3 tháng 9, 2018

Hầu chuyện Trần Xuân Bách

TÁC GIẢ: THEO FB VÀ BLOG PHAN BA.
Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà nó vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt (theo Blog Phan Ba)
KD: Bạn bè trên FB mách cho mình bài viết này. Trần Xuân Bách- một nhân vật lịch sử mà rồi đây, chắc chắn hậu thế sẽ phải đánh giá lại. “Những gì của César sẽ phải trả lại cho César”. Mình luôn kính trọng trí tuệ mẫn tiệp, nhìn trước thời đại, và nhân cách khảng khái, chấp nhận “mất hết” để bảo vệ nhận thức mà ông cho là đúng.
Tuy nhiên, do những lý do tế nhị, bài viết này mình cũng không đưa lên FB

————–
Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn ra, vừa đến trụ sở báo Lao Động (51 Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm Thị Châu, trưởng phòng hành chính đến gặp. Cô trao tấm danh thiếp của anh Trần Xuân Bách gửi cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi vào, nói “tôi xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về Sài Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm Văn Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ?” Bác ấy mở cặp lấy danh thiếp đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm tôi nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”.
Từ lâu tôi đã được ba người bạn có dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh khi còn làm báo quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần anh ở ban Dân vận Trung ương và anh Đinh Gia Bảy ủy viên Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam từng làm việc dưới quyền của anh Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể nhiều chuyện về anh Bách, “một người tài đức song toàn”. Tôi cũng được đọc nhiều bài viết của anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (Khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách đến tìm là điều quan trọng.
Xin nhắc lại một kết luận của Nghị quyết trung ương 7:
Về tình hình thế giới:
Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng ở một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội đang đứng trước thách thức lớn. Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội, bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt: Răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa.
Tình hình trong nước:
Những khó khăn về kinh tế và xã hội đã và đang bắt đầu xuất hiện ở nước ta, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: các lực lượng bên ngoài đang tập trung đả kích, xuyên tạc Đảng ta không mạnh dạn cải cách chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình.
Trong bốn khuyết điểm dẫn đến tình hình trên, có:”Buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói sai trái.
Nghị quyết nhấn mạnh những nguyên tắc của chính sách: Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị.
Như vậy, anh Trần Xuân Bách đang là nhân vật có “vấn đề”!
Sau khi cô Châu rời khỏi phòng, tôi gọi điện ngay cho anh Trần Xuân Bách. Giọng anh rất vui: “Bảy giờ tối, tôi đợi anh nhé”. Tôi đáp: “Tôi muốn cùng anh Phạm Văn Nhàn phó tổng biên tập đến thăm anh?” Anh Bách rất vui vẻ: “Ồ, càng nhiều anh em càng vui”.
Tôi không muốn một mình đến anh Bách vì đã có kinh nghiệm qua việc nhà văn Nguyên Ngọc gửi bài cho báo, tôi chưa đọc, nhưng cơ quan an ninh đã cử cán bộ đến yêu cầu được đọc trước! Tôi kể chuyện này với phó tổng biên tập Phạm Văn Nhàn (hiện nay, anh Nhàn ở khu nhà tập thể báo Lao Động, quận Cầu Giấy). Anh Nhàn nói: “Anh ấy bảo càng nhiều anh em càng vui, vậy ta rủ thêm Lưu Văn Hân, vì Hân quen thân với bên vợ anh Bách”. Tôi gọi điện rủ, anh Hân rất vui vẻ nhận lời (anh Lưu Văn Hân lúc ấy là Vụ trưởng Vụ báo chí, Bộ Văn hóa Thông tin, anh Trần Hoàn là bộ trưởng).
Ba chúng tôi đến biệt thự của anh Bách trên đường Phan Đình Phùng bằng chiếc u-oat của báo Lao Động do tài xế cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiến lái. Có vài người mặc thường phục đứng trên vỉa hè dòm ngó. Tôi bảo với người bảo vệ là chúng tôi được anh Bách hẹn. Anh bảo về gọi điện thoại vào nhà xin ý kiến. Tôi cứ tưởng anh Bách sẽ cho người giúp việc ra đón chúng tôi, không ngờ anh đích thân chạy ra cổng. Tôi nói “chúng tôi đến quá một người!” Anh Bách cười vui “cảm ơn các anh, tôi rất vui!” Anh đưa chúng tôi lên lầu. Chị Bách chờ sẵn, mời chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn kê sát tường. Chị pha cà phê, gọt táo và cùng ngồi với chồng tiếp khách. Thấy bên cạnh tấm lịch treo tường có kẹp bài thơ, ký tên Bách Xuân, tôi hỏi đùa: “Muốn xin anh bài thơ này đăng trang văn nghệ của báo?” Anh nhìn chị, cười đáp: “Thơ mình chỉ dành riêng cho một bạn đọc này thôi”. Có lẽ, chị Bách nghĩ rằng mấy ông khách thấy chị quá trẻ so với anh, nên đã vui vẻ kể: “Hồi em mới lấy anh ấy, các bạn cứ trêu, sau lấy ông chồng quá đát vậy? Em trả lời, nhưng tâm hồn anh ấy rất trẻ!” Sao mấy chuyện vui, tôi kể cho anh Bách nghe về lớp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 7 của cán bộ cốt cán toàn quốc trước đây hơn một tuần. Anh Bách nghe rất chăm chú.
