24 tháng 6, 2016

Mất Trường Sa Lớn và thông điệp gửi Hà Nội



Toàn cảnh mặt chính đảo Trường Sa lớn nhìn từ phía cầu cảng.
Cần cảnh giác trước những nguy cơ rơi vào tay Trung Quốc?
                                           Ảnh: Viễn Sự/ TT. 
* BÙI QUANG VƠM
“Thông điệp khẩn cấp mà chúng ta muốn chuyển tới những kẻ đang nắm trong tay quyền lực của chế độ tại Hà Nội, rằng đảo đã mất, sắp mất hết, biển đang mất và đất nước sẽ mất chỉ do sự mê muội của ý thức hệ cộng sản, mê muội bạn – thù. Hãy thức tỉnh, không còn thời gian nữa! Phía sau các vị không còn dân nữa đâu, đừng ảo tưởng, không còn ai hết, không một người! Không thể có mặt trận nhân dân, không thể có thế trận toàn dân nữa…
Giặc Tàu đến, con cháu của những người bị các vị, bị cái lý tưởng viển vông của các vị lừa bịp, ba mươi năm làm bia đỡ đạn để các vị ngồi trên vinh quang, chia nhau quyền lực, vơ vét làm giàu, bây giờ họ sẽ không bị lừa dối nữa. Nếu giặc đến, các vị hãy mang những lâu đài, biệt thự giát vàng của các vị ra mà đỡ đạ̣n”.
Báo Vnexpress.net đưa tin, “Mỹ hôm qua (22/06/2016), lên tiếng cảnh báo Trung Quốc không nên ‘thực hiện thêm các hành động khiêu khích’, sau khi tòa trọng tài thường trực ra phán quyết về vụ kiện ở Biển Đông. Colin Willett, phó trợ lý ngoại trưởng Mỹ khu vực Đông Á, cho biết, Washington có “rất nhiều cách” để đối phó với bất kỳ động thái nào của Trung Quốc trong khu vực, theo Reuters. Bà nói thêm rằng trong bối cảnh tòa trọng tài thường trực (PCA) ở The Hague sắp đưa ra phán quyết về vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc liên quan đến đường 9 đoạn mà Bắc Kinh tự vẽ ra trên Biển Đông, Mỹ đang tích cực làm việc với các đối tác và đồng minh khu vực nhằm đảm bảo thiết lập một mặt trận thống nhất”.
Chú ý rằng, lời cảnh báo này nhấn mạnh chữ “thêm”, có nghĩa là đã có khiêu khích.Và có thể thấy rằng vụ khiêu khích vừa rồi của Trung Quốc, vụ bắn hạ hai máy bay của Việt Nam, đã không che mắt được ai, nhưng công bố một quy kết lại không thể đơn giản là “biết” hoặc “chắc chắn”, nhất là chính Hà Nội, người bị nạn lại không muốn quy tội cho ai, và âm thầm nuốt hận, hay cắn răng chịu trận. Và Mỹ thì “chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các bạn”như lời Đại sứ Mỹ Ted Osius. (Những phân tích về âm mưu của Trung Quốc, xin xem bài “Chiến tranh biển Đông đã bắt đầu?”).
Bắn hạ hai chiếc máy bay hiện đại của không quân Việt Nam trong hai ngày 14/06 và 16/06, Trung Quốc đã thực hiện một âm mưu khiêu khích.Việt Nam biết và có bằng chứng, Việt Nam có thể công bố và quy kết trách nhiệm cho Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc bồi thường, và theo tập quán ngọai giao, Hà Nội sẽ buộc phải có động thái đáp trả hành vi khiêu khích này. Nhưng nếu công bố kết tội Trung Quốc, Bắc Kinh sẽ lu loa lên rằng ‘Hà Nội vu khống và khiêu khích. Hà Nội lợi dụng Mỹ để công khai chống lại Trung Quốc. Chế độ Hà Nội đã phản bội lại láng giềng, phản bội chủ nghĩa Mác. Hà Nội đã trở thành kẻ thù của nhân dân Trung Quốc, Hà nội phải bị trừng phạt‘.
