Tác giả: LƯƠNG VĂN TRUNG
Để ngăn ngừa và loại bỏ
tham nhũng, không chỉ nghiên cứu và tìm biện pháp đối phó với hành vi tham
nhũng mà cần nghiên cứu cội rễ sâu xa của hiện tượng này, tức là các nguyên
nhân của nó trong đó cội nguồn sâu xa nhất là “tâm lý tham nhũng”.
Có thể coi rằng hiện
tượng tham nhũng là câu chuyện "xưa như trái đất". Bởi
lẽ ngay từ giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, những
biểu hiện của tham nhũng đã xuất hiện. Nó là một
trong những yếu tố làm tan rã hình thái xã hội này, đưa tổ chức cộng đồng loài
người bước sang một xã hội có nhà nước, hay nói theo quan điểm kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lê nin là "xã hội có giai cấp".
"Bệnh nhân" là
những ai?
Đồng hành
với sự xuất hiện và phát triển của hiện tượng tham nhũng là những quan điểm bàn
về hiện tượng này ở nhiều mức độ và mục đích khác nhau. Tuy nhiên, mãi cho đến
những thập nên cuối cùng của thế kỷ 20, một thế kỷ của nhiều thành tựu kỳ vỹ
của khoa học kỹ thuật, của dân chủ và nhân quyền (với nhiều bàn cãi, thoả
hiệp), vấn đề tham nhũng được bàn đến một cách tập trung và hệ thống dưới nhiều
hình thức và cách tiếp cận.
Dù con
người (ở các khu vực, quốc gia và vị trí xã hội khác
nhau) có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về hiện tượng tham
nhũng, nhưng có một nhận định khá đồng nhất là, hiện tượng
tham nhũng là một căn bệnh của mọi quốc gia thuộc mọi
thể chế chính trị, nhưng nó xảy ra một cách phổ biến
nhất tại các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Dù muốn
thừa nhận hay không, Việt Nam là một nước đang phát triển, và tham
nhũng là một hiện tượng được mọi giới trong xã hội quan tâm và
bàn đến. Bằng chứng là Nhà nước ta đã bỏ khá nhiều
thời gian và công sức để nghiên cứu hiện tượng này, đưa ra
và thực hiện nhiều chính sách để đối phó với nó.
Bởi
vì tham nhũng như là một căn bệnh hết sức nguy hiểm đang đe
doạ sự phát triển nền kinh tế, gặm nhấm lòng tin của nhân dân,
thủ tiêu lòng yêu nước, ý chí hy sinh và mong muốn cống
hiến của những người dân có năng lực và lương tri, đặc biệt
là giới trẻ, tương lai của đất nước Việt Nam.
Có quan
điểm cho rằng, tham nhũng là sự làm giàu dựa vào quyền lực của quan
chức. Hành vi tham nhũng được thể hiện dưới nhiều dạng như: Tham
ô tài sản, các hình thức nhận hối lộ, các hình thức sử dụng công
quyền vì tư lợi...
Chúng như
những trang bệnh án của một người mắc bệnh "tham nhũng" với rất nhiều
triệu chứng và một số phương thuốc chữa trị (kết quả chưa cụ thể).
Trước hết,
không nên coi "quan chức" chỉ là những viên chức
Nhà nước giữ những vị trí chủ chốt, hay
có quyền đưa ra những quyết định quan trọng, mà nên coi
họ là những người thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Phòng, chống tham nhũng và những ai đang nắm ít hoặc nhiều quyền lực Nhà nước
trong một quãng thời gian nào đó.
Thậm chí là
những người dù không trực tiếp nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước nhưng có
quyền chi phối một cách đáng kể đến hoạt động của bộ máy Nhà nước. Có nhận thức
như thế chúng ta mới thấy hết được sự phổ biến của hiện tượng tham nhũng.