Lớp nghiên cứu này do ông Đào Duy Tùng ủy viên Bộ Chính trị phụ trách khối tư tưởng văn hóa thuyết trình. Ông nghe phản ánh ý kiến học viên ở các tổ thảo luận, tổng kết đợt học và giải đáp thắc mắc. Sau khi nghe ông Tùng giảng ở hội trường, ban tổ chức lớp học chia học viên theo ngành công tác vào các tổ thảo luận. Tôi dự thảo luận ở tổ báo chí, gồm các tổng biên tập, báo chí, đài, nhà xuất bản ở trung ương (có lẽ các tổ viên ngày ấy chỉ mỗi nhà thơ Hữu Thỉnh còn có mặt trong nguồn máy hiện hành). Tổ trưởng hướng dẫn thảo luận là anh Thái Linh, phó trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (đến Đại hội 7, anh Thái Ninh là trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, anh Hữu Thọ phó trưởng ban thường trực). Khi thảo luận câu hỏi “Vì sao Đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị”, anh Bùi Tín, phó tổng biên tập Báo Nhân Dân xin phát biểu. Bùi Tín cho biết, anh rất lúng túng khi bị nhiều đồng chí đảng viên các đảng bạn ở Phương Tây hỏi vì sao đảng Cộng sản Việt Nam lại không chấp nhận đa nguyên. Theo Bùi Tín, bản chất cuộc sống là đa nguyên, thực tế Việt Nam cũng đang có những yêu tố đa nguyên: bên cạnh đảng Cộng sản có đảng Dân Chủ, đảng Xã Hội; Mặt trận Tổ quốc gồm có nhiều tổ chức Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ… mỗi giới có tờ báo nói tiếng nói của mình. Phải đa nguyên mới thực sự dân chủ. Anh Bùi Tín nói hơn 30 phút. Cả tổ im lặng lắng nghe. Tổ trưởng Thái Ninh ghi ghi chép chép, không tỏ ra sốt ruột. Không ngờ hôm sau, khi tổng kết và trả lời thắc mắc, ông Đào Duy Tùng đã gay gắt phê phán: “Thật đáng chê trách, tại hội nghị này, gồm những cán bộ tuyên huấn cốt cán của Đảng, lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ đa nguyên chính trị! Đồng chí đó không biết rằng, đa nguyên là luận điệu mị dân của các chính trị gia tư sản? Bọn chúng gồm những tập đoàn tài phiệt, cần có đa nguyên để cạnh tranh với nhau. Giai cấp công nhân có sứ mệnh độc quyền lãnh đạo cách mạng, chỉ cần liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cách mạng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện tập trung dân chủ, phải chống đa nguyên. Hôm nay đòi đa nguyên, rồi ngày mai sẽ đòi đa đảng, phải không?”
Anh Bách trầm ngâm, rồi nói: “chúng ta đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chính trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”. Anh hỏi thêm về Bùi Tín, nhưng tôi chỉ gặp anh Bùi Tín hai lần mà cả hai lần đều cùng là khách được mời ăn cơm. Lần đầu tháng năm 1975, ở Sài Gòn anh Phước Sanh cán bộ báo Quân đội Nhân dân mời dự bữa cơm có sếp của anh là phó tổng biên tập Bùi Tín; lần thứ hai ở Hà Nội, nhà thơ Hải Như mời Bùi Tín, bác sĩ Vân B và tôi, chỉ ít lâu trước khi anh Bùi Tín Đi họp báo nhân đạo và ở lại Pháp. Lúc ông Đào Duy Tùng chì chiết anh Bùi Tín, tôi ngồi ở hàng ghế ngay sau lưng anh.
Hơn 10 giờ khuya, anh Bách tiễn chúng tôi ra tận cổng. Trước khi chia tay, tôi đề nghị: bất cứ lúc nào, anh rảnh, tôi xin mời anh đến nơi tôi ở, số 14 Trần Bình Trọng, đối diện với Bộ Công an. Tôi muốn được anh giải đáp cho một số câu hỏi. Và tôi gợi ý: Anh nên cho dừng xe ở Nguyễn Du, rồi đi bộ vào cổng, tôi sẽ đón bên trong. Kể ra cũng buồn cười, đón ông ủy viên Bộ Chính trị mà phải lén lút như quan hệ với kẻ gian! Hồi đó, tôi vẫn nghĩ nơi ở của mình kín đáo lắm, nên đã từng tiếp đón nhiều bạn bè có lý lịch mà phía an ninh coi là không được trong sáng như Nguyễn Kiến Giang, Lê Đạt, Dương Tường, Phạm Thị Hoài… mãi sau này, tôi mới biết là mọi việc xảy ra ở báo Lao Động đều có trong hồ sơ của cơ quan an ninh! Biết đâu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không phải là ngoại lệ!
Chỉ vài hôm sau, anh Bách hẹn đến, từ hôm đó tôi may mắn được hầu chuyện anh. Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà nó vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt.
Hỏi: Tháng 6 năm 1988, Nghị quyết Trung ương 5 cho rằng khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nghị quyết cho rằng “mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật”, và phải “chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”. Đến tháng ba năm 1989, Nghị quyết Trung ương 6 nhắc lại phải “mở rộng dân chủ, dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật”. Tháng tám năm 1989, Nghị quyết Trung ương 7 kết luận: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”.