Tiếp đến, sẽ xảy ra các sự cố tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc “bị bắn”, ngư dân Trung Quốc trên biển thuộc lãnh hải Việt Nam “bị đánh chìm”, tàu chiến tuần tra của Trung Quốc đột nhiên “bốc cháy” gần đảo Trường Sa lớn của Việt Nam, có “bằng chứng tên lửa của Việt Nam được phóng đi từ Trường Sa lớn”, v.v… Tất cả những cái cớ bịa đặt đó mục đích dẫn đến việc Trường Sa lớn của Việt Nam phải bị Trung Quốc trả đũa, và điều sẽ xảy ra là Trường Sa lớn, thủ phủ huyện đảo Việt Nam còn lại trên biển Đông, sẽ bị tiêu diệt và chiếm đọat chỉ trong một đêm, bằng hoả lực không gì cản được.
Bằng việc giả như phớt lờ gợi ý trợ giúp của Mỹ, kêu gọi sự giúp đỡ của chính Trung Quốc, Hà Nội đã hoá giải âm mưu gây chiến đó của Bắc Kinh. Bắc Kinh không thể từ chối một hành động hỗ trợ nhân đạo, và buộc phải làm ngơ, như chưa hề có chuyện cố tình gây chuyện. Đó là biến “mưu của địch làm mưu của ta”, là “tương kế tựu kế”.
Âm mưu khiêu khích của Trung Quốc là tạo cớ gây chiến, lợi dụng hỗn lọan để chiếm đọat tất cả những thực thể còn lại trong quần đảo Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam, trước khi Toà Trọng Tài PCA đưa ra phán quyết, thực hiện chiến thuật “chuyện đã rồi”, nhằm tạo thế không thể đảo ngược và bằng cách này hoàn thành mục tiêu độc chiếm biển Đông.
Nhưng ngay sau khi chiếc SU-30MK2 bị nạn rơi ngày 14/06/2016, Mỹ bằng một cách nào đó, có lẽ đã biết được. Ngày 15/06/2016, Mỹ đã cấp tốc điều 4 tầu chiến điện tử cùng với 120 nhân sự kỹ thuật tới biển phía đông Philippines, có nhiệm vụ gây nhiễu radar đối phương, và liền ngay sau đó, ngày 18/06/2016, cùng một lúc, Mỹ đã điều hai tàu sân bay John C. Stennis và Ronald Reagan hoạt động cùng nhau tại biển Philippines trong tình trạng sẵn sàng tác chiến.
Trong bài phát biểu hôm qua tại một diễn đàn kinh tế ở thành phố Davao, ông Rodrigo Duterte gợi ý rằng “Hiệp định Tương trợ Quốc phòng năm 1951 của các đồng minh không tự động buộc Washington phải giúp Philippines ngay tức thì, nếu nước này đối đầu với Trung Quốc do một xung đột về lãnh thổ. Duterte nói ông đã hỏi Đại sứ Mỹ Philip Goldberg trong cuộc gặp gần đây. “Các vị có sát cánh bên chúng tôi hay không?”, ông Duterte hỏi và ông Goldberg đáp: “Chỉ khi các vị bị tấn công”.
Philippines cũng đã cảm thấy một điều gì khác thường đang đến từ phía Trung Quốc?! Cũng như Việt Nam, họ tất nhiên cũng có tình báo quân sự tại Trung Hoa đại lục.
Như vậy, có thể thấy, ngay cả Philippines, dù được gọi là đồng minh lâu đời của Mỹ, nếu không có một Hiệp định an ninh chung thay cho Hiệp định Tương trợ Quốc phòng, thì khi Philippines có xung đột với Trung Quốc nhằm thu hồi lại Scarboroug, Mỹ vẫn không có quyền tự động can thiệp, trong khi nếu đã thành “chuyện đã rồi” thì không thể đảo ngược tình thế, nghĩa là không thể lấy lại, nếu không bằng một cuộc chiến tranh có tuyên bố với kết thúc bằng sự đầu hàng vô điều kiện của Trung Quốc.
