4 tháng 8, 2016

Sấm Trạng Trình toàn tập

Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm 
Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) 
Nguyễn Thiên Thụ sưu tập, chú giải 
LỜI NÓI ĐẦU 
Theo thời gian và cũng vì thời đại, chúng ta đã mất nhiều tài liệu và không được tiếp cận với các tài liệu xưa. Vì vậy mà tôi lập Sơn Trung thư trang để làm một thư viện nhỏ với tinh thần vô vị lợi, tôi có thể giữ cho tôi và cống hiến cho moi người. Khi còn ở Việt Nam, tôi đã thu thập một số sách, một số tài liệu, trong đó có Sấm Trạng Trình. Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều người sửa đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi san định, nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài liệu. Tại các thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản Sấm Trạng Trình chữ Nôm và các bản này cũng khác nhau. 
Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.` 
Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội. Trước 1975, tại miền Nam đã có khoảng 20 bản quốc ngữ, nay Hà Nội cũng in thêm vài bản. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 . Riêng tôi có một bản nôm.Từ lâu tôi đã có ý phổ biến nhưng chưa thực hiên được. Nay cơ duyên đã đến, ltôi cố gắng y sao chép dần để trình chư vị . Tôi tuyển chọn những bản xưa nhất và đáng tin cậy để tái bản trong thư trang của tôi. Tôi tập hợp các bản lại và gọi là Sấm Ký Toàn Tập. 
Năm 2010, tôi đã đăng tải vào Sơn Trung Thư Trang. Nay tìm thêm vài tài liệu, tôi phổ biến ấn bản 2011 để cống hiến quý độc giả. 
Ottawa ngày 20 tháng 7 năm 2011 
Nguyễn Thiên Thụ 
TỔNG QUAN VỀ SẤM KÝ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491-1585) 
I. TIỂU SỬ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 
Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 ( 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. 
Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 
Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số. 
Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình. 
Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542. 
Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, 
Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính … 
Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công. 
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân, gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm) hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tập gồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấn mang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời. 
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. 
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). 
Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. 
Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: 
“Lê tồn Trịnh tại”. 
Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: “Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”. 
La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài “Huyền cơ tham tạo hóa” (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa). 
Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng 
Như núi Thái sơn, sao Bắc Đẩu 
Nghìn năm sau như vẫn một ngày 
II. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI SẤM KÝ 
Trong quan niệm của tôi, công việc của người sau là sưu tập, hiệu đính và chú thích tác phẩm của tiền nhân để bảo tồn văn hóa cũ. Việc này đòi hỏi người biên khảo, dịch thuật phải trung thực, khách quan, thấy sao nói vậy, biết gì nói nấy. 
Tôi mong rằng sẽ có một nhóm người khảo cứu hết các bản nôm trong thư viện. Một nhóm người khảo cứu tất cả các bản quốc ngữ đã xuất bản. Riêng tôi chỉ phụ trách nghiên cứu một số bản quốc ngữ trong tầm tay. 
Hôm nay tôi làm việc này thật ra là chưa được hoàn hảo vì kiến thức còn hạn chế. Hơn nữa không có trong tay các bản nôm và đầy đủ các bản quốc ngữ. Tôi chỉ làm được những gì trong khả năng hạn hẹp của mình. 
Dẫu sao thì vạn vật vô thường, mục đích của tôi là cố lưu lại những vốn cũ của tiền nhân, và giúp bạn đọc một số tài liệu mà tôi đã thu thập và nghiền ngẫm hơn nửa thế kỷ. Làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu. 
Vì thích nghiên cứu cổ văn cho nên tôi đã tìm hiểu các tác tác phẩm cổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhân dân ta ca tụng vì khí tiết thanh cao và tài thơ văn. Thi văn của Ngài có thơ chữ Hán và thơ Quốc Âm. Thơ Quốc Âm gồm có thơ nôm và Sấm Ký. Câu chuyện Nguyễn Hoàng và concháu họ Trịnh tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm là chuyện thực, liên hệ đến lịch sử chứ không phải là giai thoại. 
Tại thư viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội và Viện Khảo Cổ Sai gon đều có vài bản Sấm Trạng Trình bản nôm chép tay. Trước 1945, chúng tôi thấy các bậc cha chú đọc các bản Sấm Ký Quốc Ngữ. Trong khi vào Nam, tôi cũng mượn bạn bè các sách Sấm ký rồi chép lại vì trong thời gian chiến tranh, sách xưa đã tuyệt bản nên rất hiếm hoi, chỉ cho mượn trong thân hữu chọn lọc.. 
Sau 1975, xem danh mục thư viện thì thấy có tên sách, nhưng tôi không dám mượn vì e ngại công an theo dõi, và kết tội dùng sấm để “yêu ngôn hoặc chúng”. Tôi chỉ âm thầm tìm kiếm, và thu thập được một số. 
Tại miền Nam, Sấm Trạng Trình in bằng quốc ngữ từ sau 1945 cho đến 1975 cũng có gần hai chục quyển. Sau 1975, tại Hà Nội cũng có một vài quyển gọi là. Thư viện Viễn Đông Bác Cổ nay là thư viện khoa học Xã hội có gần 20 bản Sấm Ký nôm. Thỉnh thoảng có vài người giới thiệu sơ sài mà không trích dẫn câu nào. Nhà nghiên cứu không dám đi sâu vào sợ bị gán cho cái tội duy tâm thần bí, tuyên truyền phản động thì muôn kiếp phải sống trong lao tù. 
Ông TrầnVăn Giáp chuyên về chữ Nôm, ông biên tập các nhan đề sách chữ Nôm và Hán thành bộ ” Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm 2 quyển”, nhưng ông không kê khai lấy danh hiệu một bản dù trong thư viện có hàng chục bản “Sấm Trạng Trình”. Theo nguyên tắc nghiên cứu, ông cứ ghi tên sách, số hiệu sách nhưng ông có thể nói là sách ghi vậy nhưng e không phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đỏ quá hay ông sợ cộng sản quá, không dám ghi lấy tên sách và số hiệu sách vì sợ dân chúng sẽ vào lục tìm. Ông muốn giấu sách nếu không nói là muốn đốt sách, chôn sách. Ông phủ nhận sự hiện hữu của Sấm Trạng Trình. Ông viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm: 
“Ông là người nổi tiếng học rộng, nghiên cứu dịch kinh, chuyên về lý học, tinh thông khoa tính Thái Ất, cho nên người ta lợi dụng cái học của ông truyền tụng nhiều câu sấm nói là của ông, để tuyên truyền và mê hoặc mọi người.” (1) 
Thiết tưởng con người ta trong xã hội có người không tin bói toán, không tin thần thánh, nhưng một số rất tin. Bói toán mà sai thì cũng đương nhiên vì đó là khoa học không chính xác, Ta cần xem thời tiết nhưng các bản tin thời tiết không phải lúc nào cũng đúng, nhưng không phải vì thế mà dẹp bỏ ngành thiên văn, khí tượng và nghiên cứu không gian. Đừng có theo tây phương vài năm, theo cộng sản vài giờ mà cho mình là có óc khoa học. 
Karl Marx và các ông cộng sản đề cao khoa học, luôn làm ầm ỉ về thành tích khoa học trong khi bên tư bản người ta im lặng làm mà thành quả vượt Liên Xô, Trung Quốc! Marx tự hào là khoa học nhưng những tiên đoán, những ước vọng, những chính sách vĩ đại của Lenin, Stalin và Mao đã sụp đổ thảm thương! Ông thầy mu ruà ờ Lăng Ông Bà Chiểu, hay ông thầy tử vi ở chùa Trấn Quốc chỉ ăn vài ngàn bạc hay chục ngàn bạc Việt Nam mà không làm hại ai, còn lão tổ Karl Marx tiên đoán tầm bậy gây cho cái chết hàng trăm triệu người! 
Ai bảo người Pháp mê tín? Tại Pháp có mấy ngàn hay mấy chục ngàn thầy bói, và hàng chục người viết về Nostradamus, có ai cấm đóan hay chê bai dân Pháp? Ai bảo nước Mỹ dị đoan lạc hậu? Nghe nói người Mỹ có lúc đã dùng “thiền” để liên lạc với tàu vũ trụ đó sao? Trong chiến tranh Việt Nam khoảng 1970, một người Mỹ có đến hỏi giáo sư Bửu Cầm ở Sài gon: 
“Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì” Có phải có thủy chiến ngoài các đảo không? 
( Trong khoảng 70-90, tôi thường đến thăm GS Bửu Cầm được thầy thuật lại việc trên) và gần đây ông Nguyễn Văn Hiệp có thuật việc CIA lấy cắp bản ghi chép của thiếu tướng Nguyễn Văn Chức về tiên đoán của ông đạo Nhỏ. 
Người ta khoa học văn minh như thế mà còn nghiên cứu huyền học, dùng chiêm tinh còn chúng ta được kiến thức khoa học bao lăm, nhất là cái khoa học xuyên tâm liên và bèo hoa dâu mà lên mặt khinh thế ngạo vật ư? 
Ở đâu cũng có kẻ gian dối. Đâu có phải vì bọn bán thuốc ê, vì bọn lang băm lấy cơm khô trộn mật làm thuốc mà ta đốt sách y, bắt nhốt và giết tất cả người hành y? Ví như có kẻ làm giả sấm ký, sửa đổi vài chữ, vài câu, vài đoạn, ta không nên vội vơ đũa cả nắm bảo là là hàng mạo hóa mà quăng đi hoặc đốt hết sấm ký. Trái lại,người nghiên cứu lại càng phải gia công nghiên cứu hơn, tìm hiểu, phân biệt giả chân, tốt xấu. Không thể dễ dàng phủ nhận cũng không nên vội vàng tin tưởng trước khi suy nghĩ và xem xét. 
Tôi nghiền ngẫm Sấm ký từ lâu, chỉ hiểu vài đoạn. Sau khi xem Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh của Bửu Sơn Kỳ Hương, tôi nhận thấy sức mạnh tâm linh của Phật giáo, của Lý học và Đạo học. Và quả là có phương pháp tu đạt đến cái nhìn xuyên suốt quá khứ vị lai và cũng có người có tài năng thấy trước. Tôi cũng đọc Toàn Thư trong đó có nhiều huyền bí và đúng. Tôi lại càng nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một bậc khải thánh chứ không phải là tầm thường cho nên tôi cố gắng tìm hiểu chứ không coi rẻ như các vị khác mang tâm sắt đá hoặc tâm dun dế. 
Mình không hiểu vì mình bị vô minh che lấp chứ không phải ta thông minh mà sách nói vu vơ, và hiền thánh điên khùng. Trước khi khoa học tìm ra kính hiển vi và kính viễn vọng, đức Phật đã thấy những vật cực tiểu và những vật cực đại hay sao? Nay thì khoa học cho thấy ngoài Thái dương hệ của ta còn có nhiều Thái dương hệ khác. Mắt ta lòa chứ không phải thế giới đen tối, vạn vật hư vô như những ai đã kiêu căng chế nhạo. Sự thực các bạo chúa đã sợ khoa chiêm tinh và báo chí. Họ mượn danh khoa học để bịt miệng và che mắt nhân dân! 
Một vài người phủ nhận Sấm Trạng Trình vì cho rằng những bản trên là do người sau chế tác. Người ta cho rằng văn chương trong đó rất mới, đời Mạc chưa có lối lục bát. 
Nhận xét này khá đúng, có những bản Sấm ký, có những đoạn người sau ở triều Nguyễn chế tác hoặc thêm vào. Nhưng xem kỹ, các bản Sấm ký có đủ thể loại thi ca, có lục bát, song thất lục bát thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ thuyết, ngũ ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn tràng thiên. 
Thể lục bát là thể xưa trong ca dao, và cũng đã thể hiện trong các truyện xưa như truyện Trinh Thử, hoặc Gia Huấn Ca, còn song thất lục bát cũng là một thể khá xưa như Lê Đức Mao (1462-1529) , với bài Nghĩ bát giáp thưởng đào văn: 
Xuân nhật tảo khai gia cát hội, 
Hạ đình thông xướng thái bình âm. 
Tàng câu mở tiệc năm năm, 
Miếu Chu đối việt, chăm chăm tấc thành. 
Hương dâng ngào ngạt mùi thanh, 
Loan bay khúc múa, hoa quanh tịch ngồi;” 
Song thất lục bát tuyệt diệu như trên thì trước đó thơ lục bát tất cũng điêu luyện. 
III. GIỚI THIỆU CÁC BẢN 
Bản nôm hiện ở các thư viện có nhiều, chưa ai ra công khảo cứu đầy đủ. Còn bản quốc ngữ thì nhiều. Sớm nhất là bản của Sở Cuồng do Quốc Học tùng thư ấn hành năm 1930, và bản Nam Ký năm 1945 . Ông Phạm Đan Quế đã giới thiệu khá đầy đủ về các văn bản Sấm ký toàn chép tay 
trong thư mục Hán Nôm lưu trữ tại thư viện Hà Nội Khoa Học Xã hội (Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc Gia Hà Nội thì hiện nay còn bảy tài liệu chữ nôm sau đây có Sấm Trạng Trình (2) : 
(1)-Bạch Vân Nguyễn Trình Quốc công lục ký 25 trang, ký hiệu VNB3 
(2)-Trạng Quốc công ký: -2 quyển: VHV 1453/b – 36 trang; VHV 102; 32 trang. 
(3)-Trình Quốc công sấm ký : 34 trang: AB345 
(4). Trình tiên sinh quốc ngữ : 22 trang: AB444. 
(5). Sấm ký bí truyền 34 trang; VHV 2261. 
(6). Thiên Nam ngữ lục ngoại ký có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng 
Thượng thư; AB192. 
(7). Nhất tích thiên văn gia truyền VHV 1382 có một bài sấm nói là của Trạng Trình. 
Ông cũng cho biết các bản quốc ngữ sau: 
(1)-Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc Học tùng thư, Nam Ký xuất bản tại Hà Nội 1930; 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư Mục Đông Dương (Bibliographie en l’ Indochine ), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi” Bạch 
Vân Am Thi Tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm , recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký Thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích- Coll Quốc Học Tùng Thư. 
(2)-Phụ trương Khoa Học huyền bí của Tiểu Thuyết Nhật Báo do Mai Lĩnh xuất bản năm 1939 
(3)-Đông Tây Tiểu Thuyết phát hành ở Nam Định, số Xuân 1940. 
(4)-Sấm Ký, nhà xuất bản Đại La, Hà Nội 1948. 
(5)-Sấm Trạng Trình của cư sĩ Minh Điền, nhà in Thái Bình, Saigon 1948. 
(6)-Sấm ký của Bùi Xuân Tiến, Nam Ký Hà Nội, 1952. 
(7)-Sấm Trạng Trình của Hưng Long thư quán, Hà Nội, 1952. 
(7)-Sấm Trạng Trình của Chu Ngọc Chi, Hưng Long, Hà Nội, 1954. 
(8)-Trạng Trình của Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi, Saigon, 1956 
(9)-Trạng Trình Nguyễn BỈnh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Saigon, 1957. 
(10)-Đại chiến thứ ba với Sấm Trạng Trình, Thiệu Nghĩa Minh; Phương Thảo, Saigon, 1964. 
(11)-Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus của Nguyễn Duy Hinh; Dân Trí, Saigon; 1963. 
(12)-Sấm Trạng Trình; trong Thành Ngữ, Điển tích, Danh nhân từ điển của Trịnh Văn Thanh, 
Saigon 1966. 
(13)- Bạch Vân Quốc Ngữ Thi của Nguyễn Quân; Sống Mới, Saigon, 1974. 
Chúng tôi đã sưu tập được một số Sấm Ký nôm và Quốc ngữ , tuy chưa đầy đủ, song từ số tài liệu tương đối này, chúng tôi có thể phân loại về xếp đặt thành các dòng. Chúng tôi cố gắng đi tìm ý nghĩa các bản sấm ký dù rằng việc đó là việc khó khăn, nhưng chúng tôi nghĩ với tâm thành và tinh thần khách quan là tạm đủ. Chúng tôi không chú ý lắm về các từ ngữ nôm Việt dịch khác nhau, đọc khác nhau hoặc đúng sai. 
Như đã trình bày, cho đến hiện nay (2011) có lẽ đã có trên 20 bản Quốc ngữ khác nhau. Xét theo các câu trong các tập, chúng tôi tạm phân loại như sau: 
1. Bản Sở Cuồng và bản Mai Lĩnh 
Bản 1 Sơn Trung, do tôi phiên âm chú thích từ bản nôm trong thư viện cụ Nghè Bân, chép cùng Phùng Thượng Thư Ký cũng là bản trong Thiên Nam ngữ lục ngoại ký. Ông Nguyễn Văn Y, bạn tôi, một tay sưu tầm sách cổ, mất khoảng 1990, cho biết ông đã tặng một người bạn đi Canada quyển sấm trạng trình và Sấm Trạng Bùng. Như vậy bản này phiên âm từ bản nôm, và bản nôm cũng có gốc tích ở Thư Viện Hà Nội. Và nhiều bậc danh gia đã sao chép tài liệu này. Tài liệu này là thật, không giả mạo, nhưng không mới lạ vì bản này cũng chỉ là phần hai của bản của Sở Cuồng, chỉ khác một số chữ vì phiên âm khác hoặc đánh máy, hoặc xếp chữ sai chánh tả. 
Nay tìm thấy tài liệu của tiến sĩ Nguyễn Khuê (3) , mới biết bản Mai Lĩnh mà tôi có rất giống với bản của Sở Cuồng, có lẽ xuất phát từ bản của Sở Cuồng. 
Bản Sở Cuồng có gốc là bản AB.444 tại Viện Hán Nôm Hà Nội. Tôi may mắn có bản Mai Lĩnh là bản in sau bản Sở Cuồng. Bản mà chúng tôi có trong tay in năm 1939 tại tủ sách một bạn học thời Trung học Huế. Bản này có hai ưu điểm là: 
-bản tương đối sớm nhất, có trước 1945, vì các bản sau này, người ta thêm vào mấy chữ, mấy câu, hoặc bóp méo, xuyên tạc để tuyên truyền. 
-Bản này phổ biến nhất vì được nhiều người dùng hoặc in lại. 
Bản này khởi đầu: 
Vận lành mừng gặp tiết lành và kết thúc: Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia. Có một số câu bị mất, còn lại 487 câu. 