Những kết luận nói trên, cho thấy “dân chủ” như một khái niệm rất mơ hồ, có thể thu hẹp lại, hoặc mở rộng ra. Nhưng mở rộng ra thì phải kèm với “tập trung”, với “kỷ luật”, nếu không thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, hoặc bị bọn phản động có “mưu đồ lợi dụng dân chủ, công khai, chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân?”
Đáp: Dân chủ không hề có chỗ cho thứ tự vô chính phủ nảy nở. Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu tuyên ngôn độc lập nước ta, đã nhắc lại tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, nói đến các quyền tự do của con người mà tạo hóa cho họ. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do ấy. Cho nên dân chủ là quyền lực của dân, với tư cách là con người tự do. Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn bạn ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng, thấy bất tiện thì thu hẹp.
Đại hội 6 kết luận lấy “dân làm gốc”. Dân chủ sẽ khởi động trí tuệ toàn dân tộc, “gốc” sẽ ngày càng vững mạnh, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm. Chế độ dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng, bè phái. Chỉ có chế độ độc đoán, quan liêu, khép kín mới là rất tốt cho những kẻ xấu làm dụng quyền lực làm những điều phi pháp.
Hỏi: Chế độ dân chủ như vừa miêu tả ở trên có trái với “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà Nghị quyết Trung ương 7 kêu gọi xây dựng và phát huy?
Đáp: Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.
Chúng ta đã đổi mới kinh tế, thực hiện sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường. Đã đến lúc phải đổi mới chính trị, dân chủ hóa xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Marx và Engels đã đề ra trong tuyên ngôn Cộng sản: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Không đổi mới chính trị nhịp nhàng với đổi mới kinh tế thì đến một lúc nào đó sự phát triển kinh tế cũng sẽ bị chựng lại, bởi những rào cản quan liêu, tham nhũng, hạn chế sáng kiến. Đổi mới kinh tế là thực hiện đa nguyên kinh tế, kinh tế nhiều thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng, mỗi giai tầng có quyền lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị. Đổi mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của ấy”. (Lời tựa cho tuyên ngôn của đảng Cộng sản bản tiếng Đức, 28-6-1883).
Từ một xã hội khép kín, một quốc gia đóng cửa, chúng ta khởi xướng đổi mới, mở cửa, làm bạn với tất cả các nước. Vậy thì trong nước cũng phải là một xã hội mở, chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhiều tiếng nói có quan điểm khác biệt đối thoại, thương thảo, quyết định thuộc về đa số, nhưng thiểu số được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người và quyền công dân theo hiến pháp, không được ban hành luật lệ vi hiến để hạn chế các quyền ấy. Đảng lãnh đạo, cầm quyền, nhưng quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, đảng phải nằm trong chứ không nằm ngoài và không được đứng trên xã hội.
Hỏi: Chúng ta có sợ đa nguyên chính trị sẽ làm suy yếu đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng là mất quyền lãnh đạo? Bởi vì chấp nhận đa nguyên chính trị thì phải thực hiện các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, từ đó xuất hiện đảng đối lập có cương lĩnh cạnh tranh với đảng Cộng sản?
Đáp: Đó chính là sự ngộ nhận của những ai có thói quen độc quyền chân lý, theo chủ nghĩa giáo điều. Xu thế thời đại là tự do, dân chủ. Cách mạng khoa học kĩ thuật, bùng nổ thông tin, giao lưu quốc tế làm cho xu thế đó chuyển động rất nhanh chóng và có tính dây chuyền. Không ai có thể bưng bít thông tin, ngoảnh mặt trước đòi hỏi của nhân dân, ngăn chặn sự vận động tất yếu của cuộc sống. Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên kia đã nói, đang nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội, có nghĩa là thế nào? Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải tự đổi mới mình, phải trở thành đảng dân tộc, kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại. Đảng phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ Bộ Chính trị trở đi.
Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà nước, không duy trì chế độ đảng trị, toàn trị. Nhà nước là công cụ của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho nhà nước vững mạnh mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước.
Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Trong hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels cho rằng “hình thức thương mại, bởi lực lượng sản xuất đang có quyết định ở một giai đoạn lịch sử và trở lại quyết định lực lượng sản xuất, đó là xã hội dân sự” và “xã hội dân sự bao gồm toàn bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất”. Hai ông cho rằng, xã hội dân sự tồn tại ở mọi thời đại với tư cách tổ chức xã hội trực tiếp bắt nguồn từ sản xuất và thương mại, đồng thời tạo thành nền tảng của nhà nước và mọi kiến trúc thượng tầng tinh thần khác. Các chế độ độc tài, phát xít Hitler, Mussolini thực hiện chế độ toàn trị xóa bỏ xã hội dân sự đã bị thất bại. Mô hình xô viết Stalin cũng xóa bỏ xã hội dân sự là nguyên nhân đưa tới quan liêu hóa, khủng hoảng xã hội. Tình trạng đó chúng ta phải khắc phục. Nhiều năm qua các đoàn thể quần chúng đều bị chính trị hóa, hành chính hóa, không đại diện quyền lợi cho đoàn viên, hội viên, hạn chế sáng kiến của họ, quan trọng hơn là chỉ tiêu sự góp ý thẳng thắn của họ đối với đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực hiện quyền tự do lập các hội, đoàn, các câu lạc bộ, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái, tự trang trải về tài chính, đó chẳng những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng mà còn khôi phục xã hội dân sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, làm lành mạnh kinh tế thị trường.
