* PGS, TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG
Đạo luật pháp quyền là văn
bản của cơ quan quyền lực nhà nước không chỉ được thông qua và bảo đảm bởi Nhà
nước hay các định chế xã hội mà còn phải phù hợp (về nội dung, hình thức, thủ
tục) với các nguyên tắc của ý thức pháp luật xã hội, phù hợp với các quy phạm
của hiến pháp và do vậy, có hiệu lực đầy đủ trong phạm vi hệ thống pháp luật.
Đối với xã hội hiện đại, khái niệm và quan điểm về đạo luật
pháp quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản của tính hợp hiến, tính pháp
quyền của các văn bản, hành vi của các thiết chế chính trị - nhà nước và điều
chỉnh pháp luật các nhu cầu đa dạng của xã hội, của công dân. Nói cách khác,
đạo luật pháp quyền là đạo luật được ban hành và thực hiện theo luật pháp
quyền.
Ngay từ xa xưa, người ta đã
nói về khả năng tồn tại các đạo luật thực định khác nhau theo các tiêu chí khác
nhau để xác định tính đúng đắn hay không đúng đắn, tức là tính pháp quyền hay
không pháp quyền của đạo luật nào đó. Tiêu chí đúng đắn được người xưa dùng là
“phúc lợi chung”, “lợi ích chung”, “hợp đạo lý tự nhiên”, “hiệu quả thực tế”,
“phù hợp với ý Trời”… Thậm chí, người ta bàn đến xung đột giữa luật và ý Trời
và cho rằng, con người sẽ không bị coi là tội lỗi nếu như không tuân thủ luật
được ban hành trái với ý Trời. Và cũng có quan niệm về việc vi phạm luật Trời
đã được thể hiện trong luật tự nhiên chỉ có thể thực hiện bởi người cầm quyền,
người ban hành luật. Các nhà hiền triết cổ đại đã nói về nguyên tắc cai trị và
chấp pháp mặc nhiên mang tính huyền bí của Chúa Trời. Tư tưởng thời trung cổ
đưa ra nguyên tắc đại diện đẳng cấp như bước bổ sung, bước trung gian thể hiện
ý niệm tuyệt đối của nhà cầm quyền và các văn bản pháp luật của nhà cầm
quyền.** Thuyết pháp quyền tự nhiên của Hê-ghen cũng đã đề cập đến luật pháp
quyền khi nói về nhà nước pháp quyền (NNPQ).
Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã
hội, quan niệm về “luật pháp quyền” cũng có sự thay đổi. Vai trò to lớn trong
việc hợp pháp hóa, luật lệ hóa các văn bản pháp luật là quan niệm về các quyền
tự nhiên của cá nhân mà chỉ con người mới có từ khi sinh ra và để con người có
quyền bình đẳng. Hiệu lực của các đạo luật gắn với lợi ích chung, lợi ích của
đa số công dân trong nhà nước. Ưu thế nổi trội của nhà nước về mặt luật pháp là
dựa vào ý chí của nhân dân (thuyết khế ước xã hội) và trở thành pháp quyền, bắt
buộc, khi luật phù hợp với ý chí của nhân dân. Để làm được điều đó cần coi
trọng các cơ quan đại diện - các cơ quan lập pháp đang kiểm tra hoạt động của
chính phủ (nhà vua).
Về nội dung của luật pháp quyền: cần thấy rằng văn bản pháp luật
chỉ được coi là có hiệu lực lâu dài, cần thiết và hợp lý nếu những quy định
trong đó trùng hợp với những đòi hỏi của ý niệm tuyệt đối - chủ thể của pháp
luật tự nhiên. Từ thế kỷ XVII-XVIII, nhờ quan niệm này mà trong triết học pháp
quyền đã thiết lập nguyên tắc bình đẳng về hình thức pháp luật của tất cả mọi
người tham gia hệ thống các quan hệ pháp luật bằng sự thống nhất về bản chất
của lợi ích và nhu cầu. Trong quan niệm cổ điển của thuyết pháp quyền tự nhiên
của J.J. Rút-xô, cơ chế kiểm tra của bộ máy chính trị - nhà nước được dùng để
cân bằng lợi ích của toàn dân, của các nhóm, các giai tầng và các lợi ích cá
nhân. Và sự cân bằng đó chỉ có thể đạt được, vẫn theo tư tưởng của J.J. Rút-xô,
khi có sự phân quyền và tôn trọng tính tối cao của luật và không chỉ là trật tự
pháp luật tối ưu mà còn là tổ chức chính trị lý tưởng nói chung.