Từ khái
niệm và đối tượng nêu trên, ta có thể nhìn thấy hiện tượng tham
nhũng rất phổ biến: Khi đi trên đường (việc cảnh sát giao thông nhận tiền
hối lộ của một người vi phạm luật lệ giao thông ...), bắt đầu
bước vào một cơ quan Nhà nước (tuyển dụng). Thậm chí tại một số đám
cưới, đám tang, sinh nhật. Điều này cho thấy sự phổ biến đến mức
có thể coi như là sự "xã hội hoá" của
tham nhũng.
Tâm lý tham nhũng...
"truyền nhiễm"
Nhìn vào
thực tiễn, có thể thấy rằng, nhiều người muốn trở thành quan chức
là để có nhiều cơ hội kiếm tiền, sống sung sướng, dựa vào cơ chế xin-
cho, thực chất là tham nhũng. Hiện tượng tham nhũng làm cho nhiều người
"thèm" được làm quan chức, được đứng trong "hàng ngũ" của
những "bệnh nhân" tham nhũng.
Điều này
đồng thời cũng nói lên rằng, hiện tượng tham nhũng đã làm cho nhiều người nghĩ
rằng, mọi công việc do quan chức giải quyết đều có yếu tố tham nhũng. Và để cho
công việc của mình được tiến hành thuận lợi, cần phải thực hiện (những) hành vi
như đút tiền, hối lộ, tức là nhiều người đã không còn tin tưởng vào lẽ phải,
chân lý, dân chủ và pháp luật.
Nguy hại
hơn, tham nhũng làm cho nhiều người nghĩ rằng, mọi việc đều có thể thực hiện
được dù đúng hay sai, hợp pháp hay bất hợp pháp nếu có chuyện
"đầu...tiên" (tiền đâu). Như vậy, tính truyền nhiễm của căn bệnh này
đã làm cho những người không phải hoặc chưa phải là quan chức tin rằng tham
nhũng là loại dầu bôi trơn cho cỗ máy cuộc sống hoặc công việc của họ.
Từ đó họ
không những không đấu tranh để loại trừ tham nhũng, mà còn cố tình hoặc vô tình
nuôi dưỡng, tiếp tay cho căn bệnh này. Đến lượt nó, bệnh tham nhũng lại có điều
kiện để phát triển và ngày càng phát triển.
Tại sao lại
có hiện tượng này?
Từ xưa đến
nay, người Việt Nam thường lưu truyền câu nói "đồng tiền đi trước
là đồng tiền khôn", hay tục ngữ "nén bạc đâm toạc
tờ giấy". Những câu nói này là sự thừa nhận khả năng
và vai trò của lợi ích vật chất trong việc giải quyết các công
chuyện. Tập quán này là một trong những cơ sở hình thành
và duy trì "tâm lý tham nhũng".
Một điều
dễ nhận thấy nữa là, từ xưa đến nay, các bậc cha mẹ thường
muốn con mình làm quan để ấm thân sung sướng, có mấy ai coi
mục đích làm quan là để cống hiến, phục vụ. Thậm chí, các nho
sỹ coi việc công thành danh toại của đấng nam nhi cũng là nhằm
khẳng định khả năng của mình.
Để được
coi là "người quân tử", "đấng trượng phu", để hiển
vinh cho mình và dòng họ mình chứ đâu chỉ phải nhằm phục
vụ nhân dân. Câu nói "một người làm quan cả họ được
nhờ" nói lên rằng các ông quan có thể giúp đỡ
họ hàng mình rất nhiều nhờ vào uy quyền của mình.
Trong suy
nghĩ của người Việt Nam, quan chức luôn được coi là lớp người
nhiều bổng lộc, lắm quyền uy và giàu có. Mặc dù có câu tục
ngữ "phi thương bất phú" nhưng lịch sử mấy ngàn năm của
nước ta cho thấy rằng thương gia không phải là tầng lớp người được
xã hội tôn vinh, mà phải là người làm quan.