Trong môi trường dân chủ, thượng tôn pháp luật, đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện để phát triển lành mạnh. Đảng Cộng sản Việt Nam có một quá trình lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khởi xướng đổi mới, nay lại mạnh mẽ tự đổi mới mình để trở thành đảng của dân tộc, không dùng quyền lực thay cho năng lực, trí tuệ. Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc. Liệu có đảng đối lập nào đưa ra cương lĩnh trái với lợi ích dân tộc mà giành được lòng dân đối với đảng Cộng sản? Chỉ có làm ngược lại, không chịu đổi mới chính trị, cố giữ thể chế độc quyền, trong khi xã hội đã chuyển sang đa nguyên về kinh tế, đa nguyên thành phần xã hội, tài nguyên tư tưởng, văn hóa thì như vậy không khác nào đặt bản trong tình thế của một cây cổ thụ đứng đơn độc trước bão tố!
Hỏi: Có nên duy trì các chỉ đạo báo chí của Ban Tư tưởng Văn hóa trung ương như hiện nay? Thực dân Pháp đã từng chấp nhận quyền tự do báo chí đối với nhân dân nước Việt Nam thuộc địa. Chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có hai lần thực hiện tự do báo chí, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám cho đến toàn quốc kháng chiến, lần thứ hai sau 30 tháng tư 1975 với báo tư nhân Tin Sáng cho đến tháng 6 năm 1981. Cả hai lần ấy, báo chí tư nhân đều có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đổi mới chính trị, phải chăng đã đến lúc chuyển tự do báo chí tự quyền “tự do của tập thể” sang “quyền tự do của mỗi người” như Marx, Engels nói, như Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi? Trong sách “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi gọi báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế thì văn học như chúng ta đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền lập ra”. Tại sao chúng ta không thực hiện ước nguyện của Hồ Chí Minh từ năm 1919 về quyền tự do báo chí trong bản yêu sách gửi hội nghị Hòa Bình Versailles?
Đáp: Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do ngôn luận: mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Công ước đòi hỏi các quốc gia thành viên cam kết không hạn chế hoặc hủy bỏ những quyền tự do tính phổ biến của nhân loại đã được quy định ở đây. Nhà nước ta sẽ phải sớm sửa đổi luật báo chí, luật lập hội, thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội như các quốc gia dân chủ trên thế giới.
Cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách có bài phát biểu “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?” Nội dung bài ấy tương tự những điều anh trả lời trên đây. Nhiều người cho rằng anh Trần Xuân Bách chưa bao giờ nói đến “đa đảng”. Thật ra chấp nhận đa nguyên chính trị tức là chấp nhận sự có mặt của các tầng lớp, các nhóm có lợi ích khác nhau, có quan điểm chính trị khác nhau, cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh. Chấp nhận đa nguyên chính trị tức là đã chấp nhận đa đảng sẽ diễn ra ngày sau đó.
Dịp tết 1990, vài tháng trước khi bị kỷ luật ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, anh Trần Xuân Bách có sáng tác bài thơ sau đây.
Bài thơ khai bút 1990
Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương,
Cố nhân chính trực, đồng hương nghĩa tình.
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói dân.
Lấy dân làm gốc phải nghe dân.
Trí khôn thiên hạ không hề thiếu.
Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần.
Nhà thơ Hải Như đề nghị thay chữ “mình” cho chữ “người” ở câu cuối. Anh Bách tiếp thu nhưng bảo, lấy làm tiếc vì đã phổ biến cho nhiều bạn bè.
Chiều thứ 5, ngày 22 tháng 3 năm 1990, anh Bách gọi điện bảo tôi, 7 giờ tối đến nhà anh, có chuyện rất cần biết. Cả ba anh em, Lưu Văn Hân, Phạm Văn Nhàn và tôi cùng đến. Trên lề đường trước nhà anh có nhiều người mặc thường phục đứng trên vỉa hè săm soi số xe. Anh Bách vẫn ra tận cổng đón chúng tôi. Chị Thịnh vẫn vui vẻ pha cà phê, gọt táo mời bạn bè. Anh Bách kể chuyện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khai mạc từ ngày 12-3. Anh đã bị phê phán rất dữ dội. Anh cho rằng, mình chắc chắn sẽ bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, thậm chí có ý kiến đòi khai trừ anh ra khỏi Đảng. Tôi tỏ ý băn khoăn, chẳng lẽ lại có thể xảy ra điều tồi tệ đến mức ấy, hoàn toàn trái với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật của Đại hội 6? Anh Bách kể: “Một đồng chí trong Bộ Chính trị cho rằng, việc làm của đồng chí Trần Xuân Bách đã khiến cho đồng chí, bạn bè lo âu, còn kẻ thù thì vô cùng mừng rỡ”. Một người đã bị nhận xét tới mức đó thì làm sao có thể coi trong Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương?” Anh Bách cho biết nhận xét đó không phải là ý kiến cá biệt, quan trọng hơn, đó là quan điểm của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Chỉ có hai ủy viên bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt cho rằng, từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, anh Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai chân” để đất nước phát triển và đảng vững mạnh.