Dần dần, người ta thấy tính tích cực của dân
chúng tăng cao trong quan hệ với hệ thống pháp luật của nhà nước, xuất hiện học
thuyết “chủ quyền nhân dân” của J.J. Rút-xô không những trong lĩnh vực lập pháp
cụ thể mà cả trong lĩnh vực lập pháp có tính nguyên tắc. Trong triết học cổ
điển Đức, I. Kant và Hê-ghen đã có tư tưởng cơ bản về luật pháp quyền, bao hàm
những thành tựu cơ bản của thời bấy giờ. Trước hết cần nhấn mạnh sự khác biệt
nội tại giữa luật pháp quyền và luật đạo đức: triết học của Kant khẳng định
nguyên tắc tính độc lập về đạo đức của cá nhân trong mối tương quan với nghĩa
vụ pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên, tính độc lập tuyệt đối của đạo đức phải
đồng hành cùng pháp luật và phục tùng pháp luật do nhà nước ban hành bởi lẽ,
luật của nhà nước (thậm chí trong trường hợp không phải là sự lựa chọn tối ưu)
vẫn là nền tảng của trật tự pháp luật bền vững và là tiền đề tạo ra cộng đồng
hoàn thiện về đạo đức.
Triết học pháp quyền của Hê-ghen về cơ bản
dựa vào nguyên tắc lô gic hai chiều: chia pháp luật và luật như “ý niệm” và “sự
tồn tại”, một mặt, nó là sự đồng nhất biện chứng giữa pháp luật và luật; mặt
khác, sự luận giải của Hê-ghen “pháp luật là cái gì đó thiêng liêng vì lẽ nó là
cái tồn tại của ý niệm tuyệt đối, của sự tự do nhận thức”. Điều đó cho phép Hê-ghen
đưa ra sự khẳng định rằng, trên thực tế trong các hệ thống luật lệ hiện hành
không phải bất cứ đạo luật nào hay văn bản pháp luật nào cũng là luật pháp
quyền. Mặt khác, vì nhà nước được xem là “ý chí thông thái của nó và cho nó” đã
bảo đảm việc thực hiện của bất kỳ văn bản nào do nó ban hành vì trong văn bản
đó có hạt nhân hợp lý. Và suy cho cùng, mọi nguyên tắc và tư tưởng pháp luật
đều có tính hiện thực thông qua hoạt động lập pháp của nhà nước. Trong trường
hợp này, theo Hê-ghen, dấu hiệu cơ bản của Luật pháp quyền là khả năng của đạo
luật “gắn kết tốt giữa cái cá nhân và cái xã hội” tức là khả năng thúc đẩy lợi
ích chung của nhà nước đồng thời bảo đảm quyền, tự do và lợi ích chính đáng của
từng người dân.
Nhiều nhà khoa học cuối thế kỷ XVIII cho
rằng, tính pháp quyền (luật pháp quyền) nghiêng về phía tạo dựng các thiết chế
và thủ tục cho phép bảo đảm và bảo vệ quyền của cá nhân, thậm chí, điều đó trái
với ý chí và hành động của nhà cầm quyền - nhà nước. Và cũng từ đó xuất hiện tư
tưởng về tính độc lập của tòa án, của chính quyền địa phương và việc nâng cao
vai trò của hoạt động lập pháp. Quan niệm về pháp luật thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị và trấn áp các giai cấp bị trị. Các quan niệm bảo thủ của chế độ
chính trị hiện vẫn có nguyên giá trị, vẫn là quan niệm đúng về mối quan hệ các
lợi ích xã hội - giai cấp và tính tích cực pháp lý của các chủ thể, nhưng về
mặt nào đó có thể sẽ làm giảm ý nghĩa của tính pháp quyền của hệ thống pháp
luật, làm giảm giá trị của luật pháp quyền.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã hình thành khái
niệm luật pháp quyền toàn diện và mềm dẻo tạo thành cơ sở cho quan niệm hiện
đại về NNPQ và xã hội pháp quyền hiện đại. Những đặc trưng của quan niệm này
là:
- Luật pháp quyền dựa trên cơ sở các nguyên tắc hiến pháp
và không thể trái với hiến pháp cả về nội dung lẫn hình thức;
- Trình tự xây dựng và thông qua luật pháp quyền
luôn luôn diễn ra theo nhiều cấp và đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các nhánh
quyền lực được quy định trong hiến pháp;
- Luật pháp quyền có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ quốc
gia, đối với mọi tầng lớp dân cư, không có ngoại lệ;
- Hiệu lực của luật pháp quyền tác động tới mọi