Vì thế,
cho đến bây giờ vẫn còn tồn tại một mâu thuẫn trong tâm lý của nhiều
người Việt Nam. Dù người ta hay kêu ca, phàn nàn về thủ tục hành
chính, những tiêu cực trong quản lý, sự bao cấp và thiên vị dai
dẳng đối với doanh nghiệp Nhà nước, sự tham nhũng phổ biến của
quan chức ... nhưng lại muốn được làm việc tại các cơ quan hoặc doanh
nghiệp Nhà nước. Thậm chí sẵng sàng nhờ vả, đút
lót để đạt được mục đích này.
Một bằng
chứng rất dễ nhận thấy là có những học giả đáng kính, thậm
chí là các tiến sỹ luật học, khi vô tình vi phạm luật
lệ giao thông, họ sẵn sàng đút lót cho cảnh sát giao thông một khoản
tiền thay vì nộp phạt theo quy định của pháp luật.
Điều đó
có nghĩa là, việc tham nhũng đâu có phải chỉ do học vấn, hiểu
biết về pháp luật hay túng thiếu. Mà "tâm lý tham
nhũng" tồn tại trong một bộ phận dân chúng, không
dễ gì xoá bỏ được.
Do đó, mặc
Nhà nước ta đã chủ trương hoá và luật hoá nhiều khái niệm rất tiến bộ trong
quản lý như "đầy tớ nhân dân", "vì nước quên thân vì dân phục
vụ", "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư". Nhưng những khái
niệm đẹp đẽ đó liệu có thể thực sự trở thành lẽ sống của mọi Đảng viên, cán bộ,
công chức Nhà nước hay không? Khi mà con người Việt chúng ta chưa thể đoạn
tuyệt với tâm lý tư lợi trong máu thịt.
Đằnh rằng,
tất cả mọi người đều giống nhau ở bản năng sinh tồn, sự mưu cầu một cuộc sống
giàu có, hạnh phúc nhưng cách thức lại có thể khác nhau do tâm lý, ý thức, hiểu
biết, môi trường xã hội (bao gồm cả môi trường pháp luật).
Tuy nhiên,
khi tâm lý của con người giống nhau trong cùng một môi trường thì cách thức của
họ sẽ tương đối giống nhau. Sự khác nhau sẽ chỉ dừng lại ở mức độ quyết liệt,
phạm vi thực hiện do sự liều lĩnh, cơ hội có được hoặc sự khôn ngoan của
mỗi người khác nhau.
Do đó, khi
"tâm lý tham nhũng" là phổ biến thì cách thức mưu cầu hạnh phúc của
con người bằng việc tham nhũng sẽ là phổ biến. Và như thế, dù pháp luật có chặt
chẽ bao nhiêu cũng sẽ không thể ngăn ngừa và loại bỏ tham nhũng có hiệu quả.
Nếu những người thừa hành và bảo vệ pháp luật luôn có tâm lý tham nhũng, nhất
là những người thông qua con đường tham nhũng để được làm những công việc này.
"Tâm
lý tham nhũng" làm cho nhiều quan chức không thể từ chối
những món lợi vật chất. "Tâm lý tham nhũng" làm cho người dân
nghĩ rằng đút lót cho quan chức là một cách thức hiệu quả nhất
và nhanh nhất để đạt được mục đích của mình trong một
số công việc.
Do đó, nhằm
ngăn ngừa và loại bỏ tham nhũng, bên cạnh những biện pháp
về kinh tế, hành chính, pháp lý, một biện pháp khác rất quan trọng
là giáo dục con người lòng tự trọng, ý thức phấn đấu,
sự can đảm, lòng nhân ái, vị tha để dần loại bỏ tâm
lý tham nhũng.
Người dân
phải đoàn kết với nhau để cùng vạch trần các hành vi tham nhũng, không
tiếp tay cho tham nhũng, tạo nên một dũng khí đấu tranh với tham nhũng.
Tức
là để ngăn ngừa và loại bỏ tham nhũng, không chỉ nghiên
cứu và tìm biện pháp đối phó với hành vi tham nhũng mà cần
nghiên cứu cội rễ sâu xa của hiện tượng này, tức là các nguyên nhân
của nó trong đó cội nguồn sâu xa nhất là "tâm lý tham
nhũng".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét