý vẫn chưa được giải tỏa. Ảnh: VS
Theo phản ánh của người dân địa phương, do có chủ trương giải tỏa nên việc xây dựng ở đây bị cấm.
“Chỉ cần xây dựng công trình gì mới hay sửa sang lại nhà cửa thì sẽ bị quy tắc đến xử lý ngay.
Nhà cửa xuống cấp cũng không được sửa mà đi thì chưa biết đến bao giờ” chị Lê Thị Huyền (xã Hòa Liên) cho hay.
Theo tìm hiểu, để giải tỏa hết các hộ dân chịu ảnh hưởng của hai nhà máy thép (gần 332 hộ dân) thì cần một khoản kinh phí khá lớn để phục vụ giải tỏa đền bù, bố trí tái định cư.
Tuy nhiên, trong một văn bản gửi lãnh đạo thành phố mới đây, Công ty cổ phần thép Dana-Ý cho rằng, do nguồn lực tài chính có hạn nên doanh nghiệp chỉ có đủ khả năng chi phí cho công tác giải tỏa đền bù.
Đồng thời, chưa có đủ nguồn lực và chương trình sử dụng diện tích đất sau khi giải tỏa phù hợp với quy hoạch thành phố.
Với lý do nói trên, doanh nghiệp đề nghị thành phố sử dụng ngân sách phục vụ cho công tác tái định cư và giao diện tích đất giải tỏa cho các đơn vị có nhu cầu.
Như vậy, nếu chọn phương án cho nhà máy thép tồn tại ở địa điểm cũ thì thành phố Đà Nẵng phải bỏ ngân sách để phục vụ tái định cư cho người dân.
Công ty cổ phần thép Dana-Ý là một trong những đơn vị tài trợ cho cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2015 và được Chủ tịch thành phố Đà Nẵng gửi thư cảm ơn.
Chính điều trên khiến cho có người nói rằng Chủ tịch Đà Nẵng tự ký văn bản ...cảm ơn mình, bởi Công ty này có vốn đầu tư của ông.
Trong một diễn biến có liên quan, về thông tin kê khai tài sản của mình, công khai thừa nhận trên báo chí, ông Huỳnh Đức Thơ cho biết mình có sở hữu căn nhà diện tích xây dựng 300m2, cùng 4 mảnh đất có diện tích từ 150m2 đến 1021m2 ở Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam; ông cũng mua cổ phiếu Công ty Dana-Ý 500 triệu đồng từ năm 2007.

Nghi vấn Chủ tịch Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ sở hữu tài sản lớn

Tác giả: Cao Nam
KD: Ôi trời, có đ/c quan chức nào nghèo đâu nhỉ? Nếu ông Huỳnh Đức Thơ bị nghi vấn thì cũng chỉ là đ/c bị lộ giữa các đ/c chưa bị lộ thôi
.Đ/c này là… nhóm của đ/c nào? 
————— 
– Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ được cho là sở hữu nhiều mảnh đất vàng ở Đà Nẵng, Quảng Nam và cổ phần doanh nghiệp.
Dư luận Đà Nẵng đang xôn xao trước thông tin ông Huỳnh Đức Thơ sở hữu nhiều tài sản khủng.
Theo nguồn tin VietNamNet có được, ông Thơ kê khai sở hữu nhiều tài sản, đất đai, công trình nhà ở và góp vốn vào doanh nghiệp.
Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ
Cụ thể, năm 2014 khi còn làm Phó chủ tịch Đà Nẵng, ông kê khai sở hữu căn nhà diện tích xây dựng 300m2, cùng 4 mảnh đất có diện tích từ 150m2 đến 1021m2 tại nhiều vị trí đẹp ở trung tâm Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. 
Ngoài ra, ông còn góp vốn 3ha đất trồng rừng và sở hữu 1,5ha đất nuôi tôm.
Chủ tịch Đà Nẵng cũng kê khai tài sản góp vốn ở 4 cơ sở sản xuất kinh doanh với giá trị kê khai 2.5 tỷ đồng (không ghi rõ là cơ sở sản xuất kinh doanh nào) và mua cổ phiếu công ty Dana_Ý 500 triệu đồng từ năm 2007.
Trao đổi với VietNamNet chiều nay, ông Huỳnh Đức Thơ khẳng định: “Việc kê khai là đúng quy định, trung thực. Nếu có gì không đúng thì có cơ quan chức năng kiểm tra”.
Qua điện thoại, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh cho hay ông cũng vừa mới nghe thông tin này. Do ông đang đi công tác tại Hà Nội nên chưa nắm được sự việc cụ thể. 
“Ngay sau khi kết thúc chuyến công tác, tôi sẽ tìm hiểu sự việc”, ông Xuân Anh nói.
Chiều nay, bà Lương Nguyệt Thu, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Đà Nẵng cũng cho biết đang đi công tác xa và chưa nắm thông tin sự việc.
Chủ tịch Đà Nẵng, các Phó chủ tịch cùng cán bộ, viên chức thành phố dùng bữa trưa toàn hải sản tại căng tin.
Chủ tịch Đà Nẵng “tố” cán bộ, công an thông đồng với “cát tặc”!
Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ chỉ rõ có sự thông đồng của cán bộ xã, phường, cơ quan, ban ngành, kể cả công an với “cát tặc” phá làng, phá xóm ở quận Liên Chiểu và huyện Hòa Vang.
Công bố email Chủ tịch Đà Nẵng
Đà Nẵng vừa chính thức công bố địa chỉ email ông Huỳnh Đức Thơ, Chủ tịch UBND TP.
Chủ tịch Đà Nẵng thăm người bán hoa tết dưới mưa
Biết người bán hoa gặp khó vì thời tiết, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Huỳnh Đức Thơ chỉ đạo TP hỗ trợ 50% phí thuê mặt bằng.
Phó chủ tịch Đà Nẵng làm Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy
Thành ủy Đà Nẵng đã điều động ông Đặng Việt Dũng, Phó chủ tịch UBND TP giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy.

Ở cuối hai con đường

Tác giả: Phạm Tín An Ninh (Vương quốc Na Uy)
KD: Bạn bè iu quí gửi cho câu chuyện này. Lần theo đường link, mới biết của một Blog. Một câu chuyện buồn nhưng thấm đẫm chất nhân văn. Chiến tranh, số phận con người, với những hoàn cảnh, những tình huống đan xen oái oăm. Chỉ có tính người, tình người ở lại. Cho dù khi đó họ ở hai con đường
Xin đăng lên Blog để bạn đọc chia sẻ
——————
Những năm “cải tạo” ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi “biên chế” xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ “đồng chí cán bộ quản giáo” đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: – Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi “báo cáo” môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản “lý lịch trích ngang”.
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ “tội” dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm – bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm – bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
– Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
– Thưa cán bộ, có tôi ạ.
– Anh ở trung đoàn mấy.
– Trung Đoàn 44.
– Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
– Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
– Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
– Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
– Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
– Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
– Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
– Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
– Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
– Tôi để một giỏ cá đàng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc dấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được ăn no -dù chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ “giao ban”, quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:
– Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:
– Lần bị thương năm 1972 ở KonTum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.
– Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? – một anh tù hỏi.
– Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị “hạ tầng công tác” ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: “ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn”. Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ – 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
– Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
– Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
– Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
– Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
– Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
– Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
– Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
– Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
– Ba cháu bây giờ làm gì?
– Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học. 
><><><><><><><><
“Các Anh thân quí,
Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: “Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại”. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.
Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.
Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.
Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.
Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian…”
* * * * *
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?

Chuyện về người phụ nữ đầu tiên bị bắn oan trong Cải cách ruộng đất

Tác giả: Xuân Ba (bản gốc)
Thư Xuân Ba: Kg các anh.
Vì nhiều lý do, bài về bà Nguyễn Thị Năm ( Cát Hanh Long ) đăng trên An Ninh Thế giới ( số 1349& 1350) ra ngày Thứ Tư và Thứ Bảy 15-3 không đủ đầy như bản thảo gốc của người viết.
Tôi biết ơn sự tận tình cố gắng của các anh Phạm Văn Miên TBT và Hồng Thanh Quang Phó TBT để hai bài báo trên đến tay bạn đọc.
Tôi xin gửi lại các anh đọc bản gốc và.mong được thông cảm
Chúc lành
Xuân Ba
——
Tôi ngập ngừng ngừng gõ lên cánh cửa một ngôi nhà ở đường Láng.
Ngập ngừng như động thái của người có lỗi.
Lỗi vì mình đã quá muộn? Lỗi vì sự lừng khừng chần chừ, dùng dắng?
Thực ra nhiều năm trước, có lần tôi đã tìm đến ngôi nhà 117 Hàng Bạc. Nhưng người chủ ngôi nhà cho biết người tôi cần tìm không có ở đây. Và không biết đã chuyển đi chỗ nào?
Những ngài ngại lẫn sờ sợ. Nỗi sợ vô cớ và bầy đàn ấy đã khiến dài mãi thêm những lừng khừng cùng dùng dắng…
Người tôi cần tìm là ông Nguyễn Hanh.
Ông là thành viên trong cụm danh từ Cát Hanh Long. Cụm từ ấy từng ám vào tâm trí không ít người của một thời một thuở?
Ông Nguyễn Hanh là con trai trưởng của bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long, người đàn bà đầu tiên bị bắn oan trong Cải cách ruộng đất (CCRĐ)
Nhưng lần này sau khi gặp được một người, tôi đã quyết dẹp đi sự dùng dắng đó. Người ấy là ông Lưu Văn Lợi thư ký riêng của ông Lê Đức Thọ
Dầu chấm dứt
thành dấu chấm lửng?
Bút tích của ông Lê Đức Thọ
Tôi đã quấy quả ông nhiều lần dịp mới đây, 40 năm Hiệp định Paris.
Ông như một phần, một mảng miếng của sử. Là thư ký riêng cho Cố vấn Lê Đức Thọ nhiều năm, không chỉ 4 năm 8 tháng 16 ngày, thời gian diễn ra cuộc hòa đàm Ba Lê.
May mắn nhà ngoại giao tuổi cao sức yếu ấy còn rất mẫn tiệp. Lần này trên bàn làm việc của ông là một tờ A4 Photocopy. Chữ của ông cố vấn Lê Đức Thọ
Thân mến tặng Công và Hanh để đánh dấu chấm dứt sự đau buồn kéo dài lâu năm của gia đình và cũng là của chung. Hà Nội ngày 28-1-1987
Chuyện của nhà ngoại giao kiêm thư ký của ông Lê Đức Thọ thoáng đưa tôi về những năm xa. Những Võ Nguyên Giáp Trường Chinh, Lê Đức Thọ Hoàng Quốc Việt cùng nhiều yếu nhân của Đáng của Mặt trận Việt Minh từng qua lại được chở che ở ngôi biệt thự bề thế ở ven hồ Thiền Quang. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, lại cũng những đáng bậc ấy cùng nhiều yếu nhân của Đảng của Chính phủ cũng nhiều dịp tá túc qua lại sinh hoạt ở khu đồn điền Đồng Bẩm vùng Thái Nguyên. Chủ những cơ ngơi những biệt thự cùng khu đồn điền ở Đồng Bẩm ấy là bà Nguyễn Thị Năm thường gọi là Cát Hanh Long, tên một hiệu buôn nổi tiếng ở Hà Thành, Hải Phòng.
Chuyện bà cùng chồng thuở hàn vi ăn chắt nhịn thèm lao tâm khổ tứ với khiếu kinh doanh cùng năng lực thương mại vượt trội đã gây dựng nên cả một cơ ngơi đồ sộ là cả một câu chuyện dài. Nội việc bà kinh doanh hai thứ hàng nặng nhất và nhẹ nhất khi ấy là tơ và sắt thép nổi tiếng ở Hà Thành và Hải Phòng cũng đã có lắm chuyện như là giai thoại? Người nữ nhi giàu tiền bộn bạc ấy lại sẵn tấm lòng son với đất nước. Thời gian trước năm 1945, những căn biệt thự của bà ở Hà Nội và Hải phòng là nơi đi về liên lạc của Việt Minh. Hai người con trai của bà Năm đã được giác ngộ được bí mật lên chiến khu.
Khó kể hết những đóng góp của nhà tư sản ấy cho cách mạng. Từng ủng hộ Việt Minh trước CM tháng Tám 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bẩy trăm lạng vàng) rồi sau này là thóc gạo, vải vóc, nhà cửa. Bà là một trong những người đóng góp tiêu biểu nhất của “Tuần Lễ Vàng” ở Hải Phòng vơi hơn một trăm lạng vàng.
Một sự kiện vô tiền khoáng hậu khi ấy đối với một nữ nhi thường tình là bà đã ngồi trên chiếc xe ô tô của nhà treo cờ đỏ sao vàng từ Hải Phòng lên thẳng chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền! Sau thời điểm kháng chiến toàn quốc, bà trao chiếc búa cho đội tự vệ phá hoại để làm cái việc san bằng địa khu biệt thự Đồng Bẩm thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến. Sau đó bà là chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh Thái Nguyên và khu đồn điền Đồng Bẩm từng nuôi ăn cho một trung đoàn vệ quốc quân trong một thời gian dài.
Tiếc thay, phát súng đầu tiên của CCRĐ lại nhằm vào một phụ nữ. Người đó là bà Nguyễn Thị Năm.
Bà bị bắt bị đấu tố với tội danh tư sản địa chủ cường hào gian ác
Rồi bị lôi ra pháp trường.
Sự kiện bi thảm ấy diễn ra vào lúc 8 giờ tối ngày 29 tháng Năm Âm lịch năm 1953. Khi bà vừa tuổi 47.
Một ngày mùa đông năm 1986, ông Lê Đức Thọ cho gọi Lưu Văn Lợi và dặn như thế như thế…
Như thế là việc ông cử người thơ ký của mình đến số nhà 117 Hàng Bạc. Con trai bà Cát Hanh Long ở đó.
Không phải một mình ông Nguyễn Hanh, con trai bà Năm. Cả gia đình 6 nhân khẩu chen chúc trong một diện tích chỉ hơn 20 mét vuông. Tận mắt chứng kiến bao thứ gian nan về nơi ở của thời bao cấp khốn khó, nhưng khi đến 117 Hàng Bạc ông Lợi vẫn không khỏi xót xa.
Ông có trách nhiệm báo cáo lại với vị Trưởng Ban Tổ chức TW những gì mắt thấy tai nghe về gia cảnh hiện thời của nhà Cát Hanh Long.
Ông Lê Đức Thọ nghe ông báo cáo rồi ngồi lặng đi hồi lâu. Bằng chất giọng rời rạc khẽ khàng, ông Thọ như đang chắp nối lại ký ức đã quá vãng. Ông Lợi biết động thái hơi hiếm hoi của thủ trưởng khi chia xẻ với người thư ký… Rằng chính Bác Hồ thời điểm đó đã thẳng thắn với các đồng chí cố vấn rằng người ta nói không nên đánh phụ nữ dù bằng một cành hoa huống hồ phát súng đầu tiên của cuộc CCRĐ lại nhằm vào một phụ nữ mà người ấy lại rất có công với cách mạng.
( nghe đến đây tôi chợt nhớ ngay cái câu nhất đội nhì giời. Nhưng có lẽ thời điểm ấy có thứ còn trên cả đội, trên cả cán bộ cải cách nữa?)
Ông Lê Đức Thọ lại thở dài với người thơ ký của mình rằng thời điểm CCRĐ đang hồi cao trào ngoài đó, ông đang ở miền Tây Nam Bộ. Một hôm ông được nối điện thoại với ngoài Bắc. Phải có việc chi hệ trọng lắm thì mới có sự liên lạc đặc biệt này? Đầu dây bên kia là ông Hồ Viết Thắng, một yếu nhân của CCRĐ. Hóa ra ông Thắng chỉ hỏi ông một câu. Mà câu ấy chả ăn nhập gì với hoàn cảnh hoạt động bí mật gian khó hiểm nguy ở căn cứ địa miền Nam khi ấy khiến ông Thọ rất bực. Câu ấy là bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long có cho đồng chí cái gì khi đồng chí ở nhà bà ấy không?
Qua câu ấy cùng khẩu khí của người hỏi, ông cũng mường tượng ra phần nào không khí và tình thế của một phong trào như CCRĐ! Nhưng không ngờ đến những hậu họa? Có phải vì thế mà ông Lợi có lúc thoáng nghĩ, ông Lê Đức Thọ, một trong những yếu nhân của cách mạng miền Nam đã không tiến hành CCRĐ đối với nông thôn miền Nam?
( Nghe chuyện ông Lợi, tôi chợt nhớ đến một văn bản. Đó là lời chứng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 10-11-2001: “Bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long là một địa chủ có tinh thần yêu nước, trong kháng chiến đã từng giúp đỡ bộ đội. Bản thân tôi và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có lúc đã ở lại nhà bà. Trong những buổi họp sửa sai, chính Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh và đồng chí Lê Văn Lương đều cho rằng xử trí bà Nguyễn Thị Năm là một sai lầm”.