Nhiều bản chung gốc này mặc dầu có vài chữ khác nhau vì cách đọc chữ nôm khác nhau và sai chính tả: 
-Bản Nguyễn Khuê 
-Bản Đông Nam Á, Saigon 1964. 
-Bản Hùynh Tâm, Saigon ? 
-Wikisource 2010. Bản này tham khảo bản Huỳnh Tâm, Saigon, không rõ in năm nào, có lẽ 
khoảng thập niên 60. 
Theo thiển kiến, đây là bản quốc ngữ xưa nhất, lại có bản nôm rõ rệt cho nên bản này đáng tin cậy nhất 
2. Bản Anh Phương, Saigon 1960? do Hoàng Xuân sưu tập. 
Bản này gốc ở bản Nôm A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Cảm đề : Thanh nhàn vô sự là tiên. . . 
Mở đầu: Nước Nam từ họ Hồng Bàng/ Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần. 
Kết: Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa. 
Các bản sau đây chung gốc: 
-Tạp chí Thời Tập (1973-1975, Viên Linh. ) 
-Wikisource 2010 
Bản Trịnh Vân Thanh, 1966. 
– Bản Phạm Đan Quế , 1992. 
3. Bản HƯƠNG SƠN 
Bản này do Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm sưu tập. Bản này vốn ở quyển Lục Nhâm Bát Sát, Độn Thái Ất, phụ thêm Sấm Trạng Trình, Hương Sơn, Hà NỘi xuất bản trước 1954, sách 70 trang, Sấm Trạng Trình từ trang 48-68. 
Khởi đầu: Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng. . . 
Kết thúc: Gió mây ta lại đi về gió mây. 
-Bản Bạch Vân Ca của Nguyễn Quân, Sống Mới, Saigon, 1974 giống bản Hương Sơn. 
-Theo một bạn đọc, bản này cũng giống bản Nam Ký phát hành năm 1948 , do Bùi Xuân Tiêu và 
Nguyễn Can Mộng lấy từ bản VH-2261 của kho sách Viện Viễn Bác Cổ, mở đầu có câu : 
“Nước nam thường có thánh tài 
Sơn Hà vững đặt mấy ai rõ ràng 
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Đảo Sơn 
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho 
Học cách vật mới dò tới chốn. . .” 
Bản này có cấu trúc đặc biệt là có nhiều bài thơ theo nhiều loại khác nhau như ngũ ngôn, thất ngôn tứ tuyệt,thất ngôn bát cú, lục bát và song thất lục bát. 
Bản này có lẽ do người sau ghi lại các câu sấm truyền tụng trong dân gian chứ không phải của Trạng Trình, hoặc xáo trộn các đoạn trong sấm trạng Trình mà tạo thành . Việc này do biên chép vô ý hoặc cố ý. 
Bản nôm của Nguyễn Văn Sâm nhan đề khác với các bản: 古庵先生讖歌文 Cổ Am Tiên Sinh Sấm Ca Văn.Bản nôm này giống bản Hương 
Sơn từ câu đầu: 
Nước Nam thường có thánh tài, 
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng 
đến bài thơ 14 của bản Hương Sơn. 
Can qua việc nước bời bời 
Trên thuân lòng trời dưới đẹp lòng dân. 
Lục thất dư ngũ bách xuân 
Bấy giờ trời mới xoay vần nơi nao. 
Thấy sấm tự đấy chép vào 
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa. 
Câu kết của bản Hoàng Xuân cũng giống: 
Thấy sấm tự đấy chép vào 
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.(247-48) 
Đọc kỹ nội dung bản này, ta thấy bản này viết sau thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn Ánh vì trong bản này có những chữ như lời ngạn , phương ngôn ( Nguyễn Văn Sâm), nghĩa là những câu đó đã truyền tụng rất lâu trước khi tác giả cầm bút. và các câu Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong, và Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân/Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền/Phụ nguyên chính thống hẳn hoi…Đó là những sản phẩm của đời Nguyễn, không phải của Nguyễn BỈnh Khiêm. 
4. BẢN WIKISOURCE 2010 
Bản này chép bản Mai Lĩnh 1939 và bản Anh Phương (1960?) 
Nói chung, dù trên 20 bản, chỉ có ba dị bản chính thức như đã so sánh và trình bày ở trên. sự khác biệt này có thể do nhiều người soạn chứ không phải riêng Trỉnh Quốc Công, vì chính tôi cũng có một bản sấm ký chữ nôm của Trạng Trình và một bản của Phùng Khắc Khoan sẽ trình bày sau. Có những bản cùng nguồn gốc nhưng có sửa đổi vài câu vài chữ. 
Bản Minh Điền là một chêm dặm. Theo Phạm Đan Quế, bản này giống bản Anh Phương 22 câu, từ câu 374 đến câu 431, ngoài ra các câu khác hoàn toàn lạ lùng. Nhưng chính Phạm Đan Quế đã trích dẫn 50 câu đầu và 30 câu cuối của bản này thì thấy là hơn 120 câu giống chứ không phải chỉ 22 câu . 
Nay chúng tôi công bố bản Phùng thương Thư Ký là một bản đã có từ lâu nhưng chưa ai phiên dịch. Đọc bản này thì cho thấy rằng ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có Phùng Khắc Khoan cũng soạn Sấm Ký. Còn có ai nữa không? Bản của Phùng Khắc Khoan có vài đoạn giống bản của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 
IV.TÍNH CHẤT CỦA CÁC BẢN 
Nhìn chung, các bản có chung một vài điểm sau: 
1. Tính bí mật: 
Sấm Ký mang tính cách bí mật thuộc phạm vi quốc cấm, phải cất kín cũng như Kim Cổ Kỳ Quan, Tứ Thánh, chỉ bàn bạc với người thân mà thôi. Thái độ của nhân dân đối Sấm Ký khác với Lục Vân Tiên và truyện Kiều. Ấy cũng bởi ngày xưa các nho sĩ dùng Sấm ký để chống triều đình , chống Pháp, mà bọn tay sai cũng dùng sấm ký vu oan giá họa cho dân lành cho nên quan quân đã bắt bớ dân chúng, và người ta phải cất giấu các tài liệu này. 
2. Tính thiếu chân thực: 
Thói quen của ta là tự tiện sửa chữa, thêm bớt các bản chính cho nên truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã bị tam sao thất bản.. Nhiều người sau này sửa sấm ký hoặc bóp méo văn nghĩa cho vừa khuôn khổ quyền lợi của phe nhóm họ. 
3.Tính không thống nhất: 
Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau. 
Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ. Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước. 
Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : “Đào Tiền xử sĩ… nam thành quốc gia” nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây). Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu. 
4. Tính mơ hồ: 
Các bản có chỗ thần diệu nhưng cũng có chỗ mơ hồ, giống các bản của Sư Vải Bán Khoai, Huỳnh Giáo chủ và Thanh Sĩ. . . chỉ nói tí , sửu ,dần, mẹo. . . rất mơ hồ trong khi các bản Kim Cổ Kỳ Quan và Tứ Thánh thì rõ ràng hơn. 
V. CÁC VẤN ĐỀ CẦN THẢO LUẬN 
A. CÁC TỪ NGỮ 
1. Quốc hiệu Việt Nam. 
Bản Mai Lĩnh 1939 ở gần đoạn đầu có câu: Việt Nam khởi tổ gây nền,/ Lạc Long ra trị đương quyền một phương (câu 7-8). Đời Nguyễn nước ta có quốc hiệu Việt Nam. Sấm Trạng trình cách nhà Nguyễn mấy trăm năm sao lại ghi Việt Nam? Ai đó sửa lại hay ngày xưa cụ Trạng đã biết mấy trăm năm sau quốc hiệu là Việt Nam? 
Tự điển Wikipedia giải thích về Quốc hiệu Việt Nam: 
Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” có ý nghĩa “An Nam” còn “Việt” có ý nghĩa “Việt Thường”. Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh thổ nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804. Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. 
Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy 
Có thể một người viết mà chia ra nhiều đoạn, do viết nhiều thời gian khác nhau. Có thể là do nhiều bản của nhiều người khác nhau mà người sau chép chung làm một tập. Như bản Mai Lĩnh ít nhất là hai tập khác nhau. 
Một số là thu thập nhiều bài sấm ký khác nhau cho vào một tập như bàn Thiên Phúc Nguyễn Phúc Ấm do Hương Sơn xuất bản trước 1954, cho nên trong đó có nhiều bài thơ. Có thể do nhiều gốc khác nhau. Cũng có kẻ cắt vài đoạn bỏ vào cái khuôn của mình để mập mờ đánh lận con đen trong chính sách tuyên truyền dối trá của họ. cũng có thể do phương cách làm việc chưa khoa học, nghĩ đến đâu, viết đến đó, nhiều khi trùng hợp, cái trước nói sau, việc sau nói trước. 
Cũng có thể người ta tráo đoạn trước ra sau, đoạn sau lên trước để giữ bí mật, như đoạn cuối bản Mai Lĩnh : “Đào Tiền xử sĩ… nam thành quốc gia” nhưng trong bản Hương Sơn lại nằm gần cuối, dưới câu kết còn có 24 câu nữa (Phân phân đông bắc khởi.. . Gió mây ta lại đi về gió mây). Sự kiện này gây khó khăn cho người nghiên cứu. 
B. CÁC CÂU, CÁC ĐOẠN 
1. Các câu giống nhau: 
(a).Hai bản Mai Lĩnh và Anh Phương : 
-Hai bản thường khởi đầu bằng các câu sấm đời trước như của Vạn Hạnh, và các tác giả vô danh đời trước. Hòa đao mộc lạc.. ./ Thập bát tử thành. 
– Tan tác Kiến kiều tan đất nước,/Xác xơ cổ thụ sạch an mây. 
(AP 49; ML 381) 
-Uy nghi dung mạo khác mình/ Thác cư một góc kim tinh phương đoài 
(AP 125, ML 141) 
(b). -Bản Anh Phương với bản Hương Sơn 
Nước Nam thường có thánh tài/Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường. 
(HS. 1; AP:105) 
(c). Mai Lĩnh và Hương Sơn 
Thủy trung tàng bảo cái…. Đông Tây vô sự nam thành quốc gia. 
(ML 446-487; HS, 26) 
-Phá điền đầu khỉ cuối thu. . . Tái binh mọi giống thập thò liền sang. 
(HS.16;ML 199) 
-Thủy binh cờ xí vừng hồng.. .Bắc binh sang có việc gì chăng?… Đã ngu dại Hoàn Linh đời 
Hán… 
(ML 83; HS 12) 
-Bách tính khổ tai ương… Đông tây vô sự nam thành quốc gia. 
(ML467-487; HS 26) 
-Bắc phương chính khí sinh ra/ Có ông Bạch xỉ (sĩ) điều hòa hôm mai. 
(ML 135; HS16 ) 
-Man mác một lĩnh Hoành Sơn/Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù 
( ML 195; HS 16) 
-Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh/ Sông Bảo giang thiên định ai hay. 
(ML 125, 257; HS 17 ) 
Bắc kinh mới thật đế kinh/ Giấu thân chưa dễ giấu danh đục nào. 
(ML 238; HS 16) 
Quần hùng binh kéo đầy khe/ Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời.. . 
Thương những kẻ ăn rau, ăn giới. 
(ML 103; HS 16 ) 
Canh tân ( niên) tàn phá/ Tuất hợi phục sinh 
(ML 395; HS 18) 
Ma vương sát đại quỷ/ Hoàng thiên tru ma vương/Kiền khôn phú tái khôn lường 
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết/ Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân. 
(ML 475; HS 26 ) 
-Phân phân đông (tùng ) bắc khởi.. Bất chiến tự nhiên thành 
( ML 443; HS 26) 
-Tộ trường nhị thập ngũ/ Vận khải ngũ diên trường 
(ML 462; HS 26) 
-Nực cười những lũ bàng quan/Cờ tàn lại muốn toan đường đấu xe (AP 125; HS 26) 
(d).Ba bản giống nhau: 
-Bắc hữu kim thành tráng 
Nam hữu ngọc bích thành 
( AP,214; ML 426-427, HS, 25) 
-Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh. . .kiến thái bình. 
(ML 398; HS 24, AP 171) 
-Cửu cửu càn khôn dĩ định. . . Hồ binh bát vạn nhập Tràng An. 
(AP151; ML 410; HS 21) 
-Xem ý trời có lòng khải thánh/ Dốc sinh ra điểu đỉnh hộ mai. 
(AP 131, ML 131, HS 16) 
-Có thầy Nhân thập đi về/ Tả phù hữu trì cây cỏ thành binh. 
AP 231, (ML 261; HS 17) 
-Bảo giang thiên tử xuất/ Bất chiến tự nhiên thành 
(AP 217; ML 415; HS 25 ) 
-Phú quý hồng trần mộng, 
Bần cùng bạch phát sinh 
(AP209, ML 430; HS 25) 
-Thái nguyên cận Bắc đường xa 
(AP 123; HS 14; HS 14) 
2. Các câu được giải thích để tuyên truyền: 
(1). Thấy đâu bò đái thất thanh/ Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng sai.(HS 14) 
Một bản giải thích: 
Ở Bắc Kạn có khe Bò Đái. 
Một bản ghi: 
Nghệ An Bò Đái thất thanh. 
Một bản khác ghi: 
Nam Đàn Bò Đái Thất thanh. 
Trong quyển La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn có trích thơ Nguyễn Thiếp, bài Gặp người đánh cá ở sông PhùThạch, HXH nói đến câu ca dao Đụn sơn phân giái/ Bò Đái thất thanh/ Đông Thành sinh thánh. Huyện Đông Thành ở phủ Diễn châu, còn Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh ở huyện Nam Đàn, phủ Anh Đô. Chính trong bài thơ trên, Nguyễn Thiếp viết: “Núi Liệt lở, Song Ngư nước cạn, /Sấm người xưa đánh lẫn dân ngu (tr.62) Chữ Hán tên là Lao Tuyền, HXH nói tên tục là Bò Đái không biết có đúng không vì Lao Tuyền là Khe Bò mà thôi. 
(2).Đầu can võ tướng ra binh/ Ắt là trăm họ thái bình âu ca (AP 197) Thái Bạch giải thích Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra binh năm giáp thân (1944). 
(3). Thánh nhân hương Có người theo bản Hương Sơn giải thích 
1.Thánh nhân hương 
2- Thuỷ trung tàng bảo cái ( bài 19 và bài 26) 
VI. KẾT LUẬN 
Sau khi nghiền ngẫm khoảng 20 bản, tôi thấy quanh đi quẩn lại chỉ có ba phiên bản chính, được nhiều người sử dụng : 
-Mai Lĩnh 
-Anh Phương 
-Hương Sơn. 
Trong ba bản, theo thiển kiến, bản Mai Lĩnh tức bản Sở Cuồng là đáng tin cậy nhất. Hai bản kia có lẽ chỉ là ghi chép những câu sấm truyền trong dân gian. Đây cũng chỉ là giả thuyết chờ sau này ai đó nghiên cứu thêm nhiều bản nôm thì rõ hơn. 
1. Mai Lĩnh: 
Bản Mai Lĩnh chính là bản đầu tiên là bản Sở CUồng in năm 1930 
2.Hương Sơn: 
Đoạn kết giống Mai Lĩnh 2:Sau một thời gian sống với cộng sản ( Ta hồ vô phụ vô quân), nước ta sẽ thái 
bình như thời hoàng kim. 
3.Anh Phương: 
Đoạn kết giống Mai Lĩnh 1: sau này có ” thầy Nhân Thập” về cứu nước. 
Các bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh và Sơn TRung có liên quan đến Phùng Thượng Thư Ký. Bản này có chú thích của Tiền nhân trước 1937 là năm cụ Nghè Bân mất. Các bản khác cũng chỉ thêm thắt và xáo trộn bản chính. Theo quyển Phùng Thượng Thư Ký, chủ yếu sấm ngữ là nói về giai đoạn Lê Mạc cho đến Trịnh Nguyễn và qua nhà Nguyễn. Như vậy có lẽ sấm không đi vượt thời gian 1945 là năm nhà Nguyễn mất. 
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian 
(Sơn Trung ,4) 
Chữ rằng lục thất nguyệt gian 
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài 
Hễ nhân kiến đã dời đất cũ 
Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra 
Bốn phương chẳng động can qua 
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi 
Bấy giờ mở rộng qui khôi 
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn. 
(SC, 117-124) 
Quyển vàng mở thấy sấm trời 
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian 
(SC,483-84) 
Hòa đao mộc lạc, 
Thập bát tử thành, 
Ðông A nhật xuất, 
Dị mộc tái sinh. 
Chấn cung xuất nhật, 
Ðoài cung vẩn tinh. 
Phụ nguyên chì thống, 
Ðế phế vi đinh. 
Thập niên dư chiến, 
Thiên hạ cửu bình. 
(Anh Phương, 7-16) 
205.Kể từ đời Lạc Long Quân, 
Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian. 
(Anh Phương, 205-06) 
Nói chung, đa số nói về các sự lịch sử cho đến cuối nhà Nguyễn năm 1945. Tuy nhiên, nhiều nhà biên khảo cho rằng Sấm Trạng Trình có giá trị lâu dài. Việc này cũng tùy văn bản, như bản Anh Phương: 
” Ô hô thế sự tự bình bồng, 
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông. 
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch, 
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng. 
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc, 
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông. 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng, 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong 
“(95-102) 
Bài này đưa ra nhiều vấn đề. Thời Lê mạt, Nguyễn sơ, nước ta chưa có đường sắt và xe lửa. Pháp khởi công làm đường sắt năm 1881 đầu tiên đi từ cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn dài 13 km. Chuyến tàu đầu tiên khởi hành ở Việt Nam là vào ngày 20 tháng 7 năm 1885. Trong chiến tranh từ 1945 cho đến 1975, cộng sản thực hiện tiêu thổ kháng chiến, phá cầu, phá đường, đắp mô, giật mìn gây trở ngại giao thông cho dân chúng. Thời chiến tranh, hai miền Nam Bắc phân ly, đường sắt đứt nối nhiều đoạn. 