Mỹ đã hoạt động hết sức tích cực. Với bốn tầu chiến điện tử và hai tàu sân bay có mặt tại biển Đông, trong tình trạng sẵn sàng, và với những công bố gần như nói thẳng bản chất những hành vi có chủ đích của Trung Quốc, Mỹ góp phần quyết định hoá giải một phần những thủ đọan không có gì ghê gớm nhưng hung bạo của Bắc Kinh. Sự có mặt của Mỹ có thể khống chế sự hung hăng của Trung Quốc, nhưng Mỹ không có quyền đương nhiên can thiệp những xung đột song phương. Vì vậy, những thủ đọan gây sự cố châm ngòi cho việc sử dụng vũ lực, đặc biệt, riêng với Việt Nam, liên quan tới Trường Sa lớn, có thể vẫn xảy ra. Và trên nguyên tắc, Mỹ chỉ có thể đưa ra thông điệp “luôn luôn có mặt bên cạnh và sẵn sàng giúp đỡ bằng mọi cách, nhưng chúng tôi tôn trọng quyền quyết định của các bạn”. Nếu chỉ có thế thì ngay cả khi chuyện xảy ra, đảo mất, biển mất, thậm chí, không thấy Mỹ hành động, thì nước cũng có thể mất. Hà Nội chỉ có thể ngồi nhìn và Mỹ không thể làm gì ngoài “cực lực phản đối”.
Nhưng phải hỏi, ở phía Việt Nam, khi đã biết Trung Quốc tập trận bắn đạn thật trên biển Đông từ ngày 13/06 tới ngày 17/06, tại sao lại cho tập luyện bay trên biển Đông vào ngày ngày 14/06? Việt Nam răn đe Trung Quốc, hay Việt Nam thông đồng với Trung Quốc để tạo ra sự kiện? Ai đã ra lệnh xuất kích trong tình huống như vậy? Tại sao khi tín hiệu SOS kêu cứu phát ra từ vùng biển Nghệ An, chỉ cách bờ khoảng 20 km theo lời thuật của thiếu tá Nguyễn Huy Cường, lại điều máy bay tuần thám CASA 212 tới đảo Bạch Long Vĩ, sát phía đông đường phân giới vịnh bắc bộ với Trung Quốc để bị rơi? Và tại sao phải cần một ê kíp tới 9 người? Người ra lệnh này là ai? Nhằm mục đích gì? Có thể tin được rằng gián điệp của Trung Quốc nằm ngay trong bộ tư lệnh phòng không, không quân, ngay trong bộ chỉ huy tìm kiếm cứu nạn, và trong bộ tổng tham mưu? Trước mắt, có thể cách chức, thậm chí bắt giam ngay, chờ điều tra người ra quyết định xuất kích bay tập trong khi Trung Quốc đang diễn tập bắn đạn thật tại biển Đông. Xử bắn công khai, nếu là gián điệp Trung Quốc. Nếu là một kế hoạch được chuẩn bị trước, thì hãy hình dung, những kẻ phản bội này táng tận lương tâm đến mức nào và thực tế chất lượng của quân đội Việt Nam hiện nay ra sao.
***
Thông điệp khẩn cấp mà chúng ta muốn chuyển tới những kẻ đang nắm trong tay quyền lực của chế độ tại Hà Nội, rằng đảo đã mất, sắp mất hết, biển đang mất và đất nước sẽ mất chỉ do sự mê muội của ý thức hệ cộng sản, mê muội bạn thù. Hãy thức tỉnh, không còn thời gian nữa. Phía sau các vị không còn dân nữa đâu, đừng ảo tưởng, không còn ai hết, không một người. Không thể có mặt trận nhân dân, không thể có thế trận toàn dân nữa. Cái từng đem lại cho các vị “chế độ”, đã chuyển sang phía bên kia chiến tuyến, đối diện với chính các vị rồi. Họ đã từng nâng thuyền và bây giờ họ sẽ là những người lật thuyền.
Giặc Tàu đến, con cháu của những người bị các vị, bị cái lý tưởng viển vông của các vị lừa bịp, ba mươi năm làm bia đỡ đạn để các vị ngồi trên vinh quang, chia nhau quyền lực, vơ vét làm giàu, bây giờ họ sẽ không bị lừa dối nữa.
Nếu giặc đến, các vị hãy mang những lâu đài, biệt thự giát vàng của các vị ra mà đỡ đạ̣n. Sau những việc cướp đọat làm giàu trên xương máu người dân, các vị vẫn tin rằng người dân sẽ bảo vệ các vị, để các vị tiếp tục có chức có quyền, tiếp tục bòn rút xương tuỷ người lao động nghèo đói nữa hay sao?
Đành rằng không ai có quyền quy kết tất cả, trong các vị vẫn có những con người chính trực. Chúng ta đang chờ những con người đó hành động. Hãy tỉnh táo và suy ngẫm. Cái gì làm nên sự đổ vỡ của lòng dân, cái gì, nguyên nhân nào làm ra sự suy sụp nền đạo đức của một dân tộc giàu nhân bản, giàu lòng vị tha và yêu công lý như dân tộc Việt Nam?
Các vị trông chờ vào cứu cánh của ý thức hệ cộng sản, của chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhưng những tên đồ tể đại Hán ở Trung Nam Hải không còn là những đồ đệ của Mác nữa, chúng chiếm biển Việt Nam, đất Việt Nam không phải để bảo vệ “lý tưởng tương đồng” với các vị, mà là để chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ.
Hãy tỉnh lại, chủ nghĩa Mác chết rồi, bản chất xã hội loài người đã thay đổi, không còn man rợ như những gì in trên nhận thức đơn sơ và chết cứng của Mác. Nếu lịch sử là một quá trình tự hoàn thiện mình, thì hình ảnh gần nhất với mơ ước của Mác chính là các xã hội phát triển nhất trên hành tinh, không phải một Trung Quốc đang vật vã với những tư duy của những triều đại phong kiến trung cổ, tham lam và mông muội.
Không có cái “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà các vị suốt 35 năm tìm kiếm. Không biết các vị thật tâm lần mò hay các vị cố tình tự lừa dối mình và lừa dối mọi người. Nếu thật tâm các vị mò mẫm tìm kiếm cái quái thai không tồn tại ấy, thì hãy xem lại cái phần não bộ, quả thật là có vấn đề thiếu hụt. Thị trường là Tự do cá nhân cộng với sở hữu Tư nhân. Những gì Việt Nam có hôm nay, những cái đã cứu cái chế độ của các vị thóat chết, chính là những gì đến từ cái phần thị trường trong cái nền kinh tế nửa dơi nửa chuột mà các vị chủ trương. Nó còn phôi thai, nhưng sẽ chết dần bằng các chủ trương tập thể hóa và quốc hữu hoá sở hữu, để tiến tới nền kinh tế phi sỡ hữu xã hội chủ nghĩa. Đó là sản phẩm của một lối tư duy ấu trĩ về lý thuyết kinh tế và siêu hình của lôgíc thực tiễn.