Lu bu với công việc hết trong Nam rồi ngoài Bắc, quên thì không hẳn nhưng chưa có lúc nào rảnh để đụng đến việc oan sai này. Ông Lợi nhớ lời thủ trưởng mình đã phàn nàn như thế…
Ông Lê Đức Thọ viết một lá thư dán kín rồi đưa ông Lợi chuyển cho đồng chí Trường Chinh. Một lúc sau, thấy người thư ký của mình đưa lại thư với lý do là thư ký đồng chí Trường Chinh khi biết được nội dung thư đã từ chối việc đưa thẳng cho thủ trưởng của mình!
Ông Lê Đức Thọ cười… Rồi sau đó là động thái hơi bị hiếm, ông Thọ đi bộ sang chỗ đồng chí Trường Chinh…
Khoảng 30 phút sau, ông trở lại cười với người thư ký xong rồi… 
Một ngày áp Tết Đinh Mão năm 1987, ông Lợi tháp tùng thủ trưởng của mình đến 117 Hàng Bạc. Giữa những người thân của gia đình bà Cát Hanh Long, ông Lê Đức Thọ tặng quà Tết và tập thơ mới xuất bản của mình với lời đề tặng như bản photo trên đây…
Trong tay tôi là một văn bản của Ban tổ chức TW do Phó trưởng Ban Lê Huy Bảo ký thay Trưởng Ban Tổ chức. Văn bản số 213/TCTW. Hà Nội ngày 4-4-1987
Kính gửi Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Thái. Trước đây bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long bị quy thành phần “Tư sản địa chủ cường hào gian ác” bị xử tử ở Thái Nguyên. Nay con bà Năm là 2 ông Nguyễn Hanh và Nguyễn Công ở số nhà 117 Hàng Bạc hà Nội gửi thư lên các đồng chí Trường Chinh Lê Đức Thọ đề nghị sửa lại thành phần giai cấp và thực hiện đúng chính sách của Đảng Nhà nước đối với gia đình bà Nguyễn Thị Năm.
Sau khi xem xét thư khiếu nại và các tài liệu xác nhận đồng chí Trường Chinh và Lê Đức Thọ thấy việc sửa lại quy định thành phần giai cấp cho bà Nguyễn Thị Năm là tư sản, địa chủ kháng chiến” là đúng với thực tế đúng với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ban Tổ chức TW Đảng đề nghị Thường vụ Tỉnh ủy và các đồng chí có trách nhiệm thực hiện ý kiến trên của đồng chí Trường Chinh và Lê Đức Thọ.
Rất nhanh, UBND tỉnh Bắc Thái ngày 11-6-1987 có một Quyết định mang số 123/UBQĐ do ông Chủ tịch Đặng Quốc Tiến ký. QĐ ghi rõ Bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long trước bị quy thành phần “ Tư sản, địa chủ cường hào, gian ác” nay sửa lại Thành phần giai cấp cho bà Nguyễn thị Năm là “ Tư sản, địa chủ kháng chiến”
Việc sửa lại thành phần giai cấp có giá trị từ ngày có quyết định này.
Như vậy việc sửa lại thành phần giai cấp và thực hiện đúng chính sách của Đảng Nhà nước đối với gia đình bà Nguyễn Thị Năm theo chỉ đạo của ông Trường Chinh và Lê Đức Thọ cùng Ban Tổ chức TW mới được thực hiện một nửa!
Còn việc thực hiện đúng chính sách của đảng và Nhà nước đối với gia đình bà Nguyễn Thị năm, 26 năm đã qua vẫn còn để đó?
Dấu chấm hết vô tình thành dấu chấm… lửng?
Kỳ 2.
Tan tác một mái ấm
Ông Lưu Văn Lợi
Cánh cửa căn hộ ở đường Láng mở ra…
Trước khi đến đây trĩu trong tay là một tập giấy tờ. Tờ đầu tiên có những dòng
Hà Nội ngày 27-4-1998. Kính gửi ông Chủ tịch Quốc hội. Chúng tôi là con trai, con dâu của bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long tên là Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát tức Hoàng Công. ( Ông Hoàng Công đã mất do tai nạn năm 1989) và vợ ông Công là Đỗ Ngọc Diệp xin gửi đến ông Chủ tịch QH một việc khẩn. Trong nhiều năm qua gia đình chúng tôi đã có nhiều đơn thư gửi đến các cơ quan có trách nhiệm các cấp chính quyền từ xã trở lên đến Trung ương cùng Tổng Bí thư xin xem xét việc khen thưởng cho mẹ chúng tôi theo Nghị quyết 28 CP ngày 29-4-1995 ( Nghị quyết về ) Nhưng cho đến nay chưa được cấp nào trả lời…
Và bây giờ là 8-2013, ngoài lá đơn gửi ông chủ tịch QH là Nông Đức Mạnh năm 1998 ấy còn hơn 20 lá đơn khác gửi cùng nội dung đến các đời Thủ tướng, TBT, Chủ tịch QH từ năm 1995 đến nay vẫn vẫn chưa được cấp nào trả lời!
Tiếp tôi là chủ nhà, ông Nguyễn Hanh năm nay tròn 90 và vợ Phạm thị Cúc 86 tuổi. Bà Cúc ngó còn minh mẫn. Ông Hanh đi lại đã phải có người dìu. Sự tháo vát hiếu thảo của 3 người con của ông bà đã vượt thoát cho cả nhà bà cùng bố mẹ ra khỏi căn hộ chật chội tù túng ẩm ướt kế ngay nhà vệ sinh công cộng ở 117 Hàng Bạc.
Tôi xin phép được lên gác thắp hương cho cụ Nguyễn Thị Năm.