Hôm ấy, chia tay anh chị, chúng tôi buồn rười rượi, dù anh động viên: “Cho dù sắp tới sự nghiệp đổi mới có bị khó khăn hơn. Tuy nhiên cái gì thuộc về quy luật, xu thế thì nó vẫn cứ đi tới, dù có chậm”.
Ngày 27-3-1990 Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa 6, thông qua nghị quyết có những nội dung quan trọng như sau:
… Nghị quyết đã chỉ ra tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng các nước xã hội chủ nghĩa đối với nước ta, trước hết là về các mặt chính trị, tư tưởng: một số người hoài nghi chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và nhà nước, một số cán bộ, đảng viên tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm sai lầm về cải tổ, cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; một số ít phần tử cơ hội bất mãn đang đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn.
Hội nghị nhận định: đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang còn nước ta là một trọng điểm chống phá, ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và quân sự rất thâm độc. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa ta và địch trên phạm vi thế giới, ở nước ta và ba nước Đông Dương đang diễn ra gay gắt, quyết liệt và phức tạp.
Việc Bộ Chính trị và ban bí thư tự phê bình và Trung ương góp ý kiến phê bình Bộ Chính trị, ban bí thư được tiến hành một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành và thân ái, với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, đã góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong trung ương.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa 6 đã quyết định cách chức ủy viên Bộ Chính trị, bí thư trung ương, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu.”
Sau khi anh Bách bị cách chức, bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin nhận anh về làm cán bộ nghiên cứu của Bộ Ngoại giao. Nhưng lúc này chính cái ghế của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng đang lung lay. Cũng như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch hiểu rất rõ nguyên nhân suy sụp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái với xu thế thời đại. Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm, về đối nội, dân chủ hóa xã hội, đối ngoại cần mau chóng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và thế giới dân chủ. Trong khi đó, tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và nhiều người trong Bộ Chính trị cho rằng phe xã hội chủ nghĩa suy sụp là do các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại. Do đó, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng phải cầu hòa với Trung Quốc. Trung Quốc dù có tư tưởng bành trướng thì cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để lấy lòng Bắc Kinh, Bộ Chính trị đứng đầu là tổng bí thư Nguyễn Văn Linh loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một cách vô nguyên tắc, không cho tham gia đoàn cấp cao đi Hội nghị Thành đô. Sau khi Nguyễn Cơ Thạch bị loại, anh Bách cũng xin nghỉ việc.
Anh Trần Xuân Bách bị kỉ luật ít lâu thì phó tổng biên tập Bùi Tín của báo Nhân Dân nhân được cử đi dự họp báo Nhân Đạo, đã trả lời phỏng vấn đài BBC về dân chủ hóa, bị báo Nhân Dân thi hành kỉ luật, và xin tị nạn chính trị tại Pháp.
Sau 20 năm nhìn lại, thực tế diễn ra trên thế giới và trong nước đã cho thấy ý kiến Trần Xuân Bách lòng hoàn toàn chính xác.
Tình hình thế giới:
Do duy trì quá lâu mô hình xô viết cho đến ngày sụp đổ đã khiến cho nhân dân các nước Nga và Đông Âu cạn niềm tin đối với các đảng Cộng sản và cánh tả. Ở liên bang Nga, suốt 20 năm qua, thời hậu Liên Xô, đảng Cộng sản, tổng bí thư G. Zyuganov chỉ nhận được tối đa khoảng 20% số phiếu trong các cuộc bầu cử. Trong khi đó, Đảng Nhân dân Campuchia thì chấp nhận “cuộc chơi” đa đảng đã bị lép vé, nhưng nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, nay đã giành được thế thượng phong trên chiến trường đất nước. Hiện nay, đợt sóng dân chủ lần thứ tư đang cuồn cuộn, nước Miến Điện gần sát Việt Nam đã chuyển từ quân phiệt sang dân chủ.
Sau 20 năm tái lập quan hệ đồng chí, trên cơ sở “16 chữ vàng” và “4 tốt” với Trung Quốc, ta càng ngày càng bị họ dồn ép: thành lập thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa; mời thầu dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của ta; xua hàng vạn tàu cá, tàu vũ trang vào vùng biển Trường Sa; đòi “lấy máu người Việt làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa!”
Kỷ niệm 10 năm hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), chính phủ Việt Nam tuyên bố: Việt Nam nhất quán chủ trương sẵn sàng cùng Hoa Kỳ nổ lực đưa quan hệ hai nước Việt Mỹ lên tầm cao mới. Ngày 2 tháng 8 năm 2012 Thượng viện Hoa Kỳ thông qua nghị quyết ủng hộ vai trò ASEAN trong vấn đề biển Đông, ủng hộ tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN – Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực đóng góp vòng đàm phán thứ 13 hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tình hình trong nước:
Nghị quyết trung ương 4 (khóa 11) nhận định “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Tham nhũng đã từ vài “con sâu” trở thành cả “bầy sâu”. Sự khiếu kiện đất đai dai dẳng bởi nạn cướp đất, đẩy nông dân tới bước phản ứng bằng bạo lực. Đội quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc đã nãy sinh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn làm bom tự tạo chống cưỡng chế phi pháp. Một trăm hộ dân Văn Giang đương đầu với 1000 cảnh sát vũ trang. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo, có đến 30 % số người bị suy dinh dưỡng. Họ đã tổ chức hơn 5000 cuộc đình công đòi tiền lương, cải thiện bữa ăn, nhiều cuộc huy động từ 5.000 đến 10.000 người, nhưng vẫn bị coi là bất hợp pháp, vì không được sự chỉ đạo của công đoàn! Trí thức bị cấm phản biện bằng Nghị định 97 của thủ tướng. So sánh tư thế của nhà nước Việt Nam với nhà nước Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, người Việt không khỏi hổ thẹn. Mỹ sẵn sàng giúp Philippines bảo vệ chủ quyền, trong khi đó đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ, nhân quyền làm điều kiện “thế chấp”!