Năm 1975, Việt Nam thống nhất , năm 1986, Chính phủ Việt Nam tiến hành khôi phục lại các tuyến đường sắt chính và các ga lớn, đặc biệt là tuyến Đường sắt Bắc Nam. Tuy nhiên, vẫn có câu hỏi: Phải chăng là đường sắt cao tốc mà Trung Cộng muốn làm? Hồ ẩn sơn trung Mao tận bạch, phải chăng là đường sắt này sẽ thực hiện , hay thực hiện xong sau khi HỒ CẨm Đào về hưu? mao tận bạch là gì? Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng là gì? Là trận thủy chiến ngoài Trường Sa, Hoàng Sa năm 1974 giữa Trung Cộng và VNCH? Là cuộc chiến giữa Việt Cộng- Trung Cộng năm 1988? Và cuộc thế chiến ba ở biển Đông? 
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc, 
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông. 
Câu này không rõ. 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng, 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong. 
Chờ khi Hoa Kỳ( chim ưng) đánh vào Hoa lục ( sư tử) thì thiên hạ mới thái bình! 
Chú thích 
(1). Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm , quyển I, Thư viện Quốc Gia, Hà Nôi, 1970,tr. 87). 
( 2). Phạm Đan Quế, Giai Thoại và Sấm Ký Trạng Trình; Văn Nghệ TP HoChi Minh, 1992; 78-79)
(3). Nguyễn Khuê. Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bạch Vân Am Thi Tập. Nhà xb.HochiMinh, 1997, 379-402 
ĐIỂN SẤM TRẠNG TRÌNH 
Sấm Trạng trình có nhiều bản khác nhau nhưng các bản này vẫn có những đoạn giống nhau. Trước đây, trong ấn bản Sơn Trung, chúng tôi đã chú thích các bản Sấm Trạng Trình. Như đã nói, chúng tôi đã có bản nôm Trình Quốc Công Ký và bản nôm Phùng Thượng Thư Ký mà bạn tôi, ông Trương Quang Gia đã phiên âm từ 1990. Nhưng người nghiên cứu vẫn để yên trong ngăn tủ, nay mới đem ra xem xét cẩn thận, thì thấy người xưa đã chú thích phần lớn. Nay đem cả chú thích mới và cũ tập họp lại theo dạng tự điển để độc giả tiện tra cứu. 
Bạch sĩ : chưa rõ 
Bảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh 
Sông Bảo Giang đã định ai hay): không rõ nghĩa 
Bắc hữu kim thành tráng 
Nam tạc ngọc bích thành 
Hỏa thôn đa khuyển phệ 
Mục giả dục nhân canh 
(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230) 
Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn? 
Cưu, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân. 
Cửu cửu càn khôn dĩ định, 
Thanh minh thời tiết hoa tàn. 
Trực đáo dương đầu mã vĩ, 
Hồ binh bát vạn nhập Trường An. 
(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168)) 
Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản saunày nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954. 
Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh 鄭 chữ Trịnh có chữ nhật. 
Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật. 
Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh. 
Đao: Xem Hòa đao mộc lạc. 
Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canhphòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi. 
Đỉnh Hoành sơn: ( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễnvà Tây Sơn tại miền Trung. 
Đông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng. 
Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh. 
Hoàng Giang: (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng chỉ dòng họ Nguyễn Hoàng ? 
Kìa cơn gió thổi lá rung cây 
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây 
Tan tác kiến kiều an đất nước 
Xác xơ cổ thụ sạch am mây 
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát 
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy 
Một gió một yên ai sùng bái 
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay 
(Bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh, câu 379-386) 
Các bản sau này giải thích việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, và việc Pháp dùng 5 máy bay ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Hải Dương. 
Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.(Xem Hòa Đao mộc lạc ). 
Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư. 
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh, 
Can qua xứ xứ khổ đao binh. 
Mã đề dương cước anh hùng tận, 
Thân Dậu niên lai kiến thái bình. 
(Anh Phương 171-174; Trịnh VÂn Thanh, 185-188) 
Bản Phùng Thượng Thư Ký và một số có đoạn này. Bản Phùng Thượng Thư không chú rõ. Các bản khác đều cho rằng đioạn này nói kỷ dậu 1945 chấm dứt thế chiến, nhưng điều này khiông đúng vì từ năm dậu 1945 nước ta bắt đầu với đại họa cộng sản chứ không được hưởng thái bình. 
Lục thất , hay lục thất nguyệt gian ( hay niên gian): 
Lục thất cho biết ngày dầy (rày) 
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ). 
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260) Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo. 
Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua thì giòng Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa. họ Nguyễn (hay Hồ) nhà Tây Sơn ở Bình Định, chưa có vua nào ở Sơn Tây. 
Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. có đám cháy hay trộm cướp. 
Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn. 
Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn HUệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước. 
Ô hô thế sự tự bình bồng, 
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông. 
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch, 
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng. 
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc, 
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông. 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng, 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong ” 
(Bản Anh Phương, Trịnh Vân Thanh , 109-116) 
Các bản giải thích là sau 1945, cộng sản phá hoại đường giao thông, trong đó có đường sắt. Đường sắt nối lại sau 1975 là lúc Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đều chết. Sau đó là có chuiến tranh ở Hoàng Sa, Trường Sa… 
Phá điền : quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền 田giống chữ Quốc 国, cả hai chữ thuộc bộ vi 
囗.Cũng có người giải là năm sửu vì chữ sửu 丑 giống nửa chữ điền 
Rau, rới: có bản ghi “giới”. Rau, rới, giới, rưới đều có nghĩa là rau. Có lẽ do từ Giới 芥 là rau, làđồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi) 
Tái binh: binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc: Chỉ quân Mãn Thanh. 
Tam hiểm ( Tìm nơi tam hiểm mà hầu lánh thân): Ba nơi hiểm trở có đủ yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Quyển Phùng Thượng Thư Ký cho biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên,Tản Viên (Sơn Tây), và Vị Khê ( không rõ ở đâu. 
Thập bát tử: họ Lý 李 . Chữ Lý chiếrt tự là Thập bát tử. 
Thầy Nhân Thập : trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữNhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo phápâm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử…). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì? 
Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ 午chiết tự thành nhân thập) 
Trần công nãi thị phúc tâm 
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du. 
(Sở Cuồng, 482-483) 
Không rõ họ Trần nào, xuất hiện vào lúc nào? Nước ta từ Lê Lợi đên nay có Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm… . .làm vua, và các nhà chính trị nổi danh như Đào Duy Từ, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim nhưng chưa có vua nào họ Trần. 
BẢN I : SƠN TRUNG 2011 
TRÌNH QUỐC CÔNG KÝ 
tủ sách cụ Nghè Bân, Sơn Tây 
LỜI NÓI ĐẦU 
Đây là bản nôm tìm thấy trong thư viện cụ nghè Nguyễn Văn Bân ( 1868- 1937.) Cụ nghè Nguyễn Văn Bân , sinh năm mậu thìn (1868), quê làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, đậu cử nhân khoa đinh dậu (1897), đậu tiến sĩ khoa tân sửu, năm Thành Thái 13 (1901), đồng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh Huy tức Nguyễn Sinh Sắc, và Phan Chu Trinh, hàm Hồng Lô tự khanh, sung Bắc kỳ thượng nghị viện , Tổng Đốc Hải Dương. 
Cụ Nghè Bân ở Sơn Tây , gần làng Phùng, cùng huyện Thạch Thất với Phùng Thượng Thư cho nên bản này rất đáng tin cậy vì ngày xưa các cụ thường mượn sách nhau sao chép, nghĩa là bản này có thể là sao chép từ tủ sách quan thượng Phùng Khắc Khoan. 
Đại tá Nguyễn Sùng đậu cử nhân luật bên Pháp, người Chàng Thôn, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, làm việc tại bộ Tổng Tham mưu quân đội VNCH, là tế tử của cụ nghè. 
Khoảng năm 1985, gia đình đại tá Nguyễn Sùng, sang định cư tai Pháp. Trước khi đi, hai ông bà tặng tôi một số sách cổ, trong có bản Trình Quốc công ký và Phùng Thượng thư ký. Tôi giữ từ đó đến nay, chỉ nhìn qua rồi cất kín vì lúc bấy giờ tôi đang tập trung tư tưởng và thời giờ viết bộ Văn Học Sử Việt Nam. Vả lại lúc bấy giờ việc nước tang thương, ai cũng lo việc y thực và tìm tự do. Nay có bạn đọc hỏi về Sấm Ký, tôi bèn đem tất cả Sấm Ký Quốc ngữ mà tôi đã sưu tập và bản Nôm này trình làng. Như vậy bản nôm chép tay đã có khoảng hơn một trăm năm, mà tôi cất giữ cũng đã 25 năm, nay mới ra mắt độc giả. 
Hôm nay xem kỹ, và sau khi so sánh các bản Quốc ngữ, tôi xin thưa với các độc giả vài điều: 
1. Sấm Trạng Trình là có thực. Bản này có gốc tích rõ ràng từ một bậc danh gia ở Sơn Tây, đồng hương với Trạng Bùng, mà trạng Bùng lại là đệ tử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, hơn 20 bản nôm trong các thư viện cũng là một thực thể mạnh, không thua gì Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du, trong đó có những dị bản, nhưng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Trình Quốc Công ký. 
2.Bản này giống phần thứ hai của Mai Lĩnh. Tôi chưa xem bản nôm AB 444 của Viện Hán Nôm Hà Nội, song có thể nghĩ rằng hai bản nôm này cùng nguồn gốc. Tuy nhiên, đọc kỹ thì thấy bản quốc ngữ của Mai Lĩnh và bản nôm này tuy ý từng câu, từng đoạn giống nhau, mà trong mỗi câu it nhất là có một chữ bị sửa . Tuy nhiên phần cuối bản nôm này ( từ câu 101) khác hẳn bản Mai Lĩnh. 
Tôi chỉ phiên âm, còn phần chú thích tôi đã chú thích trong bản Mai Lĩnh, nay chỉ chú một đôi dòng cần thiết mà thôi. Xin tha thứ những sai lầm trong bản này. 
Ottawa ngày 6-10-2010 
Nguyễn Thiên Thụ 
phiên âm 
1.Vừa năm canh tý (1) xuân đầu 
Thanh nhàn ngồi tựa long câu (2) nghĩ đời 
Quyển vàng mở thấy sấm trời 
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất (3) gian 
5.Mỗi đời có một tôi ngoan 
Giúp chưng (4) giữ nước dân an thái bình 
Kể từ Lạc Long đế kinh, 
Thế cùng xem biết sự tình thấp cao. 
Nhân vì biết được tơ hào 
10. Truyền chưng chép vào chẳng tiếc làm chi. 
Luận chung một tập kim thì (5) 
Tướng tài coi gẫm, nam nhi học đòi 
Trượng phu có chí thời coi 
Những câu nhiệm nhặt đáng doi (6) cho cần 
15. Già nay cũng đấng hiên ngang 
Biết chưng đời trị biết đường đời suy 
Kể từ nhân duẫn ( 7) mà đi 
Sau thì chưa đến biết thì nói ra. 
Tiếc thay hiền sĩ tuổi già 
20. Phúc bằng Bành Tổ cùng là Thái Công 
Thử cho tay thước ( 8) ra dùng 
Tài này cùng hẹn anh hùng xem sao 
Trên trời chỉn chín tầng cao 
Tai nghe bằng một tơ hào (9) biết hay 
25. Hiềm vì sinh phải thời này 
Rấp thù lỗi kiếp tiếc thay chưng đời 
Dẫu hay tấn chước (10) ngàn lời, 
Sinh phải lỗi đời ắt cũng có dư. 
Chẳng sinh phải kiếp người ta, 
30. Sinh ra phải kiếp quỷ ma nhà trời. 
Nói ra thì lộ sự đời,(11) 
Che nghe (12) cho phải lụy này, 
Nói ra ám chúa bội quân 
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu 
35. Chờ cho nhân duẫn về sau 
Ðến chừng đời ấy thật âu nhiều nàn 
Trời sinh ra những kẻ gian, 
Nhật dạ đạo kiếp suy tàn đông tây. 
Quân nào thần ấy làm vày (13), 
40. Thượng nhân bất chính hạ nay tác loàn. 
Đua nhau bạo ngược làm càn, 
Phá gia ba kẻ dân tàn khốn thay 
Anh hùng gẫm được thời hay, 
Xem chưng thời vận biết hay trong lòng. 
45. Nam nhi có chí anh hùng, 
Muốn làm tướng súy lập công chưng đời. 
Thời xem tuần vận điềm trời, 
Cơ mưu nhiệm nhặt nên trai anh hùng. 
Đi tìm cho đến thánh công, 
50. Để phù trợ trị nên công vẹn tuyền. 
Trong ngoài cương kỷ cho bền, 
Bốn phương điều vận cho yên trong ngoài. 
Chờ khi chuyển đất động trời, 
Bấy giờ mới biết mặt trai anh hùng. 
55. Còn bận (14) thì náu chưa xong, 
Nhân lực chẳng đoạt thiên công đâu là. 
Ðời này những quỉ cùng ma 
Chẳng phải người thế dân ta thiện hiền. 
Trời cao đất rộng mông minh, 
60. Ngu dân đâu biết chân tình đế vương. 
Thế gian ai chẳng biết tường, 
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này. 
Ấy là lục thất gian nay, 
Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương. 
65.Xem chưng tuần vận cho tường, 
Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này. 
Vua ngự thạch bàn xa thay, 
Nhân (15) ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng 
Chim kêu vượn hót vang lừng, 
70. Ðường đi thỏ thẻ dặm chưng khôn ngờ. 
Nhân gian vắng vẻ bằng tờ 
Sơn lâm bát ngát đổ (16) nhờ khôn thay! 
Vua còn cuốc nguyệt cày mây 
Phong điều vũ thuận đợi ngày làm ăn 
75. Phong đăng hoà cốc chứa chan 
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc vân. 
Khảm cung thời tiết mở vần, 
Thực là thiên tử thánh nhân ra đời. 
Anh hùng ai có chí tài, 
80. Công phu chẳng ngại tìm đòi ra đi. 
Tìm đi đến Bàn thạch khê, 
Đất sinh thánh đế bên kia cuối làng. 
Nhìn đi nhìn lại cho tường, 
Do nay phỏng có sinh vương đâu là. 
85. Chẳng tin thì đến bản gia, 
Đất sinh thiên tử xem qua địa hình. 
Bốn bề phong cảnh cực thanh, 
Tả long triều lại uốn vành vũ khai. 
Hữu thời cửu khúc giang nay, 
90. Minh Ðường thất diệu ra bày tay coi 
Trông xa thấy một đầu voi 
Đầu cúi cuốn lại phục triều nguyệt sơn . 
Ứng điềm thiên tử về chầu, 
Tượng trời thánh đế thật âu trị dài. 
95. Song thiên nhật nguyệt sáng soi,(17) 
Sinh được tuổi ấy thật ngôi chẳng cầu 
Ðến tuần hưng vượng về sau, 
Chờ đến tam hợp thúc nhau mới làm 
Khuyên người Ðông Bắc Tây Nam 
100. Muốn làm tướng súy thì xem sấm này 
Anh hùng lượng được thời hay 
Chép làm một quyển để ngay chẳng mòn. 
Ai nên bia tạc biển son, 
Nguyện đem phúc vận tử tôn ơn nhờ. 
105.Nay nhờ truyền bảo sau xưa, 
Những câu nhiệm nhặt nên sơ tỏ tường 
Tìm đi cho đến khảm phương 
Hình dung thánh đế khiêm nhường từ bi. 
Chính trung diện mạo uy nghi, 
110. Râu rồng tóc phượng thật thì đế vương. 
Nhìn xem cho biết tỏ tường, 
Để hòa (mà) giúp rập đế vương tuần này. 
Quân thần hội họp rồng mây, 
Đạo trời hay chứa bàn tay nhưng là. 
115. Cõi tiên thế giới đất ta, 
Mông lung bốn bể ắt là giao lân. 
Trời xui thiên tử vạn dân, 
Rắp hết xa gần triều lục thất gian. 
Phò vua ra đến Tràng An, 
220. Bao nhiêu ngụy đảng loài gian lại hiền. 
Đời ấy những Phật cùng tiên, 
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân. 
Lục thất dư ngũ vạn xuân, 
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao. 
225.Thấy sự thời để chép vào, 
Lâu thời chẳng biết nói sao nên lời. 
Ai mà độ lượng trí tài, 
Công phu chẳng ngại tìm thôi đến này. 
Phò vua vực trị trợ đời, 
230. Ơn trên đức rộng cho trai ơn nhuần. 
Vũ thời phong đại tướng quân, 
Văn thời thất phẩm đại thần cao ngôi. 
Trông ân đức rộng bằng trời, 
Cả dung cho khắp thỏa người tôi con. 
235. Chớ nề bạch ốc chu môn, 
Nam nhi có chí khỏe khôn đều dùng, 
Quân minh lại gặp thần trung, 
Tướng vốn vô dùng điều dụng mới trai. 
Trảo nha những đứng trí tài, 
240. Bất văn thạch phụng nào ai biết gì. 
Ai ai là chẳng nam nhi, 
Sinh chẳng kịp thì nên muộn công danh. 
Trông ơn đức rộng cao minh, 
Tuất cập đến kẻ hết tình làm tôi. 
245. Quân thần tướng tá giúp đời, 
Quân minh thần hiệp mỗi điều cho tin, 
Trợ phù nhà nước khoẻ bền. 
Công phu kiếp trước hữu duyên cùng người. 
Trời sinh lão tướng giúp đời, 
250. Khai quốc cùng toại cho đòi khảm phương. 
Khác nào thuở trước nhà Đường, 
Quân minh lại gặp thần lương mới bền. 
Đời xưa những đấng khá khen, 
Đời nay những đấng tôi hiền ai so 
255.Xưa trượng phu, nay cũng trượng phu, 
Tài nay khá mượn tài xưa giúp đời. 
Mong ơn trên trị chưng đời, 
Chớ hề quên nghĩa phụ người công phu. 
Sống thời ăn bổng lộc vua, 
260.Thác thời ban cấp cho con thơ rày 
Trận tiền hết sức, ra tay, 
Cờ xây súng trỏ sắc rày ban cho. 
Hoặc là tử trận đương cô, 
Quan thời dân xã cấp cho bổng thờ. 
265. Quân thời cấp ruộng điền tô, 
Làm cho con cháu ơn vua đời đời. 
Để cho nức lòng con trai. 
Đến khi có giặc cho trai liều mình. 