Nghiêm ngắn trên bàn thờ là bức chân dung hiếm hoi của cụ bà Nguyễn Thị Năm còn sót lại. Khắn vấn. Tóc đen nhưng nhức chải ngôi giữa. Nét mày và miệng thanh tú. Ảnh cụ bà chụp khi hơn 40 tuổi. Tướng những người phụ nữ có cung mệnh ích phu vượng tử. Cụ ông không may bạo bệnh mất sớm trước năm 1945. Một mình cụ bà những đảm lược thông minh tháo vát chèo chống đưa con thuyền cát Hanh Long qua bão tố thác gềnh. Qua bao tao loạn đổi thay của thời cuộc, trân trang thờ kia bà vẫn mãi mãi trẻ trung vẫn mãi mãi tỏa cái ánh nhìn sắc sảo bao dung xuống hậu thế!
Bên phải là tấm hình cụ ông ngó trẻ trung. Ban nãy đến nhà tôi mới rõ hết cái thương hiệu Cát Hanh Long nổi tiếng ở Bắc Kỳ. Cát, tên người con trai thứ hai, thời gian hoạt động bí mật có tên là Hoàng Công, từng là Trung đoàn trưởng thuộc Sư 308. Hanh, người con trai cả. Long là tên cụ ông quê gốc ở làng Đại Kim Thanh Trì Hà Nội.
Tuổi tác tật bệnh, có thể một lúc nào đó hơi lẫn như cụ bà phàn nàn nhưng khi nhắc đến những ngày tháng Tám năm 1945 là trí nhớ cụ ông thoắt như được ánh sáng diệu kỳ nào đó của quá khứ rọi soi? Cụ cứ vanh vách từng chi tiết buổi sáng ngày 25 tháng Tám năm 1945 đoàn xe của ông Trần Huy Liệu thay mặt cho Chính phủ lâm thời cùng đoàn xe của ông Nguyễn Lương Bằng đại diện cho Mặt trận Việt Minh cùng xuất phát từ Hà Nội có sứ mệnh vào Huế tiếp nhận sự đầu hàng của Bảo Đại. Chả là chàng trai Nguyễn Hanh khi đó mới 22 tuổi, được chọn trong đội hình Thanh niên thành Hoàng Diệu có vinh dự được tháp tùng Đoàn.
Ngày 30-8 Đoàn mới vào đến Huế. Đành một nhẽ đường xá thời đó xấu nhưng làm chi mất đến 5 ngày mới vô được Huế? Hóa ra cả phái đoàn phải liên tục dừng lại dọc đường ngày cũng như đêm để gặp gỡ nói chuyện với đồng bào chặn đón ủy lạo đoàn ở các địa phương dọc đường. Người ta khênh cả kiệu bát cống kiệu long đình bày hương án giăng cờ đại, cờ đuôi nheo chỉ dùng trong các dịp lễ trọng để chào mừng đại diện của Việt Minh.
Trong suốt cuộc gặp, tôi để ý có 2 việc mà cụ Hanh thường nhắc đi nhắc lại? Đó là chi tiết khi đưa tay đỡ cái ấn Hoàng đế chi bảo bằng vàng đúc do ông Trần Huy liệu đưa cho, anh tự vệ thành Hoàng Diệu Nguyễn Hanh cứ tưởng nó nhẹ nên đón lấy bằng động thái nhẹ nhàng làm suýt rơi ấn. Một vật nữa tượng trưng cho quyền lực Nam Triều là chiếc kiếm. Cũng tưởng nó nặng hóa ra nhẹ hều, bao kiếm đã rỗ rỉ nhiều chỗ!
Chi tiết thứ hai là cái túi đựng kim cương của mẹ mình, bà Nguyễn Thị Năm.
Cái túi ấy trước khi đám tự vệ cùng đội cải cách súng ống hùng hổ xông vào nhà điệu bà đi với tội danh tư sản địa chủ cường hào gian ác, bà Năm dường như đã tiên liệu được điều gì? Bà nhanh tay quẳng cho cô con dâu cái túi đựng những kim cương hột xoàn gì đó mà con dâu mà không rành chỉ biết nó khá nặng, trĩu cả tay!
Sau gần 3 tháng, ngày cũng như đêm liên miên đấu tố bà năm luôn bị cách lý vói gia đình nên không kịp biết chỉ mấy ngày sau khi bà bị bắt, trong một đợt khám xét săm soi hang cùng ngỏ hẽm khắp nhà cửa sân vườn, đội cải cách đã phát hiện ra cái túi kim cương ấy và ra lệnh tịch thu! Tịch thu nhưng không hề có biên bản, giấy biên nhận mà là thu trắng tài sản của nọn tư sản địa chủ cường hào gian ác. Cô con dâu điếng người. Bà con dâu khi ấy còn trẻ nhưng cũng đủ biết những vật trong cái túi gấm kia còn giá trị hơn cả vàng! Nhưng hình như cái thời ấy, cái đau mất người cùng những tan đàn xẻ nghé nó đau nó khủng khiếp hơn cái mất mát tài sản?
Thời điểm ấy, Nguyễn Hanh đang ở Nam Ninh Trung Quốc. Liên miên những tháng ngày hăng say tiếp thụ kiến thức rèn cán chỉnh quân để sau này về truyền thụ lại cho đơn vị bộ đội của mình.
Tin tức về một cuộc cải cách trời long đất lở cũng sang được bên đó nhưng tuyền một thông tin dân phấn khởi đang vùng lên đánh đổ địa chủ ác bá người cày có ruộng. Nguyễn Hanh không một chút mơ hồ nghi ngại… Một ngày tháng 6 năm 1953, Nguyễn Hanh được chỉ thị về nước có lệnh gấp. Chẳng cần phải khi cánh cổng trại cải tạo Tuyên Quang doang rộng và mình được điệu cổ vào, Nguyễn Hanh mới biết mình đang lâm nạn mà thái độ thù địch của những người dẫn anh đi khi qua biên giới đã báo trước cho Nguyễn Hanh những sự dữ. Những ánh mắt như tóe lửa khi hướng về phía anh. Cả những lời phũ phàng bật ra ở địa điểm đón đầu tiên Con cái bọn bóc lột cường hào ác bá…
Cái điều Nguyễn Hanh không ngờ không biết khi đó mẹ mình đã bị bắn. Cho mãi sau này, trong một đợt tiếp tế thăm nuôi, vợ anh mới hé cho tin ấy.