Nghĩ về vận nước, không khỏi chua xót nhớ Trần Xuân Bách! Nguyện vọng khoán hộ của Kim Ngọc tuy đã thành hiện thực, từng đưa Việt Nam vào hàng nước xuất khẩu lương thực lớn thứ hai thế giới. Nhưng cho đến nay, giấc mơ về quyền sở hữu ruộng cày và cuộc sống no đủ với hạt gạo do mình làm ra của người dân vẫn còn xa ngái! Bao giờ tư tưởng Trần Xuân Bách trở thành hiện thực trong cuộc sống dân tộc?
Ngày 20-5-2002 tại nhà anh Trần Xuân Bách ở (Trung Tự) Hà Nội, nhà thơ Hải Như đã viết bài thơ tặng anh:
Trần Xuân Bách
Chắc chắn lịch sử sau này sẽ dành một trang về anh,
– khách quan phán xử
Tôi chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái Trần Xuân Bách mất rõ rồi, nhưng còn cái được,
Tuyệt vời sao!
Chia sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh,
Có một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão.
(Chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo).
Trần Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác.
Đúng không nào?
Trên chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn
Tâm hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh…
Câu “chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ ‘liên quan’ đè lên cơm áo” tôi cảm thấy như chỉ trích riêng mình!
Sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn tiếp tục làm Tổng biên tập báo Lao Động ba năm nữa, nhưng không đến thăm anh một lần nào! Tôi tự bào chữa: vì thời gian này tôi phải liên tục đối phó với quá nhiều áp lực, chống đỡ cho tờ báo. Vì tôi đặt tòa soạn báo Lao Động ở Sài Gòn; gia đình, vợ con tôi cũng ở Sài Gòn, cho nên thời gian tôi có mặt ở Hà Nội rất eo hẹp. Nhưng mọi lý do vẫn không đủ để cho tôi có thể từ chối cho mình một chữ “Hèn”! Anh Hải Như an ủi: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên ‘quyền cao chức trọng’, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thầy cũ của họ đâu!”
Cũng đừng trách họ hèn, bởi chúng ta phải sống ‘một thời vô luân’ mà!”
Ngày anh Bách qua đời (1-1-2006), nhà thơ Hải Như viết bài “Vĩnh biệt người bạn cùng quê”, có câu này:
“Ngày anh đi xa, trên báo Nhân Dân, bạn đọc thấy những gì thuộc về anh đều được trả lại”
Tôi nghĩ, Trần Xuân Bách không hiểu rõ cụ Hồ bằng Nguyễn Văn Linh. Ai thân cận với cụ Hồ hơn Vũ Đình Quỳnh? Vậy mà Vũ Đình Quỳnh không đòi hỏi “đa nguyên” như Trần Xuân Bách, vậy mà vẫn bị đi tù! Nhà thơ Hải Như cũng đã không chính xác khi vội mừng “những gì thuộc về anh đều được trả lại”! Cho dù điếu văn có nhắc lại tất cả công lao của Trần Xuân Bách, cho dù đã kể ra đủ các loại huân chương mà anh đã được trao tặng, cho dù cuối cùng, anh đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của chế độ nhưng tư tưởng cao cả mà Trần Xuân Bách hằng tâm nguyện và dám hiến mình, đâu đã được trả lại?!
Đọc tiếp:
BẠN BIẾT GÌ VỀ NHÀ CÁCH TÂN TRẦN XUÂN BÁCH ?