Thấy tặc nó hội phụng kinh 
270. Anh hùng ai chẳng liều mình cướp nhau. 
Sống thì chức trọng quyền cao, 
Thác thì miêu duệ ân nhiều giàu sang. 
Lập nên giềng mối kỷ cương. 
Trong an ngoài cũng bốn phương thuận hòa, 
275. Đâu đâu xướng thái bình ca, 
Thiên thuận địa hòa, chủ quý thần vinh. 
Tảo an thiên hạ thái bình, 
Bây giờ sĩ mở lệ thư luật điều 
Sĩ hiền biết bấy nhiêu điều, 
280. Tiên bảo cùng sấm mỗi điều chép ra. 
Khuyên người Nam Việt trai hiền, 
Ai xem cho biết để mà làm công. 
CHÚ THÍCH 
(1). Các bản ghi giáp tí, nhâm tí nhưng bản này ghi canh tí. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 sinh 1491 và mất năm 1585. Canh tí là năm 1540, nhâm tí là 1552; giáp tí là 1564. Năm canh tí là lúc ông 50 tuổi. 
(2). Câu: câu là câu lơn, bao lơn, hành lang. 
(3).Nguyên bản lục thất 六 七 ( lục thất nguyệt gian, lục thất niên gian) có lẽ cổ nhân dùng để chỉ lục thất 陸 室 nhà Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn 阮. 
(4). Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở. 
(5).Kim thời: thời nay. 
(6). Doi: noi theo, theo dõi. 
(7).Nhân duẫn 人允 : duẫn, doãn , chỉ Lê Chiêu Thống, vì trong chữ Thống có chữ Duẫn, Doãn; nói việc Lê Chiêu Thống theo quân Thanh trở về Thăng Long thì bị Nguyễn Huệ đem binh đánh tan, sau đó Nguyễn Ánh đem quân ra Bắc.. 
( 8). tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ 
khí của tuần phu ngày xưa. 
(9). ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt. 
(10). Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch. 
(11).Đoạn này bị sót 
(12).Che nghe : chẳng nghe. 
(13).làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy. 
(14). Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước. 
(15). Bản Mai Lĩnh ghi là Đại ngàn. 
(16). Đỗ: ở đỗ, ở nhờ. 
(17).Tuổi quý 癸. 
BẢN II : * SỞ CUỒNG 1930 & MAI LĨNH 1939 
1. Vận lành mừng gặp tiết lành 
Thấy trong quốc ngữ tập tành nên câu 
Một câu là một nhiệm màu 
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao 
5. Trải vì sao mây che Thái Ất 
Thủa cung tay xe nhật phù lên 
Việt Nam khởi tổ gây nên 
Lạc Long ra trị đương quyền một phương 
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường 
10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề. 
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ 
Mở bản đồ rủ áo chắp tay 
Ngự đao phút chốc đổi thay 
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên 
15. Ðông A âm vị nhi truyền 
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh 
Chấn cung hiện nhật quang minh 
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho 
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu 
20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn 
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật 
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen 
Sửa sang muôn vật cầm quyền 
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho 
25.Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng 
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn. 
Trời sinh ra những kẻ gian 
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài 
Áo vàng ấm áp đà hay 
30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành 
Lấy đạc điền làm công thiên hạ 
Ðược mấy năm đất lở riếng ( giếng) mòn 
Con yết ạch ạch tranh khôn 
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa 
35.Cơ trời xem đã mê đồ 
Ðã đô lại muốn mở đô cho người 
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn 
Suốt vạn dân cưu giận nhạn than 
Dưới trên dốc trí lo toan 
40.Những đua bán tước bán quan làm giàu 
Thống ru nhau làm mồi phú quí 
Mấy trung thần có ý an dân 
Ðua nhau làm sự bất nhân 
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non 
45.Dư đồ chia rẽ càn khôn 
Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau. 
Vội sang giàu giết người lấy của 
Sự có chăng mặc nọ ai đôi 
Việc làm bất chính tơi bời 
50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ 
Xem tượng trời đã gia ( giơ) ra trước 
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa 
Cuồng phong cả sớm liền trưa 
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề 
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết 
Ðể vạn dân dê lại giết dê 
Luôn năm chật vật đi về 
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu 
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng 
60. Cũng một lòng trời chống khác nào 
Xem người dường vững chiêm bao 
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình 
Một góc thành làm tám chúng quỷ 
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân 
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần 
Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần 
Tiếc là những xuất dân làm bạo 
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau 
Nhân danh trọn hết đâu đâu 
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê 
Hùm già lạc dấu khôn về 
Mèo non chi chí tìm về cố hương 
Chân dê móng khởi tiêu tường 
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình 
75.Nội thành hoảng hốt hư kinh 
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang 
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã 
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long 
Quốc trung kinh dụng cáo không 
80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng 
Gà đâu sớm gáy bên tường 
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không 
Thủy binh cờ phất vầng hồng 
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng 
85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước 
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ? 
Ai còn khoe trí khoe năng 
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi 
Chưa từng thấy đời nào sự lạ 
90. Bỗng khiến người giá họa cho dân 
Muốn bình sao chẳng lấy nhân 
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày 
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán 
Ðúc tiền ra bán tước cho dân 
95.Xun xoe những rắp cậy quân 
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công 
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ 
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi 
Thung thăng tưởng thấy đạo trời 
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra 
Cát lầm bốn bể can qua 
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về 
Quân hùng binh nhuệ đầy khe 
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời 
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi 
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ? 
Thương những kẻ ăn rau ăn rới 
Gặp nước bung con cái ẩn đâu 
Báo thù ấy chẳng sai đâu 
110.Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn 
Xin những kẻ hai lòng sự chúa 
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân 
Cho nên phải báo trầm luân 
Ai khôn mới được bảo thân đời này. 
115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy 
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan 
Chữ rằng lục thất nguyệt gian 
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài 
Hễ nhân kiến đã dời đất cũ 
120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) binh ra 
Bốn phương chẳng động can qua 
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi 
Bấy giờ mở rộng qui khôi 
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn 
125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh 
Hoàng phúc xưa đã định tây phong 
Làu làu thế giới sáng trong 
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương 
Rõ sinh tài lạ khác thường 
130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài 
Xem ý trời có lòng khải thánh 
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai 
Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả 
Dùng ở tay phụ tá vương gia 
135. Bắc phương chính khí sinh ra 
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai 
Song thiên nhật rạng sáng soi 
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường 
Ðời này thánh kế vi vương 
140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình 
Uy nghi trạng mạo khác hình 
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài 
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi 
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân 
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân 
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu 
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết 
Xem sắc mây đã biết thánh long 
Thánh nhân cư có thụy cung 
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham 
Lại dặn đấng tú nam chí cả 
Chớ vội vàng tất tả chạy rông 
Học cho biết lý kiết hung 
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi. 
155. Hễ trời sinh xuống phải thì 
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông 
Kìa những kẻ vội lòng phú quí 
Xem trong mình một tí đều không 
Ví dù có gặp ngư ông 
160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng 
Xin khuyên đấng thời trung quân tử 
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh. 
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh 
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay 
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng 
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh 
Võ thông yên thủy, thần kinh 
Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ 
Chớ vật vờ quen loài ong kiến 
170. Biết ray tay miệng biến? nói không 
Ngõ hay gặp hội mây rồng 
Công danh choi chói chép trong vân đài 
Bấy giờ phỉ sức chí trai 
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình 
175.Nặng lòng thật có vĩ kinh 
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao 
Trên trời có mấy vì sao 
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi 
Nước Nam thường có thánh tài 
180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường 
So mấy lời để tàng kim quỉ 
Chờ hậu mai có chí sẽ cho 
Trước là biết nẻo tôn phò 
Sau là cao chí biết lo mặc lòng 
185.Xem đoài cung đến thời bất tạo 
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau 
Nguôi lòng tham tước tham giàu 
Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân 
Trẻ con mang mệnh tướng quân 
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường 
Ai lấy gương vua U thủa trước 
Loạn ru vì tham ngược bất nhân. 
Ðòi phương ong khởi lần lần 
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn 
195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn 
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù 
Ấy là những binh thù thái thái 
Lòng trời xui ai nấy biết ru ? 
Phá điền đầu khỉ cuối thu 
200.Tái binh mới động thập thò liền sang 
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết 
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa 
Lưu tinh hiện trước đôi thu 
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm 
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh 
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng 
Thành câu cá, lửa tưng bừng 
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm 
Chiến trường chốn chốn cát lầm 
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông 
Sang thu chín huyết hồng tứ giả 
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi 
Ðua nhau đồ thán quần lê 
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương 
215.Kẻ thì phải thửa hung hoang 
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan 
Kẻ thì mắc thửa hung tàn 
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình 
Muông vương dựng tổ cắn tranh 
220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành 
Bời bời đua mạnh tranh giành 
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày 
Bể thanh cá phải ẩn cây 
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù 
225,Nào ai đã dễ nhìn u 
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn 
Cây bay lá lửa đôi ngàn 
Một làng còn mấy chim đàn bay ra 
Bốn phương cùng có can qua 
230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân 
Ðoài phương thực có chân nhân 
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người 
Tìm cho được chốn được nơi 
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình 
235.Bốn bề núi đá riễu quanh 
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an 
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc 
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh 
Bắc kinh mới thật đế kinh 
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào 
Chim hồng vỗ cánh bay cao 
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh. 
Ai dễ cứu con thơ sa giếng 
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau. 
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu 
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho 
Cấy cày thu đãi thời mùa 
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai 
Nhân ra cận duyệt viễn lai 
250.Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm 
Xem tượng trời biết đường đời trị 
Gẫm về sau họ Lý xưa nên 
Giòng nhà để thấy dấu truyền 
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời 
255.Thần qui cơ nổ ở trời 
Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường 
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh 
Sông Bảo Giang thiên định ai hay 
Lục thất cho biết ngày dầy (rày) 
260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê 
Có thầy Nhân thập đi về 
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh 
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp 
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời 
265.Ra tay điều đỉnh hộ mai 
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân 
Lọ là phải nhọc kéo quân 
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về 
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng 
270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh 
Ân trên vũ thí vân hành 
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài 
Bản đồ chảng sót cho ai 
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn 
275.Vững nền vương cha truyền con nối 
Dõi muôn đời một mối xa thư 
Bể kình tăm lặng bằng tờ 
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân 
Âu vàng khỏe đặt vững chân 
280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài 
281. Vừa năm giáp tý xuân đầu 
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời 
Quyển vàng mở thấy sấm trời 
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian 
285.Một thời có một tôi ngoan 
Giúp trong việc nước gặp an thái bình 
… . . . . . . . . . 
… . . . . . . . 
Luận chung một tập kim thời 
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi 
Trượng phu có chí thời coi 
290.Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng 
Tài nầy nên đấng vẻ vang 
Biết chừng đời trị biết đường đời suy 
Kể từ nhân doãn mà đi 
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra 
295.Tiếc thay hiền sĩ bao già 
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công 
Thử cho tay giúp ra dùng 
Tài này so cùng tài trước xem sao 
Trên trời kể chín tầng cao 
300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay 
Hiềm vì sinh phải thời này 
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời. 
Hợp đà thay thánh nghìn tài 
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời 
305.Nói ra thì lậu sự đời 
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần 
Nói ra ám chúa bội quân 
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu. 
Chờ cho nhân doãn hết sau , 
310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn 
Trời xui những kẻ ắt (ác?) gian 
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay 
Vua nào tôi ấy đã bày 
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn 
315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi 
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay 
Tiếc tài gẫm được thời hay 
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng 
Tài trai có chí anh hùng 
320.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời 
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời 
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng 
Ði tìm cho đến đế cung 
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn. 
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường 
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài 
Chờ cho động đất chuyển trời 
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng 
Còn bên thì náu chưa xong 
330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là 
Ðời ấy những quỉ cùng ma 
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà 
Trời cao đất rộng bao xa 
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương 
335.Dù trai ai chửa biết tường 
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này 
Ý ra lục thất gian nay, 
Thời vận đã định thời nầy hưng vương 
Trí xem nhiệm nhặt cho tường 
340.Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy 
Vua ngự thạch bàn xa thay 
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng 
Gà kêu vượn hót vang lừng 
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò 
345.Nhân dân vắng mạt bằng tờ 
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay 
Vua còn cuốc nguyệt cày mây 
Phong điều vũ thuận thú rày an dân 
Phong đăng hoà cốc chứa chang 
350.Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây 
Chính cung phương khảm vần mây 
Thực thay thiên tử là nay trị đời 
Anh hùng trí lượng thời coi 
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi 
355.Tìm lên đến thạch bàn khê 
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng 
Nhìn đi nhìn lại cho tường 
Dường như chửa có sinh vương đâu là 
Chảng tìm thì đến bình gia 
360.Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình 
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh 
Tả long triều lại có thành đợt vây 
Hửu hổ uấn khúc giang này 
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta. 
365.Ở xa thấy một con voi 
Cúi đầu quen bụi trông hồ sau 
Ấy điềm thiên tử về chầu 
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời 
Song thiên nhật nguyệt sáng soi 
370.Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu 
Ðến thời thịnh vượng còn lâu 
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm 
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam 
Muốn làm tướng súy thì xem trông này 
375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn 
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn 
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở 
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn 
Kìa cơn gió thổi lá rung cây 
380. Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây 
Tan tác kiến kiều an đất nước 
Xác xơ cổ thụ sạch am mây 
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát 
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy 
385.Một gió một yên ai sùng bái 
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay 
Con mừng búng tít con quay 
Vù vù chong chóng gió bay trên đài 
Nhà cha cửa đóng then cài 
390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân 
Tiếc tám lạng thương nửa cân 
Biết rằng ai có dù phần như ai 
Vắt tay nằm nghỉ dông dài 
Thương người có một lo hai phận mình. 
395.Canh niên tàn phá 
Tuất hợi phục sinh 
Nhị ngũ dư bình 
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh 
Can qua tứ xứ khởi đao binh 
400. Mã đề dương cước anh hùng tận 
Thân dậu niên lai kiến thái bình. 
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu 
Có một đàn xà đánh lộn nhau 
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng 
405.Lợn kia làm quái phải sai đầu 
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ 
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu 
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy 
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu. 
410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định 
Thanh minh thời tiết hoa tàn 
Trực đáo dương đầu mã vĩ 
Hồ binh bát vạn nhập trường an. 
Bảo Giang thiên tử xuất 
415. Bất chiến tự nhiên thành 
Lê dân đào bão noãn 
Tứ hải lạc âu ca 
Dục thức thánh nhân hương 
Qua kiều cư Bắc phương 
420. Danh vi Nguyễn gia tử 
Kim tịch sinh ngưu lang 
Thượng đại nhân bất nhân 
Thánh ất dĩ vong ân 
Bạch hổ kim đai ấn 
425.Thất thập cổ lai xuân 
Bắc hữu kim thành tráng 
Nam tạc ngọc bích thành 
Hỏa thôn đa khuyển phệ 
Mục giả dục nhân canh 
430.Phú quí hồng trần mộng 
Bần cùng bạch phát sinh 
Anh hùng vương kiếm kích 
Man cổ đổ thái bình 
Nam Việt hửu Ngưu tinh 
Quá thất thân thủy sinh 
Ðiạ giới sĩ vị bạch 
Thủy trâm nhi bắc kinh 
Ký mã xu dương tẩu 
Phù kê thăng đại minh 
440.Chư thử giai phong khởi 
Thìn mão xuất thái bình 
Phân phân tùng Bắc khởi 
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh 
Bảo sơn thiên tử xuất 
Bất chiến tự nhiên thành 
Thủy trung tàng bảo cái 
Hứa cập thánh nhân hương 
Mộc hạ châm châm khẩu 
Danh thế xuất nan lường 
450. Danh vi Nguyễn gia tử 
Tinh bản tại Ngưu lang 
Mại dữ lê viện dưỡng 
Khởi nguyệt bộ đại giang 
Hoặc kiều tam lộng ngạn 
Hoặc ngụ kim lăng cương 
Thiên dữ thần thực thụy 
Thụy trình ngũ sắc quang 
Kim kê khai lựu điệp 
Hoàng cái xuất quí phương 
460. Nhân nghĩa thùy vi địch. 
Ðạo đức thùy dữ đương 
Tộ truyền nhị thập ngũ 
Vận khải ngũ viên trường 
Vận đáo dương hầu ách 
Chấn đoài cương bất trường 
Quần gian đạo danh tự 
Bách tính khổ tai ương 
Can qua tranh đấu khởi 
Phạm địch thán hung hoang. 
470.Ma vương sát đại quỉ 
Hoàng thiên tru ma vương 
Kiền khôn phú tái vô lường 
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40) 
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết 
Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân 
Ta hồ vô phụ vô quân 
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành. 
Ðoài phương phúc điạ giáng linh 
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân. 
480. Phá điền thiên tử giáng trần 
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm. 
Trần công nãi thị phúc tâm 
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du 
Tướng thần hệ xuất y chu 
Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành 
Hiệu xưng thiên hạ thái bình 
487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia . 
Nguyễn Bỉnh Khiêm 
Sơn Trung chú thích: 
Bản này là bản phổ biến nhất. Gốc là bản AB.444 tại viện Hán Nôm Hà Nội. BẢN ĐÔNG NAM Á, Saigon 1964 (1962?) cũng giống bản này chỉ khác vài chữ vì đánh máy sai hoặc đọc sai. Các bản khác cũng vậy. Thực ra, bản Mai Lĩnh phiên âm sai (sẽ nói rõ ở bản nôm Trình Quốc Công Ký trong thư viện của cụ nghè Nguyễn Văn Bân do Sơn Trung sưu tập, phiên âm và chú giải sau đây). 
Ngày xưa chữ nôm không đánh số La mã, bản Sở Cuồng và Mai Linh có đánh số , chứng tỏ bản này là tập hợp hai bản khác nhau, không biết cùng của Trạng Trình hay của ai. Bản Trình Quốc CÔng ký tại nhà cụ Nghè Bân là đoạn thứ hai. 
BẢN III * HƯƠNG SƠN 1950? 
Bản này gồm nhiều nhiều bài thơ, khởi dầu ghi là có ngạn rằng, có thơ rằng. Để tiện việc nghiên cứu, Sơn Trung xin đánh số các đoạn theo phân đoạn của nhà xuất bản. 