cấp, mọi thiết chế quyền lực chính trị và bất kỳ hành vi của bất kỳ cơ quan nhà
nước nào đều phải phù hợp với pháp luật quốc gia;
- Hiệu quả của luật pháp quyền phụ thuộc vào trình
độ phát triển của ý thức pháp luật của xã hội, phụ thuộc vào niềm tin của công
dân và việc công dân sẵn sàng tuân thủ quy định của nhà nước;
- Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi của công dân chứ không điều
chỉnh đời sống tinh thần của công dân;
- Luật pháp quyền bảo đảm tính toàn vẹn và bất khả
xâm phạm các quyền và tự do cố hữu của cá nhân, bảo vệ nhân phẩm và an ninh cho
cá nhân;
- Luật pháp quyền không có
hiệu lực hồi tố (tức là luật không điều chỉnh các hành vi xảy ra trước khi luật
có hiệu lực);
- Luật pháp quyền chỉ có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ
khi tuân thủ mọi trình tự, thủ tục theo quy định của hiến pháp;
- Xét về mặt nội dung, luật pháp quyền cần hướng tới
bảo đảm lợi ích của đa số công dân hay của nhà nước nói chung, nhưng ở mức độ
nhất định phải có sự bồi thường thiệt hại cho lợi ích của thiểu số (điều không
tránh khỏi xét về quy mô và sự đa dạng của xã hội hiện đại).
Những đặc trưng trên đây của luật pháp quyền hay
tính pháp quyền của hệ thống pháp luật là tính tối ưu của ý thức pháp luật xã
hội hiện đại, nhưng nếu nói về khả năng hiện thực có thể đạt tới của bất kỳ văn
bản pháp luật nào thì quả là khó. Trong thực tiễn đời sống chính trị - pháp
luật của các xã hội hiện đại chỉ có thể nói về mức độ cao hay thấp của sự xích
lại gần với tính tối ưu của luật pháp quyền. Ở đây cần phải tính tới bản thân
sự phụ thuộc của quan niệm và vai trò của tính pháp quyền của hệ thống pháp
luật vào thực trạng lịch sử - xã hội, của kiểu các quan hệ xã hội và tổ chức
quyền lực chính trị của đời sống xã hội.
Chúng ta đang xây dựng NNPQ Việt Nam xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Điều này đã được quy định trong Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2001). Về NNPQ cũng có vô số những quan niệm khác nhau,
được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Do đó, không thể có một định nghĩa
ngắn gọn về NNPQ, mà cần phải xem xét NNPQ từ nhiều khía cạnh, phương diện khác
nhau. Về mặt nhận thức, theo chúng tôi, NNPQ có những đặc trưng mang tính phổ
biến sau:
- Trước hết, đó là nhà nước hợp hiến, hợp pháp; nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó các đạo luật chiếm ưu thế trong hệ
thống pháp luật. Luật ban hành có hiệu lực áp dụng trực tiếp, không cần ban
hành các văn bản dưới luật nhằm thi hành luật. Trong điều kiện cần thiết phải
ban hành các văn bản để thực hiện luật, các văn bản đó không thể có quy định
trái hoặc khác với luật.*
- Nhà nước, các cơ quan của nhà nước phải đặt mình
dưới pháp luật, lệ thuộc vào pháp luật. Trong mối quan hệ giữa nhà nước với
pháp luật thì “tính trội” thuộc về pháp luật. Ở khía cạnh này, pháp luật như là
công cụ, phương tiện để hạn chế quyền lực nhà nước, hạn chế công quyền.
- NNPQ là nhà nước trong đó các quyền tự do của công
dân ngày càng được mở rộng, được bảo đảm, bảo vệ bằng cơ chế pháp luật, bằng các
tiền đề, điều kiện về kinh tế - xã hội, bằng tổ chức nhà nước. Như vậy, pháp
luật là công cụ, phương tiện ghi nhận, bảo vệ các quyền công dân.
- Trong NNPQ, vai trò của toà án được đề cao,
các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp phải độc lập một cách tương đối, phối
hợp với nhau và phải có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau, tạo sự cân bằng hay
phân công hợp lý giữa các nhánh quyền lực nhà nước. Tòa án độc lập thể hiện
trong những quy định về tổ chức, hoạt động và thực tiễn xét xử của tòa án.