Tác giả: theo Blog Ngô Minh
MỘT TẤM LÒNG SON
Vũ Cao Đàm Bùi Thế Vĩnh Nguyễn Mạnh Tôn

 
 Ông Trần Xuân Bách là một nhà lãnh đạo có những tư tưởng cải cách rất mạnh dạn đã dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ trong Đảng CSVN và bản thân ông phải nhận những kỷ luật nặng nề của Đảng.Nhân ngày giỗ đầu của ông (1/1/2007) những người thuộc nhóm cộng sự của ông đã viết bài gửi một tờ báo đã từng viết về tư tưởng cải cách của ông nhưng rất tiếc bài viết đã không có may mắn được xuất hiện trên công luận. Nhân kỷ niệm làn thứ năm ngày ông mất (1/1/2011) nhóm cộng sự xin gửi bài viết này tới trang Bauxite Việt Nam để tỏ lòng tưởng nhớ kính cẩn tới một chí sỹ đã dành những năm tháng cuối đời của mình cho một ý tưởng cải cách chưa thành đạt của ông. Vũ Cao Đàm
Hôm nay là giỗ đầu anh Trần Xuân Bách. Chúng tôi xin thành kính gửi gắm những tình cảm sâu nặng tới anh một chí sỹ đã dành trọn những năm tháng cuối cùng của cuộc đời cho ý tưởng trong sáng vì sự phát triển của đất nước. Vào cuối năm 1989 trong quá trình chuẩn bị Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) chung tôi nhận được giấy mời đến Văn phòng Trung ương ĐCSVN để làm việc với anh Trần Xuân Bách. Chúng tôi được tập hợp thành một nhóm nghiên cứu gồm 5 người: Lê Hồng Tâm nhà kinh tế tên thật là Phó Bá Tòng em ruột của Giáo sư Phó Bá Long (Ông Phó Bá Long trước 1975 là Hiệu trưởng Trường Chình trị Kinh doanh Đại học Đà Lạt sau là giáo sư Đại học Georges Town Hoa Kỳ); Vũ Cao Đàm viện trưởng Viện nghiên cứu Chính sách thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ; Bùi Thế Vĩnh viện trưởng Viện Hành Chính học Học viện Hành chính Quốc gia; Nguyễn Mạnh Tôn chuyên viên Ngân hàng Ngoại thương và Nguyễn Thanh Sơn chuyên viên Ban Công nghiệp Trung ương ĐCSVN. Hai người lớn tuổi nhất là anh Tâm và anh Sơn đã mất. Ba người còn lại chúng tôi đều đã lần lượt bước qua tuổi bảy mươi vì vậy chúng tôi mong muốn được ghi nhận lại một vài cảm nghĩ với tư cách là những cộng sự và nhân chứng trực tiếp về những điều anh Bách trăn trở trong suốt những năm cuối đời của anh. Sau nhiều buổi trao đổi để “phát hiện” chúng tôi anh Bách đã giao cho mỗi người chúng tôi phụ trách một chuyên đề: Lê Hồng Tâm nghiên cứu về chính sách kinh tế để phục hưng đất nước; Bùi Thế Vĩnh – biện pháp giải phóng lực lượng sản xuất; Vũ Cao Đàm – hệ thống chính trị trong tiến trình cải cách kinh tế; Nguyễn Thanh Sơn – chính sách phát triển nhân lực; Nguyễn Mạnh Tôn – biện pháp chống lạm phát. Công bằng mà nói nhiều nội dung chúng tôi bàn thời đó còn khác lạ so với những điều được công nhận ngày nay nhưng ngược lại cũng có nhiều biện pháp cải cách ngày nay đã vượt rất xa những điều chúng tôi bàn thời đó; tuy nhiên do anh Bách luôn mạnh dạn gọi sự vật bằng tên thật của nó cho nên đã dẫn đến những hệ luỵ như chúng ta đã chứng kiến. Toàn bộ những nghiên cứu của chúng tôi đã được anh Bách xem xét rất thận trọng và cuối cùng anh đã tóm lược (rất kín kẽ) như sau: Thứ nhất cần mạnh dạn thực hành chính sách kinh tế theo kiểu chính sách kinh tế mới của Lênin và anh Bách đã nói theo cách đã sử dụng từ Đại hội ĐCSVN lần thứ VI là “kinh tế thị trường” với sự tham gia của mọi thành phần xã hội; Thứ hai theo kinh tế quyết định luận của Marx đã đa thành phần kinh tế mà anh gọi là “đa nguyên kinh tế” thì tất yếu sẽ dẫn đến “đa thành phần” trong xu hướng chính trị mà anh cũng thẳng thắn gọi là “đa nguyên chính trị”. Chúng tôi muốn lưu ý anh chưa một lần nào nói đến hai chữ “đa đảng”; Thứ ba anh đưa ra nhận định khái quát “Thị trường và đa nguyên là những thành tựu nổi bật của nhân loại”. Thứ tư anh luôn nhắc đến ý tưởng hàn gắn vết thương dân tộc. Chúng tôi nhớ mãi một lần anh nói đấu tranh cho công bằng xã hội là lý tưởng cao cả của các nhà cải cách xã hội nhưng đáng tiếc cải cách ruộng đất và cải tạo tư sản lại là hai cuộc vận động đã mắc những sai lầm dẫn tới sự chia rẽ dân tộc lớn nhất trong lịch sử nước nhà. Về kinh tế thị trường anh Trần Xuân Bách luôn khẳng định đó là con đường duy nhất dẫn đến dân giàu nước mạnh; về đa nguyên chính trị anh luôn khẳng định đó là một đảm bảo thực tế cho việc hình thành một nền kinh tế thị trường thực thụ và là con đường tất yếu khắc phục sự mất dân chủ trong xã hội xóa bỏ những nhóm độc quyền thao túng chính quyền. Trong suốt những ngày làm việc với anh Bách chúng tôi học được ở anh tấm gương làm việc nghiêm túc. Anh đọc và trao đổi ý kiến rất tỉ mỉ về tất cả những công