Nước Nam thường có thánh tài (tr.48) 
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng 
Kia Nhị thủy nọ Đao sơn 
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho 
Học cách vật mới dò tới chốn 
Chép ghi làm một bản xem chơi 
Muôn việc cũng bởi tại trời 
Suy thông mới biết sự đời nhường bao 
Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy 
Truyền hậu thế ai nấy xem cho 
Những lời nghiêm ngặt khôn lo 
Ai mà biết được trượng phu nên người. 
Nay xem chữ một nghĩa mười 
Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên 
Kể từ Lạc Long Quân dựng nước 
Sang Hùng Vương được 18 đời 
Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi 
Cờ lau lập trận thay trời trị dân 
Mão được 12 dư xuân (tr.49) 
Lê Hoàn kế vị xa gần âu ca 
Truyền đã được mười ba rằm lẻ 
Đến Ngọa triều nào kể tài năng 
(2) Ngôi trời truyền đến Lý nay 
Long thành bát diệp đến ngày dực phân 
Chiều Hoàng là ả nữ quân 
(3) Mê về nhan sắc trào Trần thái tôn 
……………………………………………….. 
……………………………………………….. …… 
Trăm bảy mươi in dấu thất niên 
Đông A chốn ấy còn bền 
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam 
Thái ngu được mười bốn năm 
Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi 
Suy ra mới biết sự trời 
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia 
Mười đời ngồi ngự ngai vàng 
Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh su 
Xưa làm lực sỹ đồ du 
Trời cho nên trị làm vua một đời 
Sáu mươi năm bất tái hồi 
Tống Sơn chốn ấy có đời thạch công 
Định mưu phù lập Trang Tôn 
Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương 
Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn 
Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia 
Tây Sơn sừng sực kéo ra 
Nghiệm xem thế tục gọi là hiệu chi ? 
II 
Lại có ngạn rằng: 
(tr.50) Đầu cha chắp lấy đầu con 
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. 
III 
Có thơ rằng: 
Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân 
Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền 
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi 
Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê 
Nọ nào ngang dọc trong huê 
Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn 
Chó mừng chủ, gà cũng cục tác 
Lợn ăn no tha rác, chuột chơi. 
IV 
Ngạn lại có câu rằng: 
Gà bỏ con kêu cục tác 
Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa 
Lợn ăn no ủn ỉn nằm 
Mới kể là đời thịnh thế 
Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai 
Bởi Tần Vương u mê chẳng biết 
Rồi phen này dê lại giết dê 
Tới khi thực tận binh bì 
Âm binh ở giữa ai thì biết sao! 
Trời cho ta giơ dao giết quỷ 
Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư 
Ai từng cứu con thơ sa giếng 
Giốc một lòng chinh chiến đua nhau 
Muôn dân chịu thuở âu sầu 
Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho 
Chốn đông nam là nơi khổ ải 
Lánh cho xa kẻo phải đao binh 
Bắc kinh mới thực đế kinh, 
Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào 
Vả mình là đấng anh hào 
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày 
Bò men lên núi Vu Sơn 
Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù 
Ấy những quân phụ thù thui thủi 
Lòng trời xui ai lại biết đâu… 
Có thơ rằng: 
Dần Mão chư dương giai vị cập (tr. 51) 
Lai chiêu lục thất xuất minh quân 
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ 
Hưng tộ diện trường ức vạn xuân. 
VI 
Có thơ rằng: 
Hầu đáo kê lai khởi chiến qua 
Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa 
Anh hùng mai thảo mã 
Tướng suý tận tiêu ma 
Phá điền thiên tử xuất 
Tràng vỹ tảo sơn hà 
Gà kia bên tường khuya sớm gáy 
Chẳng yêu ra áy náy bất bình. 
VII 
Có thơ rằng: 
Một đám mây xanh đứng giữa trời 
Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi 
Thiên hạ mười phần còn có một 
Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời 
Thầy tăng mở nước trời không bảo. 
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau 
Chớ có tham của tham giàu 
Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân (tr. 52) 
Đằng giang chốn ấy cũng gần 
Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi. 
VIII Thơ rằng: Ba thục riêng một góc trời 
Thái Nguyên một giải là nơi trú đình 
Bốn bề núi đá mọc xanh 
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay 
Bốn mùa chim núi đá cây 
Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào 
Khuyên ai là đấng anh hào 
Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay 
Bốn bụt xuất thế đã chầy 
Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân. 
IX 
Thơ rằng: 
Ấy là điềm xuất thánh quân 
Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường 
Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương” 
Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao 
Nắng lâu ắt có mưa rào 
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa 
Nắng rồi thì phải có mưa 
Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn 
Tuần này thánh xuất khảm phương 
Sự thật đã tường chẳng lọ phải say 
Tuần này thiên địa chuyển hồi 
Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên 
Trời sai quỷ sứ dọn đường 
Để cho thánh xuất khảm phương sau này 
Vội chi đua sức ra tay 
Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi 
Suy cho thấu biết sự đời 
Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa. 
Thơ rằng: 
1- Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền 
2- Ưng tri hoàng thước tại thân biên (tr.53) 
3- Tước bị lạm nhân cung đạn đả 
4- Lạp nhân cách tự hổ lang huyên 
5- Tuệ tinh xuất long xà 
6- Thần xuất cửu cửu gia 
7- Ngưu mã thiên hạ động 
8- Đinh hạ nãi Đông A. 
Rồi ra mới biết thánh minh 
Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò 
Nhị Hà một giải quanh co 
Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào 
Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao 
Có bến mưa rào có thứ cùng chăng 
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước 
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu 
Bấy lâu những cậy phép mầu 
Bây giờ phép ấy để đâu không hào ? 
Cũng có kẻ non trèo biển lội 
Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề. 
XI 
Thơ rằng: 
1- Di lặc giáng sinh 
2- Sa phù dĩ chỉ 
3- Lục thất dĩ thành 
4- Kiến long sào kinh 
5- Nhật xuất điện thượng (tr.54) 
6- Thiên hạ thái bình 
XII 
Thơ rằng: 
Giang Nam nổi trận mạt thù 
Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời 
Phùng trời nay gặp thái lai 
Can qua chiến trận để người phong công 
Trẻ già được hết sự lòng 
Ghi làm một bản nội phòng mở xem 
Rước vua về đến Tràng An 
Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn 
Đời ấy cùng thánh, cùng tiên 
Sinh những người hiền giúp nước yên dân. 
Này những lúc thánh nhân chưa ra đời 
Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu 
Lợn nằm cũng thấy lợn lo 
Thái bình mới động thập thò liền sang 
Ngang cung văn vũ khác thường 
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không 
Thuỷ binh cờ xí vừng hồng 
Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn 
Đứng hiên ngang nào ai biết trước 
Bắc kinh sang có việc gì chăng? 
Ai còn khoe trí khoe năng 
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi 
Chưa từng thấy nay đời sự lạ 
Bỗng khiến người vu vạ cho dân 
Muốn bình sao chẳng lấy nhân 
Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa 
Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán 
Đúc tiền ra bán tước cho dân 
Xun xoe những cậy thánh thần 
Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công 
Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví 
Xưa phục thù ai sửa ngôi cho (tr.55) 
Mạc kia cũng muốn nên trò 
Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay! 
Kẻ thì tự xưng Lê nay 
Tam phân rồi chẳng được gì cả ba. 
Bốn phương cũng có can qua 
Mạc thì chẳng được đã ra lại về 
Quân hùng binh dấy giang khê 
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì… 
XIII 
Thơ rằng: 
1- Hầu đáo kê lai vị chính kỳ 
2- Quốc dân hãm nịch quốc dân di 
3- Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống 
4- Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi 
XIV Thơ rằng (1) Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ 
(2) Tài tận dân hao thế lực suy 
(3) Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến 
(4) Kham tiếu không huyền tiệm thất ky 
Xem thấy những sương sam tuyết lạnh 
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng 
Thành ao cá nước tưng bừng 
Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm 
Chiến trường chốn chốn cát lầm 
Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông. 
Sang thu chín huyết vừng hồng 
Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần 
Trẻ con mang lệnh tướng quân 
Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường 
Dùng uy bát là đường ngũ bá (tr.56) 
Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan 
Cỏ cây lá rụng đầy ngàn 
Một làng còn mấy chim đàn bay ra 
Bốn phương cùng có can qua 
Làm sao còn biết có nhà Đà giang 
Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường 
Kiều môn án trước cao bành tựa sau 
Thái nguyên cận bắc đường sau 
Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ 
Cùng nhau gặp mặt bây giờ 
Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông 
Vui mừng gặp mặt tam công 
Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao 
Mai kia cùng đấng anh hào 
Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành 
Vậy nên một áng phong tình 
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng 
Bõ khi chém lợn vẽ rồng 
Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu 
Bõ khi kẻ việt người Hồ 
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường 
Ngày thường trông thấy quyển vàng 
Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi. 
Tinh thái ất giờ đời là thực 
Sấm trời xem vô giá muôn phần 
Kể từ đời Lạc Long Quân 
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian 
Một đời có một tôi ngoan 
Giúp chưng nhà nước dân an thái bình 
Thấy đâu bò đái thất thanh 
Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi 
Phá điền than đến đàn dê 
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng 
Dê đi dê lại tuôn buồn 
Đàn ghi nó cũng một môn phù trì. 
XV 
Thơ rằng: 
Ghê thay thau lẫn với vàng, (tr.57) 
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng 
Thánh ra tuyết tán mây tan 
Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi 
Can qua việc nước bời bời. Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân 
Lục thất dư ngũ bách xuân 
Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao 
Thấy sấm tự đấy chép vào 
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa. 
XVI 
Thơ rằng: 
Quân hùng binh kéo đầy khe 
Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời 
Bấy giờ càng khốn ai ơi 
Quỷ ma chật vật biết trời là đâu ? 
Thương những kẻ ăn rau, ăn muối. 
Gặp nước buông con cái ẩn đâu ? 
Báo thù ấy chẳng sai đâu 
Đạo trời chẳng trước thì sau chẳng nhầm 
Kia những kẻ hai lòng sự chủ 
Thấy đâu hơn thì phụ sở ân 
Cho nên phải kiếp trầm luân 
Ai khôn mới giữ được thân đời này 
Nói cho hay khảm cung ong dậy 
Chí anh hùng chiếm lấy mới ngoan 
Chữ rằng lục thất nguyệt gian 
Ai mà nghĩ được mới nên anh tài 
Hễ nhân kiến là đời đất cũ 
Thì phụ nguyên mới trổ binh ra 
Bốn phương chẳng động can qua 
Quân hùng nổi dậy điều hoà làm tôi 
Bấy giờ ruộng mở quy khôi 
Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn. 
Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh 
Hoàng phúc kia đã định tay phong 
Lồng lộng thế giới rạng trong, (tr.58) 
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ Vương 
Giời sinh tài lạ khác thường 
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài 
Xem ý trời có lòng khải thánh 
Giốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai 
Trên trời thấy những vì sao lạ 
Dùng ở tay phụ tá vương gia 
Bắc phương chính khí sinh ra 
Có ông Bạch Sỷ điều hoà hôm mai 
Song thiên nhật tượng sáng soi 
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường 
Đời này thánh kế vi vương 
Thu cả đạo đức văn chương trong mình 
Uy nghi trạng mạo khác thường 
Thác cư một góc kim tinh phương đoài 
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi 
Chờ cơ sẻ mới ra đời cứu dân 
Binh thư mấy quyển kinh luân 
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu. 
Khắp đâu đâu anh hùng hẳn biết 
Xem sắc mây vẽ rõ vẻ rồng 
Thánh nhân cư có thuỷ cung 
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham 
Lại dặn đừng tú man chi cả 
Chớ vội vàng tất tả chạy rông 
Học cho biết nhẽ cát hung 
Biết phương hướng đúng, chớ đừng lầm chi 
Hễ trời sinh xuống phải thì 
Bất kỳ nhi ngô tưởng gì đợi mong 
Kìa những kẻ vội lòng phú quý 
Xem trong mình một tý đều không 
Ví dù có gặp Ngư Ông 
Lưới chăng đầu sẵn nên công mà hòng 
Xin khuyên đứng trời trung quân tử 
Lòng trung nghĩa hãy chứa cho tinh 
Âm dương cơ ngẫu ngộ sinh 
Thái nhâm, thái ất trong mình cho hay 
Văn thi luyện nghiên bài quyết thắng (tr.59) 
Học Tử Phòng cùng với Khổng Minh 
Võ thông yên thuỷ thần kinh 
Được vào chiến trận mới lành biết cơ 
Chớ vật vờ quen loài ong kiến 
Biết trao tay miệng tiếng nói không 
Ngộ may gặp hội mây rồng 
Công danh rực rỡ chép trong vân đài 
Bấy giờ phỉ sức chí tài 
Lọ là đâu phải ngược xuôi nhọc mình 
Vương lương thực có vĩ kinh 
Cao tay mới biết ngẫm tình năm nao. 
Trên trời có mấy vì sao 
Đủ cả hiền tướng anh hào đôi nơi. 
Nước Nam thường có thánh tài 
Ai khôn học lấy hôm mai mới tường. 
So mấy lề để tàng kim quỹ 
Chờ sau này có chí mới cho. 
Trước là biết nẻo tôn phù 
Sau là cao trí biết lo mặc lòng 
Xem đoài cung thiên thời bất tạo 
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau 
Chớ có tham tước, tham giàu 
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân. 
Đôi phen ong dấy rầm rầm 
Muông sinh ba góc kéo quân dấy loàn 
Man mác một lĩnh Hoành sơn 
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù 
Ấy là quân phục thù thai thải 
Lòng trời xui ai lại biết chi 
Phá điền đầu khỉ cuối thu 
Tái binh mọi giống thập thò liền sang 
Nọ chẳng thương trong nam khôn xiết 
Vả lại thêm hung kiệt mất mùa 
Lưu tinh hiện trước đôi thu 
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm 
Sang thu chín huyết hồng tứ giã 
Nối đàn dê tranh phá đòi nơi (tr.60) 
Đua nhau quần thán đồ lê 
Bấy giờ thiên hạ khôn bề tựa nương 
Kẻ thì phải thửa hung hoang 
Kẻ thì binh lửa chiến tràng chết oan. 
Kẻ thì mắc phải hung tàn, 
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình 
Muông sinh giông tố cạnh tranh 
Điêu thì làm trước xuất binh thủ thành 
Bời bời đua mạnh tranh hành 
Ra đâu đánh đấy xuất binh sớm ngày 
Bể thành cá phải ẩn cây 
Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù 
Nào ai đã dễ nhìn ru 
Thuỷ chiến bộ chiến mặc dầu đòi cơn. 
Cây bay lá cháy đôi ngàn 
Một làng còn thấy chim đàn bay ra. 
Bốn phương cùng có can qua, 
Làm sao còn biết nơi hoà bảo thân 
Đoài phương thật có chân nhân 
Quần tiên dĩ nghĩa chẳng phân hại người. 
Hễ đông nam nhiều phen tàn tặc 
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh 
Bắc kinh mới thật đế kinh, 
Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào! 
Chim hồng vỗ cánh bay cao 
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh. 
Cấy cày tu dãi thời mùa 
Bây giờ cấy ruộng lo chờ mướn ai 
Nhân ra cận duyệt viễn lai 
Chẳng phiền binh nhọc chẳng phiền lương thêm. 
Xem tượng trời biết đường đời trị 
Ngẫm về sau họ lý xưa nên 
Dòng nhà đã thấy dấu truyền 
Ngẫm xem thế giới còn in đời đời 
Thần quy có nó ở trời 
Để làm thần khí sửa nơi trị trường. 
XVII 
DÂN BỊ KHỔ CHIẾN TRANH TRONG 10 NĂM 
Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh, (tr.61) 
Sông Bảo giang thiên định ai hay ? 
Lục thất cho biết ngày rầy 
(1) Phụ nguyên ấy thực ở dầy (rày) Tào khê 
Có thầy nhân thập đi về 
Tả hữu phù trì cây cỏ là quân 
Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp 
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời 
Ra tay điều đỉnh hộ mai 
Bấy giờ mới biết rằng tài an dân 
Nọ là phải nhọc kéo quân 
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về 
XVIII 
Những bài sấm ngắn 
Trời sinh thiên tử ở hỏa thôn 
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn 
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở 
Hậu sinh thiên tử bảo giang môn 
Canh tân tàn phá 
Tuất hợi phục sinh 
Nhị ngũ dư bình. 
Nhân sinh ngọ tuế vi sư 
Tị nhân vị tướng 
Thìn tuất vị tôn sư 
XIX 
Thơ rằng 
1- Thánh nhân hương 
2- Thuỷ chung tàng bảo cái 
3- Thánh nhân chu xứ (tr.62) 
4- Tử bích hoàn nhiễu, long hổ chầu vào 
5- Chỗ thánh nhân sinh ra 
6- Cận bảo giang thuỷ 
7- Thuỷ nhiễu chu toàn 
8- Thánh nhân danh 
9- Mộc hạ liên đinh khẩu 
10- Thánh nhân diện bộ đạo đức 
11- Nghi quảng tầm chương trích cú 
12- Thánh nhân dĩ hữu niên 
13- Thuỳ năng thức đắc yên 
14- Dãn nhân bất chúc nhĩ 
15- Nhập ba thục xuất thái nguyên 
16- Thánh nhân sinh ư bách sỉ tự tối linh 
17- Thử nhật thiên giáng ngũ sắc vân xích quang màn tự 
18- Tự trung dị hương, tam nhật bất tán 
19- Thầy tăng tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị 
20- Toại chưởng dưỡng chi 
21- Thánh mẫu diện xú như lam 
22- Niên tam thập lục sinh thánh nhân (tr.63) 
23- Hoài nhâm chi nhật 
24- Tam nhật thực nhất lý ngư 
25- Cư ư giang thượng 
26- Quần ngư tranh dược 
27- Mối trạch kỳ, mỗi tiểu chữ thục thực chi 
28- Hậu thường tầm thực chi vu bạch sỉ. 
29.Tự nhi sinh thánh nhân yên. 