- NNPQ là nhà nước mà trong đó thiết lập mối quan hệ
trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước và nhà nước với công dân. Công
dân có trách nhiệm với nhà nước và nhà nước có trách nhiệm với công dân. Công
dân là chủ thể, là mục tiêu và động lực phát triển của nhà nước và xã hội. Mọi
chính sách, pháp luật của nhà nước đều hướng tới mục đích cao nhất là phục vụ
nhân dân và bảo vệ quyền con người.
Ngoài những đặc điểm mang tính phổ biến đó, NNPQ
Việt Nam lại có một số đặc điểm mang tính riêng biệt của mình thể hiện định
hướng chính trị của nhà nước, tính chất, bản chất của nhà nước mà Việt Nam cần
xây dựng đó là: NNPQ Việt Nam theo định hướng XHCN; nhà nước mà tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân; nhà nước dân chủ.
NNPQ Việt Namđược xây dựng trên cơ sở
quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
NNPQ Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam- đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả dân tộc. Đây là những vấn
đề mang tính nguyên tắc có tính chính trị - xã hội định hướng cho việc xây dựng
NNPQ Việt Nam trên thực tế.
Thông qua những nhận thức này về NNPQ, có thể nhận thấy
những điều cốt yếu khi xây dựng NNPQ Việt Nam phải giải quyết trên thực tế:
quan hệ nhà nước và pháp luật; quan hệ nhà nước với dân cư; tạo được các bảo
đảm pháp lý, các tiền đề, điều kiện cho xây dựng NNPQ; xây dựng NNPQ Việt Nam
phải bảo đảm định hướng XHCN; bảo đảm bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân của nhà nước.
Rõ ràng, NNPQ có đặc tính (hay nguyên tắc,
đặc điểm) quan trọng là tính tối cao của luật. Pháp luật của NNPQ là pháp luật
chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo, pháp luật vì con người, vì số đông trong xã
hội, pháp luật phải thể hiện được ý chí cộng đồng dân tộc, quốc gia, không phải
ý chí của một nhóm người, một cá nhân hay một tập đoàn nào đó. Nhưng liệu hiểu
như thế có phải là cách hiểu về tính pháp quyền của hệ thống pháp luật trong
NNPQ hay không?
Tính pháp quyền của hệ thống pháp luật, suy cho cùng
chính là hệ thống pháp luật của NNPQ. Đó là hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu
đòi hỏi điều chỉnh pháp luật đối với những quan hệ xã hội đang có và sẽ có,
không thể có khoảng trống pháp luật nào. Tuy nhiên, tính pháp quyền của hệ
thống pháp luật thể hiện ở hệ thống pháp luật có hiệu lực và hiệu quả, hệ thống
pháp luật tạo ra sự “tâm phục, khẩu phục” từ phía các chủ thể tham gia các quan
hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật. Lẽ đương nhiên không thể có quy phạm
pháp luật, văn bản pháp luật hay hệ thống pháp luật nào đều đáp ứng mong đợi
như nhau từ phía tất cả các chủ thể quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh.
Đó là do sự xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Vậy,
tiêu chí chung của hệ thống pháp luật có tính pháp quyền là gì? Đó là hệ thống
pháp luật đáp ứng nhu cầu mẫu số chung về lợi ích, là lẽ phải, là sự công bằng
và công lý. Một người vi phạm pháp luật tức là vi phạm quyền và lợi ích chính
đáng của người khác, của nhóm người khác, của nhà nước và của xã hội. Người đó
không thể vì phải chịu chế tài, hình phạt mà cho rằng pháp luật không công
bằng, pháp luật không mang tính pháp quyền. Hãy đặt người vi phạm đó vào vị trí
người có quyền và lợi ích chính đáng bị xâm hại, người đó lại cho rằng hệ thống
pháp luật mang tính pháp quyền. Và do vậy, tính pháp quyền phải là mẫu số chung
cho mọi hành vi, mọi quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Đây cũng là yêu
cầu của hệ thống pháp luật trong NNPQ XHCN Việt Nam.
Đ.N.V
1 nhận xét:
Cám ơn bạn đã đăng lại bài của tôi. Tuy nhiên, vì bạn lấy lại của nguồn không chính thức nên tên bài báo của tôi đã bị ai đó làm sai đi. Tôi đề nghị bạn đổi lại tên bài cho đúng, từ nguồn sau:"Tính pháp quyền của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền". Dưới đây là thư mục chính thức của bài báo này đăng trong tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tính pháp quyền của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền / Đinh Ngọc Vượng // Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội, Số 20/2010, tr. 5 - 8, 16
Xin cám ơn
PGS-TS Đinh Ngọc Vượng
ngocvuongdinh@yahoo.com
Đăng nhận xét