trình của các nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước mà chúng tôi giúp anh sưu tầm. Anh rất thích những tài liệu nguyên gốc bằng tiếng Pháp chẳng hạn những bài viết về kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội của Boukharin; những bức thư đầy tâm huyết với những dự báo sắc sảo về sự diệt vong của nhà nước soviet của nhóm Kameniev và Zinôviev chống quan điểm độc tài trong đường lối tổ chức chính quyền của Lênin. Anh luôn luôn tự viết tất cả những bài anh cần phát biểu trên các diễn đàn. Sau một thời gian thảo luận trong nhóm chúng tôi anh Trần Xuân Bách có hai lần đưa quan điểm của mình thảo luận trong khuôn khổ những diễn đàn rộng hơn: một lần với các nhà khoa học tại phòng họp của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) Việt Nam ở số 53 phố Nguyễn Du Hà Nội một lần cũng với các nhà khoa học tại Phòng họp của Ban Khoa Giáo Trung ương Đảng ở số 10 phố Nguyễn Cảnh Chân Hà Nội. Trong lần họp ở Liên hiệp các hội KH&KT một người nào đó đã viết bài tường thuật đăng trên một tờ báo chính thống sau đó không thấy có bài phản bác hoặc ủng hộ nào chính thức trên công luận. Trước khi khai mạc Hội nghị BCHTƯ lần thứ VII của Đảng CSVN dự định vào cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách chuẩn bị bài phát biểu trong đó đề cập hai nội dung về kinh tế thị trường và đa nguyên chính trị. Anh đưa bài phát biểu cho nhóm chúng tôi thảo luận để đóng góp ý kiến. Khi đó anh Vũ Cao Đàm có nêu câu hỏi: “Anh cân nhắc thêm xem phát biểu bây giờ liệu có quá sớm không?” anh Bách đã trả lời ý là “Không quá sớm và cũng không quá muộn”. Cuối cùng anh vẫn quyết định trình bày quan điểm của mình tại Hội nghị Trung ương lần thứ VII và kết cục như chúng ta đã thấy anh bị khai trừ khỏi Ban Chấp hành Trung ương và sau đó là khai trừ khỏi Đảng CSVN. Tuy là những người có nhiều cơ hội làm việc với các nhà lãnh đạo nhưng chúng tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng vì cách làm việc của anh: khi anh cần gặp riêng một người nào đó trong chúng tôi anh hầu như không cho thư ký gọi chúng tôi lên văn phòng mà chính anh đến tận nơi chúng tôi làm việc với chiếc xe Peugeot 404 đã cũ không có bảo vệ và cần vụ đi cùng (cần vụ là cách gọi những người phục vụ sinh hoạt cho các nhà lãnh đạo) mặc dầu khi đó anh đã là nhà lãnh đạo rất cao cấp của ĐCSVN. Những lần làm việc như thế thường khi anh ngồi riêng với chúng tôi cả buổi cũng không có thư ký không có bảo vệ và cần vụ chỉ một mình anh. Có lần ngồi quá trưa chúng tôi lo anh đói hỏi anh có muốn ăn chút gì không và anh đã rất hào hứng ăn nắm xôi gói lá dong riềng mà các chị trong cơ quan chúng tôi ra phố mua ở các quán bán xôi dành cho dân nghèo. Sau khi anh nhận kỷ luật của Đảng có một vị lãnh đạo cao cấp của Đảng mời anh ra làm cố vấn anh đã cáo lỗi khước từ. Anh từ chối tất cả những đề nghị phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài. Anh cũng đã nhanh chóng trả ngôi biệt thự sang trọng trên phố Phan Đình Phùng dọn về ở khu Trung Tự. Anh chị cùng gia đình ở một phần còn một phần sử dụng để mở lớp mẫu giáo và chính anh chị trực tiếp chăm sóc nuôi dạy các cháu cho đến khi anh qua đời. Trong số những kỷ niệm còn lưu đọng mãi trong chúng tôi là hồi tết nguyên đán năm 1990 anh chị mời chúng tôi đến biệt thự mà anh chị được Văn phòng Trung ương Đảng bố trí trên phố Phan Đình Phùng (thời Pháp có tên là phố Carnot một trong những phố đẹp nhất của Hà Nội hiện nay). Chúng tôi vô cùng sững sờ: Trong căn biệt thự sang trọng chúng tôi nhận ra toàn một loại đồ gỗ tồi tàn mà thời đó được gọi là bàn ghế “tài chính” tủ “tài chính” giường “tài chính” nghĩa là những đồ gỗ do Bộ Tài chính đóng hàng loạt bằng gỗ tạp để phân phát đồng loạt cho cán bộ nhà nước các cấp từ khi vào tiếp quản các thành phố lớn năm 1954. Chúng tôi nhìn quanh bàn làm việc của anh thấy dán chi chít những bài thơ mộc mạc với nét chữ nắn nót mực tím của các cháu viết tặng bố mẹ. Chúng tôi được anh chị tiếp đón với những món mứt đơn sơ truyền thống nhưng thật ấm áp như những người trong nhà. Tuy là vợ một nhà lãnh đạo cao cấp nhưng chị xử sự thật khiêm nhường chị giản dị xưng “em” với chúng tôi không thể hiện chút gì là cao xa theo kiểu các mệnh phụ phu nhân. Nhân ngày giỗ đầu của anh chúng tôi xin được thắp một nén nhang kính cẩn tưởng nhớ anh con người đã dành trọn những năm tháng cuối đời cho một tư tưởng cải cách xã hội chưa thành đạt của anh.

Không có nhận xét nào:

Trang