***
Đành rằng những thông điệp này xuất phát từ giả thuyết hai máy bay của Việt Nam bị nạn do Trung Quốc cố tình bắn hạ, nhằm âm mưu tạo sự kiện để gây chiến, nhưng bất kể sự kiện đã xảy ra như thế nào và nguyên do từ đâu, thì nguy cơ biển đảo Việt Nam mất vào tay Trung Quốc vẫn là nguy cơ có thật, chỉ là chuyện mất lúc nào và mất như thế nào. Việc căn bản là xác định ai là thù và ai là bạn. Một điều không người Việt Nam nào không biết, rằng kẻ thù trực tiếp và truyền kiếp của dân tộc Việt Nam là vua chúa các triều đại Trung Hoa và những kẻ cầm quyền hiện nay tại Bắc Kinh. Nguy cơ mất biển, mất đảo, dần tới mất nước là tư tưởng bá quyền thâm căn, không thể thay đổi của chủ nghĩa bành trướng đại Hán Trung Quốc. Đó là kẻ thù. Hợp tác với kẻ thù là tạo điều kiện cho kẻ thù thực hiện dã tâm từ trong nhà, lợi dụng hợp tác để thiết chặt các trói buộc lệ thuộc, để đoạt quyền kiểm soát trong tình huống xảy ra xung đột, để kiến trúc dần những điều kiện chiếm đọat cuối cùng.
Cần phải quy thành tội tất cả những hành vi hợp tác với kẻ thù thư tội gián điệp, tội phản quốc. Khi đã xác định Trung Quốc cộng sản là kẻ thù, thì tất cả những kẻ thực hành các hoạt động hợp tác với Trung Quốc cộng sản đều là tội phản quốc. Thực chất, tình trạng Việt Nam bị lệ thuộc Trung Quốc cả về tư tưởng lẫn kinh tế như hiện nay, nhất là tình trạng chiếm cứ các khu vực có địa thế hiểm yếu, tạo thành thế xen cài răng lược, là sản phẩm của hợp tác với Trung Quốc, sản phẩm của sự mê muội ý thức hệ và lòng tham hèn hạ trong hàng ngũ những người lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam.
Không cần biết người ta định nghĩa diễn biến hoà bình là gì, nhưng những kẻ lẫn lộn giữa man rợ và văn minh nhân loại, giữa nô lệ và tự do nhân bản, giữa lòng bao dung và hận thù, phải bị coi đầu tiên là kẻ thù của mọi diễn biến. Đến với tiến bộ, đến với nền văn minh chung, hoà nhập vào hệ thống giá trị chung của nhân lọai phải là một diễn biến mong đợi. Nếu diễn biến đó xảy ra một cách hoà bình thì là một quá trình diễn biến hợp lòng người, hợp thời đại. Các vị chẳng nên lo sợ. Chỉ có những người bạn mới tìm cách đến với các vị một cách hoà bình, kiên nhẫn chờ đợi sự chuyển biến chậm trễ của các vị. Ngược lại, hãy nhìn những gì Trung Quốc làm, đó không phải là diễn biến hoà bình, đó là một diễn biến cũng đến từ từ nhưng man rợ, biến các vị và đồng bào của các vị ban đầu thành những tên nô lệ, rồi sau đó mất hẳn khỏi loài người.
Cần phải có ngay lập tức một Hiệp định an ninh tương hỗ cho phép Mỹ quyền đương nhiên và tức khắc can thiệp, mỗi khi Việt Nam có xung đột vũ trang đe dọa an ninh biển đảo và chủ quyền quốc gia. Không còn thời gian nữa. Nguy cơ tổn thất tài sản và hy sinh con người trên các đảo và đá có quân đội túc trực và dân cư sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa, đặc biệt là Trường Sa lớn, thủ phủ của huyện đảo Trường Sa đang hiện rõ từng ngày, có khả năng xảy ra trước ngày phán quyết của Toà trọng tài PCA ngày 07/07/2016.
Không cho phép bất kỳ ai chần chừ. Trách nhiệm về chủ quyền quốc gia và sinh mạng những con người này trước hết và trên hết thuộc về những cá nhân trong Thường vụ Quân uỷ Trung ương, bao gồm Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch, Tổng cục trưởng Tổng cục chính trị Lương Cường, Tổng tham mưu trưởng Phan Văn Giang và Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.
Không có gì có thể cứu vãn được tình thế hiểm nguy của đất nước trong lúc này, ngoài một Hiệp định với Mỹ, kể cả một Hiệp định không công bố.

Không có nhận xét nào:

Trang