30- Nhược ấu thời, cư tại nam nhị thuỷ huyện 
31- Cận gia quan thời cư ư Thái nguyên viên sơn 
32- Thất thập nhị hiền diệc tại thử yên 
DỊCH 
1- Nơi sinh ra ông Thánh nhân 
2- Trong làn nước biếc chứa tàn lọng quý 
3- Chỗ trú ngụ của Thánh nhân 
4- Long hổ bốn bên chầu cả vào 
5- Nơi sinh ra Thánh nhân 
6- Gần sông Bảo giang 
7- Xung quanh đều có nước 
8- Tên hiệu của Thánh nhân 
9- Chữ mộc ở dưới chữ đinh là quẻ ly 
10- Ông thánh nhân diện mão rất có đạo đức 
11- Nên tìm rộng từng bài chọn từng câu 
12- Thánh nhân sinh ra đã lâu năm 
13- Ai đã dễ biết được 
14- Vì người ta chẳng biết vậy 
15- Vào Ba Thục, ra Thái Nguyên 
16- Thánh nhân sinh ở chùa Bạch sỉ rất thiêng 
17- Ngày ấy sinh ra ông thánh nhân trời có năm sắc mây 
18- Đỏ sáng khắp cả chùa 
19- Chùa trong có mùi thơm ba ngày không hết 
20- Lúc bấy giờ có ông sư tu cho điềm lạ có thánh nhân. 
21- Sư bản tự nuôi lớn cho đến trưởng thành 
22- Mẹ ông thánh nhân mặt xấu như đổ chàm 
23- Bà mẹ 36 tuổi sinh ông thánh nhân 
24- Tính từ ngày có thai 
25- Trong ba ngày lại ăn một con cá chép 
26- Trú ở bên sông 
27- Lũ cá tranh nhau nhảy vào 
28- Chọn xem con nào bé thì nấu ăn 
29- Sau thường đi kiếm ăn quanh chùa Bạch Sỉ 
30- Rồi sinh ra ông thánh nhân 
31- Lúc nhỏ sinh ở Nam nhị thuỷ huyện 
32- Lúc lớn ở Thái Nguyên núi Viên Sơn. 
XX 
Thơ vận niên bằng tên các súc vật 
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu 
Có một đàn xà đánh lộn nhau 
Vượn nọ leo cành cho hả dạ 
Lợn kia làm quá phải xoay đầu 
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ 
Ngựa kia đủng đỉnh chạy về tàu 
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy 
Tìm về chốn cũ bắt vào tầu 
Lợn nằm cũng thấy tên thù 
Đại binh đã động phục thù nghênh ngang 
Thánh chúa đang ở hang vàng 
Khi nào chuột bắc cầu sang mới về. 
XXI 
Cửu cửu kiền khôn dĩ định 
Thanh minh thời tiết hoa tân 
Trực đáo dương đầu mã vĩ 
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An (tr.64) 
XXII 
Thục vị lai tại thực vi lai 
Nam môn vị toả, bắc môn khai 
Phong suy ngọc điện lai lai vãng 
Nghĩ tụ kim thành khứ khứ hồi 
Bách tính âu ca thiền vũ dạ 
Cửu châu hoa thảo mả (?) liên đôi 
Thử hồi nhị ngũ thiên chu tống 
Hảo bá sơn đầu tửu nhất bôi. 
XXIII 
Thiên địa tuần hoàn âm phục dương 
Tứ phương binh khởi tứ phương cường 
Tây dương cảnh giới tây dương chủ 
Nam quốc sơn hà, nam quốc vương 
Lý đỉnh tương huyền, hiềm đỉnh trọng 
Mạc thành dục chúc, khủng thành trường 
Hoành sơn lộc tẩu nhân dân cộng 
Thái lĩnh long phi thục cảm đương 
XXIV 
Có thơ rằng 
1- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh (tr.65) 
2- Can qua xứ xứ khởi đao binh 
3- Mã đầu dương cước anh hùng tận 
4- Thân dậu niên lai kiến thái bình . 
XXV 
Thơ rằng 
1- Bảo giang thiên tử xuất 
2- Bất chiến tự nhiên thành 
3- Lê dân đào bảo noãn 
4- Tứ hải lạc âu ca 
5- Dục thức thánh nhân hương 
6- Quá kiều cư bắc phương 
7- Danh vị Nguyễn gia tử 
8.Kim tịch sinh Ngưu lang 
9- Bắc hữu kim thành tráng 
10- Nam tạc ngọc bích thành 
11- Hoả thôn đa khuyển phệ 
12- Mục giã dục nhân canh 
13- Phú quý hồng trần mộng 
14- Bần cùng bạch phát sinh 
15- Anh hùng vương kiếm kích 
16- Minh cổ đổ thái bình . 
XXVI 
Thơ rằng: 
1- Việt Nam hữu Ngưu tinh 
2- Quá thất thân thuỷ sinh 
3- Địa giới sỉ vị bạch 
4- Thuỷ trầm nhĩ bất kinh 
5- Kỵ mã khu dương tẩu 
6- Phù kê thắng đại minh 
7- Trư thử giai phong khởi 
8- Thìn mão xuất thái bình 
9- Thuỷ trung tàng bảo cái 
10- Hứa cập thánh nhân hương 
11- Mộc hạ trâm trâm khẩu 
12- Danh thế xuất nan lường 
13- Danh vị nguyễn gia tử 
14- Tinh bản tại ngưu lang 
15- Mại dữ liên viên dưỡng 
16- Khởi nguyệt hộ đại giang 
17- Hoặc kiều tam lộng ngạn 
18- Hoặc ngụ kim lăng cương 
19- Thiên dữ thần thực thuỵ 
20- Thuỵ trình ngũ sắc vân 
21- Kim kê khai lực diệp 
22- Hoàng cái xuất quý phương 
23- Nhân nghĩa thuỳ vi địch 
24- Đạo đức thục dữ đương 
25- Tô truyền nhi thập ngũ 
26- Vận khải ngũ duyên trường 
27- Vận đáo dương hầu cách 
28- Chấn đoài cương bất chấn 
29- Quần gian đạo danh tự 
30- Bách tính khổ tai ương 
31- Can qua tranh đấu khởi 
32- Phạm địch thán hung hăng 
33- Ma vương sát đại quỷ 
34- Hoàng thiên chu ma vương 
35- Kiến khôn phú tải khôn lường 
36- Đào viên đỉnh phú quần dương tranh hùng 
37- Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết 
38- Nẻo Hoành sơn tam liệt ngũ phân 
39- Ta hồ vô chủ vô quân 
40- Đào viên tan tác ngô dân thủ thành 
41- Đoài phương phúc địa giáng linh 
42- Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân 
43- Phá điền thiên tử giáng trần 
44- Dũng sỹ như hai mưu thần nhược lâm 
45- Trần công nãi thị phúc tâm 
46- Đào Tiềm, xử sỹ giang hồ xuất du 
47- Tướng thần hệ xuất y chu 
48- Chư cơ phục kiến, đường ngu thị thành 
49- Hiệu xứng thiên hạ thái bình 
50- Đông tây vô sự nam thành quốc gia 
51- Phân phân đông bắc khởi 
52- Nhiễu nhiễu xuất đông kinh 
53- Bảo giang thiên tử xuất 
54- Bất chiến tự nhiên thành 
Tên treo ba mối phục thù (tr.68) 
55- Khen thay Khắc Dụng bày trò cho con 
Ngọn cờ nhô nhấp đầu non 
56- Thạch thành mèo lại bon bon chạy về. 
Dặm trường lai láng máu dê 
Con quay ngã trắng ba que cuộc tàn 
Trời nam giở lại đế vương 
Thần nhân không phải là phường thầy tăng 
Đồng giao đã có câu rằng 
57- Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ 
Bấy giờ quét sạch thử ly 
Xin ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm 
Đương khi sấm chớp ầm ầm 
Chẳng qua khó số để găm trị bình 
Thất phu giám chống thư sinh 
Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng 
Nực cười những lũ bàng quan 
59- Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe 
Thôi thôi mặc lũ thằng hề 
Gió mây ta lại đi về gió mây 
BẢN IV * ANH PHƯƠNG 1960? 
CẢM ĐỀ 
1.Thanh nhàn vô sự là tiên, 
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi. 
Cơ tạo hóa, 
Phép đổi dời, 
Ðầu non mây khói tỏa, 
Mặt nước cánh buồm trôi. 
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi, 
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời. 
Tuổi già thua kém bạn, 
Văn chương gởi lại đời. 
Dở hay nên tự lòng người cả, 
Bút nghiên soi hoa chép mấy lời. 
Bí truyền cho con cháu, 
14. Dành hậu thế xem chơi. 
SẤM KÝ 
1. Nước Nam từ họ Hồng Bàng, 
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần. 
Tự Ðinh, Lê, Lý, Trần thưở trước. 
Ðã bao lần ngôi nước đổi thay, 
Núi sông thiên định đặt bày, 
Ðồ thư một quyển xem nay mới rành. 
Hòa đao mộc lạc, 
Thập bát tử thành, 
Ðông A nhật xuất, 
10. Dị mộc tái sinh. 
Chấn cung xuất nhật, 
Ðoài cung vẩn tinh. 
Phụ nguyên chì thống, 
Ðế phế vi đinh. 
15.Thập niên dư chiến, 
Thiên hạ cửu bình. 
Lời thần trước đã ứng linh, 
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường. 
Hòa đao mộc hồi dương sống lại, 
20.Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương. 
Hà thời biện lại vi vương, (1) 
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn. 
Lê tồn Trịnh tại, 
Trịnh bại Lê vong. 
25.Bao giờ ngựa đá sang sông, 
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.(2) 
Hà thời thạch mã độ giang, 
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu. 
Chim bằng cất cánh về đâu ? 
30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công (3) 
Bao giờ trúc mọc qua sông, (4) 
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây. 
Ðoài cung một sớm đổi thay, 
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn. 
35.Ðầu cha lộn xuống thân con,(5) 
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. 
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, (6) 
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê. 
Dục lòng chinh chích u mê, 
40.Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.(7) 
Ðể loài bạch quỷ Nam xâm, 
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly. 
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy. 
Gia đình một ở ba đi dần dần. 
45.Cho hay những gã công hầu, 
Giầu sang biết gởi nơi đâu chuyến này. 
Kìa kìa gió thổi lá rung cây, (8) 
Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây. 
Tan tác Kiến kiều An đất nước. 
50.Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây. 
Lâm giang nổi sóng mù Thao cát, 
Hưng địa tràn dâng Hóa nước đầy. 
Một ngựa một yên ai sùng bái ? 
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay. 
55.Tiền ma bạc quỷ trao tay, 
Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.(9) 
Giữa năm hai bảy mười ba, 
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. (10) 
Rồng nằm bể cạn dễ ai hay, 
60.Rắn mới hai đầu khó chịu thay. 
Ngựa đã gác yên không người cỡi, 
Dê khôn ăn lộc ngoảnh về Tây. 
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu, 
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay, 
65.Chó nọ vẩy đuôi mừng thánh chúa 
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày. 
Nói cho hay khảm cung ong dậy, 
Chí anh hào biết đấy mới ngoan, 
Chữ rằng lục thất nguyệt gian, 
70.Ai mà giữ được mới nên anh tài. 
Ra tay điều đỉnh hộ mai, 
Bấy giờ mới rõ là người an dân 
Lọ là phải nhọc kéo quân, 
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về. 
75.Phá điền than đến đàn dê, 
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng, 
Dê đi dê lại tuồn luồn. 
Ðàn đi nó cũng một môn phù trì. 
Thương những kẻ nam nhi chí cả, 
80.Chớ vội sang tất tả chạy rong, 
Học cho biết chữ cát hung, 
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi. 
Hể trời sinh xuống phải thì, 
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong. 
85.Kìa những kẻ vội lòng phú quí, 
Xem trong mình một tí đều không. 
Ví dù có gặp ngư ông, 
Lưới giăng đâu dể nên công mà hòng. 
Khuyên những đấng thời trung quân tử, 
90.Lòng trung nghi nên giữ cho minh. 
Âm dương cơ ngẩu hộ sinh, 
Thái nhâm, thái ất mình cho hay.. 
Chớ vật vờ quen loài ong kiến, 
Hư vô bàn miệng tiếng nói không. 
95.” Ô hô thế sự tự bình bồng,(11) 
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông. 
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch, 
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng. 
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc, 
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông. 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng, 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong ” 
Ngõ may gặp hội mây rồng, 
Công danh rạng rở chép trong vân đài 
105.Nước Nam thường có thánh tài, 
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ? 
So mấy lề để tàng kim quỹ, 
Kể sau này ngu bỉ được coi, 
Ðôi phen đất lở cát bồi, 
110.Ðó đây ong kiến dậy trời quỷ ma. 
Ba con đổi lấy một cha, 
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền. 
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên, 
Ðợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần. 
115.Hoành sơn nhất đái,(12) 
Vạn đại dung thân. 
Ðến thời thiên hạ vô quân, 
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành 
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh, 
120.Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung. 
Thiên sinh hữu nhất anh hùng, 
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà. 
Thái Nguyên cận Bắc đường xa, 
Ai mà tìm thấy mới là thần minh. 
125.Uy nghi dung mạo khác hình, 
Thác cư một góc kim tinh phương Ðoài. 
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi, 
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân. 
Binh thư mấy quyển kinh luân, 
130.Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu. 
Xem ý trời ngõ hầu khải thánh, 
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai. 
Song thiên nhật nguyệt sáng soi, 
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường, 
135.Thông minh kim cổ khác thường, 
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài. 
Ðấng hiên ngang nào ai biết trước, 
Tài thao lược yêm bác vũ văn. 
Ai còn khoe trí khoe năng, 
140.Cấm kia bắt nọ hung hăng với người, 
Chưa từng thấy nay đời sự lạ, 
Chốc lại mồng gá vạ cho dân. 
Muốn bình sao chẳng lấy nhân, 
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình. 
145.Ðã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán, 
Lại đua nhau quần thán đồ lê. 
Chức này quyền nọ say mê, 
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương. 
Kẻ thì phải thưở hung hoang, 
150.Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình. 
Cửu cửu càn khôn dĩ định, 
Thanh minh thời tiết hoa tàn. 
Trực đáo dương đầu mã vĩ, 
Hồ binh bát vạn nhập Trường An. 
155.Nực cười những kẻ bàng quan, 
Cờ tan lại muốn toan đường chống xe. 
Lại còn áo mũ xum xoe, 
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang. 
Ghê thay thau lẫn với vàng, 
160.Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng. 
Thành ra tuyết tán mây tan, 
Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi. 
Can qua việc nước tơi bời, 
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân. 
165.Oai phong khấp quỷ kinh thần, 
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca. 
Rừng xanh núi đỏ bao la, 
Ðông tàn Tây bại sang gà mới yên. 
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên, 
170.Ngày nay thiên số vận niên rành rành. 
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh, 
Can qua xứ xứ khổ đao binh. 
Mã đề dương cước anh hùng tận, 
Thân Dậu niên lai kiến thái bình. 
175.Sự đời tính đã phân minh, 
Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau : 
Ðầu thu gà gáy xôn xao, 
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long. 
Chó kêu ầm ỉ mùa Ðông, 
180.Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi. 
Lợn kêu tình thế lâm nguy. 
Quỷ dương chết giữa đường đi trên trời.. 
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi, 
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra. 
185.Hùm gầm khắp nẻo gần xa. 
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời, 
Rồng bay năm vẻ sáng ngời, 
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng, 
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng, 
190.Cha con dòng họ thầy tăng hết thời. 
Chín con rồng lộn khắp nơi, 
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu. 
Lời truyền để lại bấy nhiêu, 
Phương Ðoài giặc đã đến chiều bại vong. 
195.Hậu sinh thuộc lấy làm lòng, 
Ðến khi ngộ biến đường trong giữ mình. 
Ðầu can võ tướng ra binh, 
Ắt là trăm họ thái bình âu ca. 
Thần Kinh Thái Ất suy ra, 
200.Ðể giành con cháu đem ra nghiệm bàn. 
Ngày thường xem thấy quyển vàng, 
Của thiên bảo ngọc để tàng xem chơi. 
Bởi Thái Ất thấy lạ đời, 
Ấy thưở sấm trời vô giá thập phân. 
205.Kể từ đời Lạc Long Quân, 
Ðắp đổi xoay vần đến lục thất gian. 
Mỗi đời có một tội ngoan, 
Giúp chung nhà nước dân an thái bình. 
Phú quí hồng trần mộng, 
210.Bần cùng bạch phát sinh. 
Hoa thôn đa khuyển phệ, 
Mục giả giục nhân canh. 
Bắc hữu Kim thành tráng. 
Nam hữu Ngọc bích thành, 
215.Phân phân tùng bách khởi, 
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh, 
Bảo giang thiên tử xuất, 
Bất chiến tự nhiên thành. 
Rồi đây mới biết thánh minh, 
220.Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò. 
Nhị hà một dải quanh co, 
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào. 
Khắp hòa thiên hạ nao nao. 
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ? 
225.Nói đến độ thầy tăng ra mở nước, 
Ðám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ? 
Bấy lâu những cậy phép mầu, 
Bây giờ phép ấy để lâu không hào.. 
Cũng có kẻ non trèo biển lội, 
230.Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề. 
Có thầy Nhân Thập đi về, 
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh. 
Những người phụ giúp thánh minh. 
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai. 
235.Phùng thời nay hội thái lai, 
Can qua chiến trận để người thưởng công. 
Trẻ già được biết sự lòng, 
Ghi làm một bản để hòng dở xem. 
Ðời này những thánh cùng tiên, 
240.Sinh những người hiền trị nước an dân. 
Nầy những lúc thánh nhân chưa lại, 
Chó còn nằm đầu khải cuối thu. 
Khuyên ai sớm biết khuông phù, 
Giúp cho thiên hạ Ðường, Ngu ngõ hầu 
245.Cơ tạo hóa phép mầu khôn tỏ, 
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao. 
Thấy sấm từ đây chép vào, 
248.Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa. 
____ 
SƠN TRUNG 
Sưu tập, hiệu đính và chú thích, 
Bài này được truyền tụng nhiều, là bản A của trường Viễn Đông Bác cổ nay là Thư Viện Khoa Học Xã Hội Hà Nội. Tôi chưa xem bản chữ nôm cho nên không rõ bản này có từ đời nào và so với bản quốc ngữ có khác nhau không. Và bản quốc có do ai bịa ra đọan nào. Tại Sài gòn có bản in của Hoàng Xuân sưu tập, Anh Phương xuất bản trong khoảng 1960, và Thời Tập. Không biết trước đó có bản quốc ngữ nào không? 