Cho mãi mùa đông năm 1956, trong căn lều tuềnh toàng giành cho con cái cường hào ác bá ở Đồng Bẩm, cách cái nền khu biệt thự từng dập vụn thời điểm tiêu thổ kháng chiến không xa. Và ngoài kia là ràn ràn tứ bề gió lạnh, Nguyễn Hanh thân hình còm nhom tật bệnh, qua câu chuyện ngập trong nước mắt của vợ, ông dần dà tường hết mọi việc xảy ra trong những ngày khốn khổ ấy. Chi tiết cái túi vợ ông có kể nhưng Nguyễn Hanh đã quên bẵng ngay sau đó.
Tinh mơ hôm sau, ông lựa lúc vắng người, theo hướng chỉ của vợ ông ra gục khóc trên mộ mẹ lúc này cỏ dại đã mọc dày nhưng không dám xới xáo gì.
Những năm cuối 50, khi những cuồng phong của những đợt CCRĐ đã bớt thôi gào thét, cả nhà ông, con trai con dâu và cháu nội của bà Cát Hanh Long mang cái án con cháu của kẻ tư sản cường hào gian ác bị cách mạng xử tử tìm đường về Hà Nội.
Nói về cũng chẳng phải… hay đi tiếp? Hà Nội hay Hải Phòng? Quê đâu? Nhà cửa đâu? May mà sau những ngày ra trại gặp đợt sửa sai, ông Hanh được bạn bè người quen giúp cho xin được một chân trong văn phòng Ty kiến trúc Thái Nguyên. Khi dạt về Hà Nội lại cũng được người quen xin vào làm ở một xí nghiệp dược phẩm. Bà vợ cũng may cũng xin được một chỗ làm dạy ở một trường tiểu học.
Cái đoạn khốn khó nhất là phải tìm lấy một chỗ ở. Trong lúc hoạn nạ nhiều bạn bè đã giang tay ra. Nhưng ở nhờ mãi sao tiện? Mất hơn 3 năm lúc ở nhờ lúc thuê cả nhà ông Hanh mới dạt vào một góc ở 117 Hàng Bạc.
Bên tôi là chị Phương con gái cả ông Hanh. Bà mẹ chị Phương dõi ánh mắt xót xa về phía con gái khi chị kể cái đoạn đói không sợ nhưng ngại nhất là những ánh mắt lúc khinh khi lúc soi mói của hàng xóm của bạn bè ngay trong lớp đôi lúc xì xào con nhà địa chủ ác bá…
Học phổ thông lên đến đại học Bách khoa cũng dần bớt đi sự tò mò thiếu thiện cảm. Tuổi trẻ mà. Nhưng khi tốt nghiệp, Phương mới thấy giật mình. Điều lo sợ mơ hồ của cô đã thành sự thực khi cô được phân về Tổng cục Thống kê. Ông cán bộ tổ chức ân cần trả lại hồ sơ cho cô và nói thẳng bên náy hơi ngại cái lý lịch cháu ạ.
Chờ đợi mãi, cô xin về Bộ vật tư theo lời giới thiệu của người quen. Đợi mãi không thấy gọi. Cô đánh liều đến thì thông tin mà cô nhận được cũng na ná như bên Thống kê.
Người quen của gia đình Phương lại thân với ông Bộ trưởng.
Thời điểm ấy, chưa có sự kiện cải thành phần từ gian ác cường hào xuống địa chủ kháng chiến. Nhưng ông Bộ trưởng hình như có kênh để liên lạc với một trong những yếu nhân từng qua lại gia đình bà Cát Hanh Long thời đen tối. Rồi cuối cùng, Phương cũng được nhận vào làm ở Bộ vật tư.
Chuyện của Nguyễn Tấn, em trai cô Phương cũng gian nan. Anh Tấn thi vào Đại học Quân sự nhưng không được gọi. Năm 1968 anh Tấn xung phong đi bộ đội. Rồi thỏa mãn cái chí học của mình bằng con đường tại chức Bách khoa. Tích cực phấn đấu mãi cũng không được kết nạp Đảng vì thành phần gia đình. Và phấn đấu mãi cũng không trở thành sĩ quan chuyên nghiệp. Nguyễn Tấn xin về hưu ở tuổi 50.
Một cụ già với những bước lẫm chẫm, thường phải có người dìu, trong câu chuyện nhiều lúc ông Nguyễn Hanh phải vỗ vỗ lên đầu chừng như để nhớ ra một điều gì đó mà với thời gian với những tao loạn cùng tật bệnh có khoảng khắc nào đó chìm khuất? Thuở mạnh bạo trẻ trung rồi trung niên, người ấy đã quên bẵng đi chuyện cái túi. Cái túi chứa những ngọc ngà châu báu . Cái túi của nhiều gia tài. Thế mà buổi xế chiều hoàng hôn, cái túi thốt trở nên rành rẽ trở nên băn khoăn lẫn đau đáu?
Chi tiết thứ hai mà ông Hanh thi thoảng nhắc đến chỉ sợ khách quên. Ấy là khi ông Hanh, nói mà như nhắc rằng không biết cái túi của cụ nhà tôi mà đội cải cách tịch thu ngày ấy có mang sung vào công quỹ hay là mang đi làm của riêng? 
Bàn thờ bà Nguyễn Thị Năm
Kỳ III.
Tìm mộ bà Nguyễn Thị Năm
Ông bà Nguyễn Hanh
Còn Nguyễn Cát, người con trai thứ thời điểm bà Năm bị thụ hình, đang ở đâu?
Cũng như ông anh, ông cát khi đó đang được học tập chỉnh huấn chỉnh cán bên Trung Quốc có điều không cùng nơi. Cũng phải, ông em hình như có chí tiến hơn người anh. Năm 1953 ấy đã là Trung đoàn trưởng của sư 308.
Hoàng Công là tên hồi Nguyễn Cát hoạt động bí mật.
Trong tay tôi có nhiều bản chứng của nhiều cán bộ cao cấp. Trong đó có ông Đào An Thái, nguyên Cục trưởng Cục Lưu trữ. Ông Hoàng Thế Thiện, nguyên Bí thư Đảng ủy chuyên gia giúp bạn K trực thuộc Trung ương. Ông Nhi Quý nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên.
Xin biên ra ra một đoạn.
Anh Nguyễn Cát (tức Công) đã được chúng tôi tổ chức vào một trong những nhóm Thanh niên cứu quốc hoạt động bí mật ở thị xã Thái Nguyên trước Tổng khởi nghĩa.
Tháng 5 năm 1945 anh Cát đưa lên chiến khu 20 ngàn bạc Đông Dương ( thời giá khi đó tương đương 700 lạng vàng) tiền của gia đình anh ủng hộ đoàn thể. Tôi đã nhận tiền và giao lại cho Ban cán sự Võ Nhai.
Anh Cát thường xuyên cung cấp cho chiến khu thuốc chữa bệnh máy đánh chữ, giấy mực, và nhiều thứ khác khi chiến khu yêu cầu. Anh cát tích cực thực hiện những chỉ thị của Ban cán sự. Sau CM anh Cát được giao công tác ở Ty Tuyên truyền tỉnh. Sau đó được rèn luyện thử thách trong bộ đội. Tham gia nhiều trận đánh và đã bị thương. Qua nhiều gian khó thử thách vẫn trung thành tận tụy với cách mạng.
Cũng như ông anh, từ Trung Quốc, Trung đoàn trưởng Nguyễn Cát bị dẫn ngay về nước và vào thẳng trại một trại cải tạo Thái Nguyên.
Mãi cuối năm 1956, ông mới được tha. Sau sửa sai, ông được chuyển ngành sang Ty Thương nghiệp rồi sau đó gia đình ông về Hà Nội.
Trong thời gian Nguyễn Cát bị giam, vợ ông Cát, bà Đỗ Ngọc Diệp vốn là cán bộ bí mật hoạt động từ năm 1944 khi ấy may mà đang hoạt động trong vòng địch hậu Bắc Ninh nên vô tình bà thoát không bị bắt và đấu tố. Nhưng không thoát được sự động viên của tổ chức rằng cô còn trẻ đang có tương lai nên cắt đứt với con cái địa chủ cường hào ác bá.
Cán bộ địch hậu Đỗ Ngọc Diệp không chịu. Lần hồi cũng đến thời điểm sửa sai. Hai vợ chồng lại đoàn tụ. Họ cưới nhau năm 1952. Mãi năm 1958 mới sinh con gái đầu lòng. mẹ Ngọc Diệp con là Kim Chi. Cành vàng lá ngọc.
Năm 1989, ông Nguyễn Cát đương khỏe mạnh ở tuổi 64 đi xe máy, bất đồ bị một thằng vô lại quành xe trước mũi xe ông Cát. Ông bị ngã đập đầu xuống và qua đời luôn tại bệnh viện.
Trước đó, ông Cát cùng vợ, gia đình ông anh đã lao tâm khổ tứ trong việc tìm mộ bà Năm.
Thời gian cùng thiên nhiên nhiệt đới như cũng hợp sức với sự vô tình vô tâm của con người trong việc làm nên sự quên lãng? Những bấn bíu nhọc nhằn trong sinh kế cùng bao thứ vụn vặt lo toan nhoáng cái đã nhiều năm qua đi. Cả nhà ông Hanh ông Cát lần ấy lên Đồng Bẩm thăm mộ mẹ đã hoảng hốt nhận ra khu vực ngày trước nơi chôn cất bà Nam địa hình địa vật đã thay đổi không còn nhận ra. Cây cối mọc đầy um tùm…
Không bó tay, ông Cát cùng người nhà ra sức cày nát đám đất hoang nhưng vẫn không thấy dấu hiệu gì.
Không nản, lần khác họ lại lên Đồng Bẩm. Tha thẩn dọc khu vực rìa sân bay Đồng Bẩm ( trước CM Pháp cho xây dựng một sân bay dã chiến bị bỏ hoang nhiều năm) nơi được xác định chôn cất bà Năm. Lần này lòng tin của đám người tìm mộ dường như được củng cố thêm vì có một ông tự vệ hồi 1953 đã tham gia chôn cất bà Năm trong đêm. Nhưng lại nhiều lần đào xới mà vẫn không có kết quả.
Gần đó có một đơn vị bộ đội đóng quân. Thấy người nhà ông Hanh xuất hiện ở đây mấy lần, một chú bộ đội chuyện nhỏ với các bà các cô rằng, nếu đi tìm mộ thì chắc cũng quanh đây thôi. Ngày trước đơn vị của chú đã dựng ở khu vực này một căn nhà ở. Nhưng kỳ lạ là tiểu đội nào đến ở một thời gian cũng tìm cách thoái thác. Họ viện cớ khó ngủ cứ sờ sợ thế nào? Có người còn quả quyết đương đêm giường cứ như bị dựng dậy?!
Rồi căn nhà dựng tranh tre nứa lá ấy cũng được tháo ra, dựng ở một nơi khác! Sự lạ ấy đã không xảy ra nữa.