Từ câu 1 đến 16 là nói tổng quát, sau đó là nói rõ từng thời kỳ. Bắt đầu nói về nhà hậu Lê của Lê Lợi. Đời Lê mạt, chiến tranh liên miên. 
(1). Biện lại vi vương: Nguyễn Nhạc làm biện lại: Nhà Tậy Sơn nổi lên, chiến tranh liên miên. 
(2). Lê tồn Trịnh tại, 
Trịnh bại Lê vong. 
..Bao giờ ngựa đá sang sông, 
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng. 
Hà thời thạch mã độ giang, 
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu. 
Trịnh Khải bị Tây Sơn giết, họ Trịnh mất thì nhà Lê cũng mất theo. Khi Trịnh Khải xuất bôn, qua làng Vĩnh Lại, kêu gọi cần vương, những ai giúp công giúp của đều được ban quận công cho nên cả làng Vĩnh Lại được phong quận công. 
(3).Chim bằng cất cánh về đâu ? 
30.Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công . 
Nói việc Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết. 
(4). Bao giờ trúc mọc qua sông, 
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây. 
Chưa rõ là gì. 
(5). .Ðầu cha lộn xuống thân con, 
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. 
Nói về nhà Tây Sơn vì vua Quang Trung , chữ Quang có ba nét trên đầu光 nhưng đến con là Cảnh Thịnh, chữ Cảnh景 có ba nét giống đầu chữ Quang mà lại nằm dưới. Nhà Tây Sơn tồn tại trong 14 năm kể từ 1788 là năm Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đến năm 1802 nhà Tây Sơn bị 
diệt vong, Nguyễn Ánh lên ngôi. Nếu kể từ năm tân mão (1771), Tây Sơn khởi nghĩa cho đến1801 thì 31 năm. 
(6).Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê. Nguyễn Ánh tin vào Pháp ( người Tây dương, dương là bể, dương cũng đồng âm với dương là dê , dê chỉ người Pháp) cho nên sau mất nước vào tay Pháp. 
(7). Dục lòng chinh chích u mê, 
Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm. 
Ðể loài bạch quỷ Nam xâm, 
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly. 
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy. 
Gia đình một ở ba đi dần dần. 
Nói vua Tự Đức 嗣德 ( thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm là chữ 德 chỉ vua Tự Đức) và sau đó Dục tông (Dục Đức 育德) để cho Pháp ( bạch quỷ) xâm chiếm Việt Nam. Sự thật thì ta yếu địch mạnh phải thua mặc dù vua quan đã hết sức chiến đấu. Gia đình một ở ba đi dần dần là nói việc sau khi vua Tự Đức băng, ba vị vua nói tiếp bị phế và bị giết là Dực Đức, Hiệp Hòa, và Kiến Phúc . Vua Hàm Nghi lên ngôi sau chống Pháp bị đày. 
(8). Câu 47-54 
Kìa kìa gió thổi lá rung cây, 
Rung Bắc rung Nam Ðông tới Tây. 
. . . . . . . . . . 
Một ngựa một yên ai sùng bái ? 
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay. 
Nói việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa và VNQĐ bị tàn sát. 
(9).Tiền ma bạc quỷ trao tay, 
Ðồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.. 
Cộng sản nổi dậy năm 1930 tại Nghệ An ( Sô Viết Nghệ Tĩnh) 
(10).Giữa năm hai bảy mười ba, 
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. 
Đầu năm 1934, âm lịch có hai tháng bảy thành ra có 13 tháng, Toàn quyền Pasquier ( Bát Kê 
:Tám Gà) bị cháy máy bay mà chết. 
(11).” Ô hô thế sự tự bình bồng, 
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông. 
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch, 
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng. 
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc, 
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông. 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng, 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong . 
Bao giờ đường sắt được thông thương? 
Sau 1945, cộng sản phá cầu đường, thiết lộ bị phá hủy. Sau 1954, miền Nam khôi phục xe lửa trong Nam. Mãi đến sau 1975, đường săt mới thông suốt. Lúc này thì Hồ Chí Minh (1890 – 1969) đã chết mà Mao Trạch Đông (1893 – 1976 ) cũng không còn (Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch).Lúc này cũng xảy ra cuộc hải chiến ở Trường Sa, Hoàng Sa giữa quân Trung Cộng và VNCH (Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng). Hoặc sắp tới có hải chiến tại biển Đông? Và Mỹ Trung Cộng sẽ đánh nhau ( Ưng lai sư tử thượng: Ưng là Mỹ, Sư tử: Trung Quốc), lúc đó Việt Nam và thế giới mới hòa bình. 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng, 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong . 
(12).Hoành sơn nhất đái, 
Vạn đại dung thân. 
Ðến thời thiên hạ vô quân, 
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành 
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh, 
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung. 
Hoành sơn nhất đái nói về họ Nguyễn xưng vương xưng đế nhưng đến thời cộng sản ( vô quân) thì họ Nguyễn cáo chung. Thậy vậy, năm ất dậu (1945), vua Bảo Đại thoái vị. 
BẢN V : TRỊNH VĂN THANH 1966 
1- Thanh nhàn vô sự là tiên 
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi 
Cơ tạo hoá 
Phép đổi dời 
Đầu non mây khói tỏa 
Mặt nước cánh buồm trôi 
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi 
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời 
Tuổi già thua kém bạn 
Văn chương gửi lại đời 
Dở hay nên tự lòng người cả 
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời 
Bí truyền cho con cháu 
Dành hậu thế xem chơi. 
SẤM KÝ 
15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng 
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời 
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước 
Đã bao lần ngôi nước đổi thay 
Núi sông thiên định đặt bày 
Đồ thư một quyển xem nay mới rành 
21- Hoà đao mộc lạc, 
Thập bát tử thành. 
Đông A xuất nhập 
Dị mộc tái sinh. 
25- Chấn cung xuất nhật 
Đoài cung vẫn tinh. 
Phụ nguyên trì thống, 
Phế đế vi đinh. 
29- Thập niên dư chiến, 
Thiên hạ cửu bình. 
Lời thần trước đã ứng linh, 
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường. 
33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại 
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương. 
Hà thời biện lại vi vương, 
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn. 
37- Lê tồn, Trịnh tại, 
Lê bại, Trịnh vong. 
Bao giờ ngựa đá sang sông, 
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng. 
Hà thời thạch mã độ giang. 
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu. 
43- Chim bằng cất cánh về đâu? 
Chết tại trên đầu hai chữ quận công. 
Bao giờ trúc mọc qua sông, 
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây. 
47- Đoài cung một sớm đổi thay, 
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn. 
Đầu cha lộn xuống chân con, 
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi. 
51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi, 
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê. 
Dục lòng chim chích u mê, 
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm. 
55- Để loại quỷ bạch Nam xâm, 
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly 
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy 
Gia đình một ở ba đi dần dần. 
Cho hay những gã công hầu, 
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này. 
61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây 
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây 
Tan tác kiến kiều an đất nước 
Xác xơ cổ thụ sạch am mây. 
65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát, 
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy. 
Một ngựa một yên ai sùng bái? 
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay. 
69- Tiền ma bạc quỷ trao tay 
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua, 
Giữa năm hai bẩy mười ba, 
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. 
73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay, 
Rắn mới hai đầu khó chịu thay, 
Ngựa đã gác yên không người cưỡi 
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây. 
77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu 
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay 
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa 
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày. 
81- Nói cho hay khảm cung ong dậy, 
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan. 
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian 
Ai mà giữ được mới nên anh tài. 
85- Ra tay điều độ hộ mai 
Bấy giờ mới rõ là người an dân 
Lọ là phải nhọc kéo quân, 
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về. 
89- Phá điền than đến đàn dê 
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng 
Dê đi dê lại tuồn luồn 
Đàn đi nó cũng một môn phù trì 
93- Thương những kẻ nam nhi chí cả 
Chớ vội sang tất tả chạy rong 
Học cho biết chữ cát hung 
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi 
Hễ trời sinh xuống phải thì 
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong. 
99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý 
Xem trong mình một tí đều không 
Ví dù có gặp ngư ông 
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng. 
103- Khuyên những đấng thời trung quân tử 
Lòng trung nghi nên giữ cho mình 
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh 
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay. 
Chớ vật vờ quen loài ong kiến 
Hư vô bàn miệng tiếng nói không. 
109- Ô hô thế sự tự bình bồng 
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông 
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch 
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng. 
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc 
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông 
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng 
Tứ phương thiên hạ thái bình phong. 
117- Ngỡ may gặp hội mây rồng 
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài 
Nước Nam thường có thánh tài 
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường? 
121- So mấy lề để tàng kim quỹ 
Kể sau này ngu bỉ được coi 
Đôi phen đất lở, cát bồi 
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma 
125- Ba con đổi lấy một cha 
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền 
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên 
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần. 
129- Hoành Sơn nhất đái 
Vạn đại dung thân 
Đến thời thiên hạ vô quân 
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành. 
133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh 
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung 
Thiên sinh hữu nhất anh hùng 
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà. 
137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa 
Ai mà tìm thấy mới là thần minh 
Uy nghi dung mạo khác hình 
Thác cư một góc kim tinh non đoài 
141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi 
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân 
Binh thư mấy quyển kinh luân 
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu 
145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh 
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai 
Song thiên nhật nguyệt sáng soi 
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường 
149- Thông minh kim cổ khác thường 
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài 
Đấng hiên ngang nào ai biết trước 
Tài lược thao uyên bác vũ văn 
Ai còn khoe trí khoe năng 
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người. 
155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ 
Chốc lại mòng gá vạ cho dân 
Muốn bình sao chẳng lấy nhân 
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình? 
159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán 
Lại đua nhau quần thán đồ lê 
Chức này quyền nọ say mê 
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương 
Kẻ thì phải thuở hung hoang 
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình 
165- Cửu cửu càn khôn dĩ định 
Thanh minh thời tiết hoa tàn 
Trực đáo dương đầu mã vĩ 
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An 
169- Nực cười những kẻ bàng quang 
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe 
Lại còn áo mũ xun xoe 
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang. 
173- Ghê thay thau lẫn với vàng 
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng 
Thánh ra tuyết tán mây tan 
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi. 
177- Can qua, việc nước bời bời 
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân 
Oai phong khấp quỷ kinh thần 
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca 
181- Rừng xanh, núi đỏ bao la 
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên 
Sửu Dần thiên hạ đảo điên 
Ngày nay thiên số vận niên rành rành. 
185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh 
Can qua xứ xứ khổ đao binh 
Mã đề dương cước anh hùng tận 
Thân dậu niên lai kiến thái bình 
189- Sự đời tính đã phân minh 
Thanh nhàn mới kể chyện mình trước sau 
Đầu thu gà gáy xôn xao 
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long. 
193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông 
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi 
Lợn kêu tình thế lâm nguy 
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời 
197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi 
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra 
Hùm gầm khắp nẽo gần xa 
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời. 
201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời 
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng 
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng 
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời 
205- Chín con rồng lộn khắp nơi 
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu 
Lời truyền để lại bấy nhiêu 
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong 
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng 
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình. 
211- Đầu can Võ tướng ra binh 
Ắt là trăm họ thái bình âu ca 
Thần Kinh Thái Ất suy ra 
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn 
215- Ngày thường xem thấy quyển vàng 
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi 
Bởi Thái Ất thấy lạ đời 
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân 
219- Kể từ đời Lạc Long Quân 
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian 
Mỗi đời có một tôi ngoan 
Giúp chung nhà nước dân an thái bình 
223- Phú quý hồng trần mộng 
Bần cùng bạch phát sinh 
Hoa thôn đa khuyển phệ 
Mục giã giục nhân canh 
Bắc hữu Kim thành tráng 
Nam hữu Ngọc bích thành 
Phân phân tùng bách khởi 
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh 
Bảo giang thiên tử xuất 
Bất chiến tự nhiên thành 
233- Rồi ra mới biết thánh minh 
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò 
Nhị Hà một dải quanh co 
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào 
Khắp hoà thiên hạ nao nao 
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng? 
239- Nói đến độ thầy tăng mở nước 
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu 
Bấy lâu những cậy phép màu 
Bây giờ phép ấy để lâu không hào 
243- Cũng có kẻ non trèo biển lội 
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề 
Có thầy Nhân Thập đi về 
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh 
247- Những người phụ giúp thánh minh 
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai 
Phùng thời nay hội thái lai 
Can qua chiến trận để người thưởng công 
251- Trẻ già được biết sự lòng 
Ghi làm một bản để hòng giở xem 
Đời này những thánh cùng tiên 
Sinh những người hiền trị nước an dân 
255- Này những lúc thánh nhân chưa lại 
Chó còn nằm đầu khải cuối thu 
Khuyên ai sớm biết khuông phù 
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu. 
259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ, 
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao. 
Thấy sấm từ đây chép vào 
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa. 
Trịnh Văn Thanh.Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) – Sài Gòn – 1966 
BẢN VI : MINH ĐIỀN 1948 
LỜI NÓI ĐẦU 
Vì sao có quyển sấm nầy ra đời ? – Không dám vọng ngữ , quyển sấm nầy cần phải ra đời vì nó quý báu bằng tất cả kho tàng của một nước Đại Việt và hơn nữa, đã đến giai đoạn cần thiết của thời cuộc hiện tại mà lời sấm đã ghi đúng đắn từng li từng tí mỗi một cuộc biến cố xảy ra trong nước. 
Bắt đầu từ Cổ Am bị tàn phá cho đến ngày lịch sử cách mạng tháng 8, kế đến giai đoạn Hoàng Đế Bảo Đại về nước, mỗi mỗi đều nhốt tất cả trong 487 câu thơ mà Đức Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một bầu tâm sự đầy nhiệt huyết nhả ngọc phun châu cho vạn cổ anh hùng suy nghiệm. 
Hởi các chí sĩ anh hùng trong thiên hạ ! Chớ nên quá ư căn cứ vào khoa học mà chê những truyện sấm giảng là hoang đường, vì có những sấm giảng và sấm giảng.Hoang đường là lời nói vu vơ, ảo mộng không biết bao giờ xuất hiện như lời đã nói. Còn quyển sấm nầy viết từ 400 năm nay mà mỗi mỗi đều ứng nghiệm ngoài đời thực tế cho đến những cái tên riêng của những người chủ trương trong mấy phong trào quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều ứng nghiệm ghi rõ . 
Nó là môn khoa học huyền bí vì Trạng chuyên môn lý số nhờ ở bộ ” Thái Ất Thần Kinh ” mà ghi chép ra chứ nó đâu phải ngất ngưởng như bóng với đồng. Nếu không phải khoa học, sao cụ lại được tặng câu ” Annam lý học hữu học Trình truyền ” của Tàu là một nước bao giờ cũng tự hào rằng mình cao hơn hết về khoa lý số. 
TỰU TRUNG : 
Cũng vì lòng từ bi, bác ái mà đức Trạng có quyển sấm nầy ra cốt để cho các vị trượng phu anh hùng xem lấy mà tránh cái nạn cốt nhục tương tàn. 
Cũng vì lòng yêu nước thiết tha mà Đức Trạng có quyển sấm nầy ra là cốt để cho trong tôn giáo, ngoài xã hội xem lấy biết nẻo tôn phò ” lòng trung nghì ai nhớ cho tinh ” và cũng vì lòng hiếu kỳ mà soạn giả khởi đọc quyển sấm nầy hồi 1930 sau cuộc biến động Cổ Am do Quốc Học Tùng San xuất bản. Soạn giả cũng không nệ hà tài hèn hiến cho bạn đọc những đoạn dịch chánh bản và phụ trương mong rằng thích đúng trong muôn một. 
Viết ở Sài-Thành mùa đông năm Mậu Tí 1948. 
Cư Sĩ MINH ĐIỀN 
PHẦN THỨ NHẤT 
Dục thức thánh nhân xứ 
Đa xuất ứng Bảo giang 
Dục thức thánh nhân hương 
Thủy lam bảo trung tàng 
Dục thức thánh nhân tính 
Mộc hạ liên đinh khẩu 
Dục thức thánh nhân diện 
Tu tẩm trương cú kiến 
Giang nam nhị thủy huyện 
Tại sơn vô hổ lang 
Thất thập nhị hiền tướng 
Phụ tá thánh quân vương 
Phá điền thiên tử xuất 
Bất chiến tự nhiên thành. 
……………………. 
……………………. 
Tư tâm dục thức thánh nhân diện 
Lưỡng biên bàn ngạt tùy nhất khối 
Thủ túc chánh vương tam lương tự. 