Nghe vậy thì biết vậy, trên nền nhà cũ nhìn vầng khói hương vút thẳng, ông Hanh thầm khấn nếu mẹ có linh thiêng xin chỉ chỗ cho chúng con. Nhược bằng chúng con xin lấy một nắm đất ở khu Đồng Bẩm này đem về quê bố dựng tạm một ngôi mộ vậy…
Chiều người anh. Nhưng vợ chồng ông Cát vẫn quyết tìm mộ mẹ. Ông bà đã đến tìm gặp một số nhà ngoại cảm.
Một điều ngạc nhiên đã xảy ra. Khi ông bà dứt khoát khẳng định với một số nhà ngoại cảm được coi là nổi tiếng khi ấy rằng đặc điểm dễ nhận ra là bà Năm có đeo một chiếc vòng cẩm thạch và một cái răng bịt vàng thì họ đều từ chối là không thể tìm được?!
Chắc họ ngại nhỡ đào lên mà không tìm thấy hai thứ ấy thì…
Nghiên cứu sơ đồ của một nhà ngoại cảm L. vẽ, ông Cát thấy rất đúng cứ như nhà ngoại cảm ấy đang đứng ở chính ở khu vực này mà họa lại. Nhưng tìm vẫn không thấy?
Rồi đột ngột tai nạn thương tâm với ông Cát diễn ra.
Một thời gian sau nguôi ngoai, bà Diệp lại cùng gia đình người anh chồng tiếp tục việc tìm mộ.
Lần này nhà ngoại cảm ở một thành phố phía Nam có một sơ đồ trùng khít với nhà ngoại cảm L. dạo nọ. Còn nói thêm nên tiếp tục cộng tác với ông L.
Thêm một chi tiết nữa, trong khu vực ấy nên để ý đến một loại cây lá nhỏ nhất…
Mùa đông năm 1990, bà Diệp các con và gia đình ông Hanh lại lên Đồng Bẩm theo hướng dẫn bằng điện thoại của nhà ngoại cảm.
Quan sát thật kỹ, tốp người tìm mộ thấy thứ cây lá nhỏ cả khu vực này chỉ có một cây phượng? Lại nữa, vị trí cây phượng lại rất gần cái nhà ở của đơn vị bộ đội đã tháo dỡ.
Đêm xuống, những lát cuốc xẻng lại cần mẫn hối hả trong ánh sáng điện câu nhờ được dong từ xa…
Thời gian đã âm thầm bồi lắng lên lớp đất cũ nhiều lớp đất màu. Hết lớp đất mượn ấy, bất đồ một cậu giúp việc đang đào chân bỗng như hút xuống. Câu kêu lên thảng thốt Cụ ơi cụ đừng rút chân cháu …
Một cảnh tượng cảm động lộ dần trong âm thanh thút thít nức nở của con cháu bà Năm….
Từng ấy năm rồi còn gì. Không còn ván chỉ còn lại mấy cái đinh đóng quan tài.
Xương cốt hao đi nhiều quá. May mà hoa cái ( đầu) vẫn còn. Và chiếc vòng ngọc thạch vẫn còn kia. Sau gần nửa thế kỷ chôn vùi vẫn ánh lên lấp lánh.
Bà Cúc vợ ông Hanh cho hay sở dĩ chiếc vòng ấy còn vì bà Năm đeo từ hồi trẻ nó thít chặt vào cườm tay. Khi đấu tố có người đã cố rút ra nhưng không được!
Cả chiếc răng bịt vàng.
Và ngạc nhiên có cả hai đầu đạn!
Sau thủ tục lễ tạ và cảm ơn chính quyền địa phương cùng mấy nhà quanh đó, chiếc xe chở bà Cát Hanh Long quay về Hà Nội khi trời chưa sáng tỏ.
Cụ bà được nằm bên cạnh mộ cụ ông ở quê chồng là làng Đại Kim Thanh Trì. Sau hơn nửa thế kỷ, hai người mới được gần nhau sau bao nhiêu tao loạn.
Tôi theo người cháu gái bà Năm tiếp thêm tuần hương. Ngước lên làn khói hương trên bàn thờ Người Mẹ chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn Ân nhân của Cách mạng, ánh mắt bà Năm vẫn ánh lên cái nhìn ấm áp bao dung…
Không biết anh linh của bà phù hộ hay chỉ thị của ông Trường Chinh Lê Đức Thọ linh mà sau 6 năm, năm 1998 ông Nguyễn Hanh và ông Nguyễn Cát hai con trai của bà Năm đã được công nhận là cán bộ hoạt đông lâu năm, cán bộ tiền khởi nghĩa. Còn người con dâu Đỗ Thị Diệp, sớm hơn năm 1980 đã được xác nhận danh hiệu cán bộ hoạt động lâu năm.
Riêng Cụ Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long thì vẫn… đợi ?
Trên cao xanh kia, cụ bà đã mỉm cười nơi chín suối được chưa khi mới có động thái duy nhất của chính thể là hạ thành phần cho cụ từ tư sản địa chủ cường hào gian ác xuống tư sản địa chủ kháng chiến!
Chính vì thế hằng bao năm nay, ông Nguyễn Hanh cùng bà Diệp vẫn đứng đơn đề nghị các cá nhân và cơ quan có trách nhiệm thực hiện cho trọn vẹn Nghị định số 28/CP của Chính phủ ban hành ngày 29-4-1995. Đó là một nghị định nhân văn như tên gọi của nó
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng
Mà vận dụng cụ thể vào trường hợp cụ cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm theo đề nghị của gia đình ông Hanh nhiều năm nay là nên xét thưởng Huân chương kháng chiến chống Pháp và truy tặng danh hiệu Liệt sĩ!
Người con trai còn lại duy nhất của bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long năm nay tròn 90 có lẽ vẫn tiếp tục đợi?

Trang