PHẦN THỨ HAI 
Cuộc đời ai dễ biết đâu 
Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên 
Quan làng ỷ thế ỷ quyền 
Dân khôn giả dại mới yên phận mình 
Mặc ai chia rẽ thị khinh 
Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn 
Ta tin ta mới đặng an 
Luận bàn bè bạn chỉ đàng cho nhau 
Việc người thì mặc người âu 
Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ 
Muốn yên mồn lặng như tờ 
Luận bàn việc nước thì khô xác hình 
Bởi đời quốc thể bù nhìn 
Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời 
Lương dân than khổ đòi nơi 
Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền 
Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng 
Tham quan hại nước lợi riêng cho mình 
Biết chi là ám với minh 
Sớm ưa trưa ghét dân tình đời ni 
Kim tiền quyền thế tương tri 
Không quyền không thế người khi ngu đần 
Chớ hà hiếp nhớ siêng cần 
Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an 
Nghèo nàn bổng chốc giàu sang 
Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn 
Bởi đời toàn lũ vô hồn 
Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền 
Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền 
Mở miệng thì rặc đồ điên một dòng 
Chừng nào cây sắt trổ bông 
Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi 
Trung thần ái quốc dễ khi 
Phản thần mãi quốc nên ghi để đời 
Thức thời quốc sử bỏ rơi 
Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại mình 
Vô quân vô tướng vô binh 
Trung không cùng chúa cúng kinh ích gì 
Chừng nào lú mọc trên chì 
Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu 
Trí thời giả điếc giả ngu 
Khôn thời giả dại mà tu lấy mình 
Cầm quyền toàn lủ yêu tinh 
Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời 
Mua quan bán tước lấy lời 
Hại dân hại nước coi trời như không 
Bì trung cốt nịnh rặc ròng 
Kết phe kết đảng giết giòng phải nguy 
Nồi da xáo thịt ngộ thay 
Miễn mình béo bở mặc ai ốm gầy 
Cáo kia mượn thế hại cầy 
Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu 
Động tâm Thượng Đế dạy ru 
Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần 
Gió sầu mưa thảm cõi trần 
Thiên luân địa chấn quân thần nó xem 
Canh tân sực nức mùi hèm 
Mhâm quý bằng lặng ngoại binh đem vào 
Giáp thời thấy rõ binh đao 
Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan 
Thiên tai chiến sự đa đoan 
Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời 
Phản thần bán nước khi trời 
Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền 
Nhứt hữu liên sơn nhứt hữu bình 
Tam giang khí địa nhụ giang kinh 
Tu châu tai lạc thế châu khổ 
Ngu lại hườn chung khổ hại mình
Xác dân xung tận cung đình 
Thiên oai chấn nổ luật hình ban ra 
Mười phần mất bảy còn ba 
Mất hai còn một mới ra thái bình 
Trục kia chọi với đồng minh 
Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời 
Ra oai đánh dẹp mọi nơi 
Năm châu bốn bể thây phơi chập chùng 
Mùa xuân gió bấc lạnh lùng 
Cua kình trở gọng về cùng lũ dê 
Cuộc đời như thể trò hề 
Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền 
Sình ương khó nướng xào chiên 
Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề 
Ra đi thì khó nỗi về 
Xe kia hết bánh thả rề sông trôi 
Chừng nào Chợ Lớn hết vôi 
Bề Đông cá đặt cuộc đời lao đao 
Lò rèn thiếu thép rèn dao 
Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi 
Chợ đen vốn một lời mười 
Gạo châu củi quế lời người than van 
Vải bô giá sánh bằng vàng 
Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê 
Tiết trời đánh đổ bông huê 
Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu 
Theo Âu nên phải lo âu 
Mấy ai hiểu nghĩa Bá Di-Thúc Tề 
Khỉ đàn vừa gặp lũ dê 
Bắc trung phải chịu thảm thê họa đầu 
Đại bàng xung phá đài lầu 
Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang 
Rồi Nam cũng chịu lầm than 
Phương đông ba tỉnh phải mang họa sầu 
Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu 
Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau 
Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu 
Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỉ ma 
Khỉ đàn gặp cặp mảng xà 
Trăng tròn thiếu một thì ta xuống hầm 
Yêu đương cũng phải lạc lầm 
Sáu nơi khói lữa sấm gầm Sài môn 
Nghèo nàn không có quách chôn 
Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi 
Nhưng mà họa có đâu thôi 
Bồng con bế cái nổi trôi đầy đàng 
Đến hồi quốc vận lâm nàn 
Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền 
Càng ngày càng đảo càng điên 
Dân ta như thể đàn chiên đánh vồn 
Ô hô giống khéo giống khôn 
Vay thời phải trả xác hồn lìa xa 
Thịt rơi xương nát máu sa 
Thầy tăng chẳng chịu ở nhà phù tang 
Sưu cao thuế nặng ta mang 
Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân 
Thân dậu lánh việc nương thân 
Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây 
Khỉ bầy bị một gà khi 
Cuộc đời như vậy tham chi mà bòn 
Gà mừng gặp lúa túc con 
Miễn con no dạ mất còn kể chi 
Cái năm chiến họa loạn ly 
Mưa to gió họa hại gì tham quan 
Nhơn dân khốn khổ đa đoan 
Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai 
Tu hành hiền hậu chết hoài 
Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng 
Cơ trời định vậy chớ than 
Tương vong yêu nghiệt hành tàng đấy ư ! 
Đầu xuân gà gáy hăm tư 
Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ 
Thiên cơ máy tạo huyền vi 
Tuần hườn máy tạo ai thì có hay 
Nực cười cho lủ vô tài 
Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần 
Xuân phân cho đến thu phân 
Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi 
Buồn buồn tủi tủi vui vui 
Tiếng thì để tiếng muốn lui lắm lần 
Rồi đây bày tỏ trung cang 
Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu 
Văn minh cơ khí đủ điều 
Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành 
Phong luân họa giáng lôi oanh 
Kết phe lập đảng tranh giành thế ni 
Năm châu nổi sóng một khi 
Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo 
Mưa dầu nắng lửa sấm reo 
Hai loài xâu xé họa gieo dân lành 
Đảng dân đại bại tan tành 
Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng 
Tu binh mãi mã chiêu hùng 
Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà 
Rồi sau sanh sự bất hòa 
Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường 
Non cao bể cả đôi đường 
Phân ranh biên giới tỏ tường mới an 
…. 
Đảng dân đại bại tan tành 
Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng 
Tu binh mãi mã chiêu hùng 
Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà 
Rồi sau sanh sự bất hòa 
Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường 
Non cao bể cả đôi đường 
Phân ranh biên giới tỏ tường mới an 
Vầng hồng rọi khắp bốn phang 
Tây phang cuốn gió tìm đàng đào vong 
Bập bồng Tần quốc bập bồng 
Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan 
Hải hồ rửa máu nghỉ an 
Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu 
Thân gà dạ khỉ đấy chừ 
Thì là ngọn lửa mới thu dịu lần 
Kỳ phang thay đổi cuộc trần 
Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru 
Quân minh dân sự ôn nhu 
Heo kia thong thả ngao du đầy đàng 
Chuột mừng gặp cảnh bình an 
Trâu kia thong thà nghêng ngang đồn điền 
Cọp rày làm chúa lâm điền 
CHÓ kia GẶP CHỦ nó cần sủa tru 
UÂN MINH dân sự ôn nhu 
HEO kia THONG THẢ ngao du đầy đàng 
CHUỘT mừng gặp cảnh BÌNH AN 
TRÂU kia THONG THẢ nghênh ngang đồn điền 
CỌP rày LÀM CHÚA lâm điền 
QUÂN THẦN CỘNG LẠC MIÊN MIÊN CỬU TRƯỜNG. 
TRẦN CÔNG nãi thị phúc tâm 
GIANG HỒ SỬ SĨ đào tiềm XUẤT DU 
Tướng thần hệ xuất Y CHU 
Thứ ky PHỤC KIẾN ĐƯỜNG NGU thi thành 
Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH 
487.ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA. 
Thiên cơ máy tạo huyền vi 
Tuần hườn máy tạo ai thì có hay 
Nực cười cho lủ vô tài 
Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần 
Xuân phân cho đến thu phân 
Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi 
KHẢO DỊ 
Ngày nay bản Minh Điền có khác vài điểm . 
1. Một độc giả cho biết phần I và II của bản này là ở phần Phụ trương của Minh Điền. 
Phần I . 
Dục thức Thánh nhân xứ 
Đa xuất ứng Bảo Giang, …….. 
Phần 2: 
Cuộc đời ai dễ biết dâu, 
Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên, 
Quan làng ỷ thế ỷ quyền, 
Dân khôn giã dại mới yên phận mình, 
Măc ai chia rẽ thị khinh, 
Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn, 
Ta tinh ta mới dặng an, 
Luận bạn bè bạn chỉ đàng cho nhau, 
Việc người thì mặc người âu, 
Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ 
Muốn yên mồm lặng như tờ, 
Luận bàn việc nước thì khô xác hình . . . 
Ông bạn cũng cho biết bản Minh Điền cũng tam sao thất bản, tôi không rõ là do chép tay hoặc in đi in lại mà ra thế! 
Các bản đều có câu kết giống nhau: 
Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH 
ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA. 
Theo Phạm Đăng Quế, bản Minh Điền có 487 câu, chỉ có 22 câu giống bản Mai Lĩnh từ câu 374 đến 431, còn lại là khác hoàn toàn. Ông đã trích 50 câu đầu và 30 câu cuối của Mai Lĩnh thì thấy 80 câu này hai bản giống nhau. Tôi chỉ có bản sao của Minh Điền nhưng không có bản chính nên không rõ sự thực như thế nào. 
BẢN NÔM NGUYỄN VĂN SÂM – SƠN TRUNG PHIÊN ÂM 
1. Nước Nam thường có thánh tài 
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng 
Kia Nhị thủy nọ Đảo sơn 
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho 
5. Học cách vật mới dò tới chốn 
Chép ghi làm một bản xem chơi 
Muôn việc cũng bởi tại trời 
Suy thông mới biết sự đời nhường bao 
Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy 
10. Truyền hậu thế ai nấy xem cho 
Những lời nghiêm ngặt khôn lo 
Ai mà biết được trượng phu nên người. 
Nay xem chữ một nghĩa mười 
Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên 
15. Kể từ Lạc Long Quân dựng nước 
Sang Hùng Vương được 18 đời 
Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi 
Cờ lau lập trận thay trời trị dân 
Mão được 12 dư xuân 
20. Lê Hành (1) kế vị xa gần âu ca. 
Truyền đã được mười ba năm lẻ 
Đến Ngọa triều nào kể tài năng 
Ngôi trời truyền đến Lý nay 
Long thành bát diệp đến ngày dực phân 
25. Chiều Hoàng là ả nữ quân 
Mê về nhan sắc trao Trần thái tôn 
Mười hai đời một lòng nhân hậu.(2) 
Trăm bảy mươi in dấu thất niên 
Đông A chốn ấy còn bền 
30. Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam. 
Thái ngu được mười bốn năm 
Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi 
Suy ra mới biết sự trời 
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia 
35. Mười đời ngồi ngự ngai vàng 
Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh sư. 
Xưa làm lực sỹ đô du 
Trời cho nên trị làm vua một đời. 
Sáu mươi năm bất tái hồi 
40. Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công (3) 
Định mưu phù lập Trang Tôn 
Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương 
Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn 
Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia 
Tây Sơn sùng sục kéo ra 
46. Nghiệm xem thế tục gọi là phương ngôn. (4) 
Bài thơ số I 
Thơ rằng: 
Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong. 
Đầu cha chắp lấy đầu con 
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. 
Kẻ sau này ngu Trịnh được lâu 
Bài thơ số II 
Lại có thơ rằng: 
Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân 
Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền 
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi 
Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê 
Nọ nào ngang dọc trong (5) huê 
Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn 
Chó mừng chủ, gà cũng cục tác 
Lợn ăn no tha rác, chuột chơi. 
Bài thơ số III 
Ngạn lại có câu rằng: 
Gà bỏ con kêu cục tác 
Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa 
Lợn ăn no ủn ỉn nằm 
Mới kể là đời thịnh thế 
Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai 
Bởi Tần Vương u mê chẳng biết 
Rồi phen này dê lại giết dê 
Tới khi thực tận binh bì 
Âm binh ở giữa ai thì biết sao! 
Trời cho ta giơ dao giết quỷ 
Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư 
Ai từng cứu con thơ sa giếng 
Giốc một lòng chinh chiến đua nhau 
Muôn dân chịu thuở âu sầu 
Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho 
Chốn đông nam là nơi khổ ải 
Lánh cho xa kẻo phải đao binh 
Bắc kinh mới thực đế kinh, 
Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào 
Vả mình là đấng anh hào 
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày 
Bò men lên núi Vu Sơn 
Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù 
Ấy những quân phụ thù thui thủi 
Lòng trời xui ai lại biết đâu… 
Bài thơ số IV 
Có thơ rằng: 
Dần Mão chư dương giai vị cập 
Lai chiêu lục thất xuất minh quân 
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ 
Hưng tộ diện trường ức vạn xuân. 
Bài thơ số V 
Có thơ rằng: 
Hầu đáo kê lai khởi chiến qua 
Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa 
Anh hùng mai thảo mã 
Tướng suý tận tiêu ma 
Phá điền thiên tử xuất 
Tràng vỹ tảo sơn hà 
Gà kia bên tường khuya sớm gáy 
Chẳng yêu ra áy náy bất bình. 
Bài thơ số VI 
Có thơ rằng: 
Một đám mây xanh đứng giữa trời 
Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi 
Thiên hạ mười phần còn có một 
Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời 
Thầy tăng mở nước trời không bảo. 
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau 
Chớ có tham của tham giàu 
Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân 
Đằng giang chốn ấy cũng gần 
Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi. 
Bài thơ số VII 
Thơ rằng: Ba thục riêng một góc trời 
Thái Nguyên một giải là nơi trú đình 
Bốn bề núi đá mọc xanh 
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay 
Bốn mùa chim núi đá cây 
Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào 
Khuyên ai là đấng anh hào 
Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay 
Bốn bụt xuất thế đã chầy 
Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân. 
Bài thơ số VIII 
Thơ rằng: 
Ấy là điềm xuất thánh quân 
Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường 
Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương” 
Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao 
Nắng lâu ắt có mưa rào 
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa 
Nắng rồi thì phải có mưa 
Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn 
Tuần này thánh xuất khảm phương 
Sự thật đã tường chẳng lọ phải say 
Tuần này thiên địa chuyển hồi 
Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên 
Trời sai quỷ sứ dọn đường 
Để cho thánh xuất khảm phương sau này 
Vội chi đua sức ra tay 
Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi 
Suy cho thấu biết sự đời 
Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa. 
Bài thơ số IX 
Thơ rằng: 
1- Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền 
2- Ưng tri hoàng thước tại thân biên 
3- Tước bị lạm nhân cung đạn đả 
4- Lạp nhân cách tự hổ lang huyên 
5- Tuệ tinh xuất long xà 
6- Thần xuất cửu cửu gia 
7- Ngưu mã thiên hạ động 
8- Đinh hạ nãi Đông A. 
Rồi ra mới biết thánh minh 
Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò 
Nhị Hà một giải quanh co 
Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào 
Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao 
Có bến mưa rào có thứ cùng chăng 
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước 
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu 
Bấy lâu những cậy phép mầu 
Bây giờ phép ấy để đâu không hào ? 
Cũng có kẻ non trèo biển lội 
Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề. 
Bài thơ số X 
Thơ rằng: 
1- Di lặc giáng sinh 
2- Sa phù dĩ chỉ 
3- Lục thất dĩ thành 
4- Kiến long sào kinh 
5- Nhật xuất điện thượng 
6- Thiên hạ thái bình 
Bài thơ số XI 
Thơ rằng: 
Giang Nam nổi trận mạt thù 
Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời 
Phùng trời nay gặp thái lai 
Can qua chiến trận để người phong công 
Trẻ già được hết sự lòng 
Ghi làm một bản nội phòng mở xem 
Rước vua về đến Tràng An 
Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn 
Đời ấy cùng thánh, cùng tiên 
Sinh những người hiền giúp nước yên dân. 
Này những lúc thánh nhân chưa ra đời 
Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu 
Lợn nằm cũng thấy lợn lo 
Thái bình mới động thập thò liền sang 
Ngang cung văn vũ khác thường 
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không 
Thuỷ binh cờ xí vừng hồng 
Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn 
Đứng hiên ngang nào ai biết trước 
Bắc kinh sang có việc gì chăng? 
Ai còn khoe trí khoe năng 
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi 
Chưa từng thấy nay đời sự lạ 
Bỗng khiến người vu vạ cho dân 
Muốn bình sao chẳng lấy nhân 
Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa 
Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán 
Đúc tiền ra bán tước cho dân 
Xun xoe những cậy thánh thần 
Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công 
Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví 
Xưa phục thù ai sửa ngôi cho 
Mạc kia cũng muốn nên trò 
Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay! 
Kẻ thì tự xưng Lê nay 
Tam phân rồi chẳng được gì cả ba. 
Bốn phương cũng có can qua 
Mạc thì chẳng được đã ra lại về 
Quân hùng binh dấy giang khê 
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì… 
Bài thơ số XII 
Thơ rằng: 
1- Hầu đáo kê lai vị chính kỳ 
2- Quốc dân hãm nịch quốc dân di 
3- Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống 
4- Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi 
Bài thơ số XIII 
Thơ rằng 
Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ 
Tài tận dân hao thế lực suy 
Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến 
Kham tiếu không huyền tiệm thất ky 
Xem thấy những sương sam tuyết lạnh 
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng 
Thành ao cá nước tưng bừng 
Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm 
Chiến trường chốn chốn cát lầm 
Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông. 
Sang thu chín huyết vừng hồng 
Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần 
Trẻ con mang lệnh tướng quân 
Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường 
Dùng uy bát là đường ngũ bá 
Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan 
Cỏ cây lá rụng đầy ngàn 
Một làng còn mấy chim đàn bay ra 
Bốn phương cùng có can qua 
Làm sao còn biết có nhà Đà giang 
Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường 
Kiều môn án trước cao bành tựa sau 
Thái nguyên cận bắc đường sau 
Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ 
Cùng nhau gặp mặt bây giờ 
Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông 
Vui mừng gặp mặt tam công 
Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao 
Mai kia cùng đấng anh hào 
Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành 
Vậy nên một áng phong tình 
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng 
Bõ khi chém lợn vẽ rồng 
Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu 
Bõ khi kẻ việt người Hồ 
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường 
Ngày thường trông thấy quyển vàng 
Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi. 
Tinh thái ất giờ đời là thực 
Sấm trời xem vô giá muôn phần 
Kể từ đời Lạc Long Quân 
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian 
Một đời có một tôi ngoan 
Giúp chưng nhà nước dân an thái bình 
Thấy đâu bò đái thất thanh 
Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi 
Phá điền than đến đàn dê 
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng 
Dê đi dê lại tuôn buồn 
Đàn ghi nó cũng một môn phù trì. 
Bài thơ số XIV 
Thơ rằng: 
Ghê thay thau lẫn với vàng, 
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng 
Thánh ra tuyết tán mây tan 
Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi 
Can qua việc nước bời bời. 
Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân 
Lục thất dư ngũ bách xuân 
Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao 
Thấy sấm tự đấy chép vào 
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa. 
______ 
CHÚ THÍCH: 
(1). Nguyên bản viết Lê Hành, các bản phiên là Lê Hoàn 
(2). Mười hai đời một lòng nhân hậu.Các bản thiếu câu này. 
(3). Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công 
Định mưu phù lập Trang Tôn: Nói việc Nguyễn Kim phò Lê Trang Tông. 
(4). Các bản phiên là hiệu chi. 
(5). Chữ nôm là trung. Phải chăng là tung huê? 
Nguồn pdf vietnamvanhien.net

Không có nhận xét nào:

Trang