Ngay từ lúc sinh ra, Lý Thái Tông đã mang tướng lạ, sau gáy có đến
7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu), được xem là điềm
báo xứng đáng nối ngôi thiên tử.
Lê Thái Tổ: Miệng rộng, mũi cao và bả vai có 7 nốt ruồi
Về lý lịch xuất thân của Lê Thái Tổ (Lê Lợi), sách Đại Việt
thông sử chép: "Vua sinh giờ Tí (tức từ khoảng 23h đến 1h sáng)
ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), niên hiệu Xương Phù thứ 9 nhà Trần, tại
làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương. Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc
làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất
hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai.
Từ khi Vua ra đời thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho
là một sự lạ. Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đô chiếu sáng rực và
mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn lên thì thông minh dũng lược, độ lượng
hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, xương
mi mắt gồ lên, bả vai bên trái có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng
nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi
thường".
Lê Lợi sinh ra trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một
phương". Năm ông 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm
lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước
Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ
thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi
bờ cõi.
Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng
với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên
quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Rồi sau một thời gian
chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch
đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn,
là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ,
triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Sách Đại Việt
sử ký toàn thư viết: "Mặc dù ở ngôi ngắn ngủi được có 6 năm nhưng
những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một
triều đại và nên độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của
Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Và nhờ cố gắng đó, hai năm sau (1430), Lê
Thái Tổ đă cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình".
Lý Thái Tông: Sau gáy có 7 nốt ruồi tụ lại như chòm sao Bắc Đẩu
Lý Thái Tông tên húy Phật Mã, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên
Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Ông là con trai trưởng của Vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thị
Phất Ngân, con gái Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và Dương Vân Nga.
Tương truyền, ngay từ thuở lọt lòng, Lý Phật Mã đã có những dấu
hiệu lạ lùng. Ông có tướng lạ, sau gáy có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm
sao thất tinh (sao Bắc Đẩu). Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông
thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông
cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng
hiện ra, khiến người ta duy tâm đây là lời "sấm truyền" cho một đế
vương.
Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) rất chú ý tới Phật Mã và có ý nuôi dạy ông
kế vị. Năm Nhâm Tý (1012), lúc mới 13 tuổi, Lý Phật Mã đã được lập làm Đông
cung Thái tử, rồi được phong làm Khai Thiện Vương, đồng thời nhiều lần được cử
làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và lập được công lớn. Vì thế, triều thần cũng
như thần dân lúc bấy giờ rất tôn kính Phật Mã. Năm 1028, vua cha mất, Lý Phật
Mã lên ngôi.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhận xét về Lý Thái Tông: “Vua là
người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu
được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông". Ông là vị vua giỏi thời nhà
Lý. Hơn 30 năm chinh chiến và trị quốc, ông đã củng cố nền cai trị của nhà Lý,
chống lại những nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lấn, thu phục lòng dân, khiến
cho nước Đại Cồ Việt trở nên vững mạnh.
Trần Nhân Tông: Nốt ruồi đen gánh vác việc nước
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ
(1258), là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu.
Khi mới sinh toàn thân màu da như vàng ròng - sáng chói. Vua cha đặt tên là
Phật Kim. Sách Thánh Đăng ngữ lục chép: "Đến khi vua ra đời, màu da như
vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật...”.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Được tinh
anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng ròng, thể chất hoàn
toàn, thần khí tươi sáng... Vai bên tả có một nốt ruồi đen, các nhà tướng số
cho rằng: ngày sau sẽ gánh vác việc lớn".
Trần Khâm được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi vào ngày 22/10
năm Mậu Dần (1278). Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ
51 tuổi, qua đời ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc
tỉnh Thái Bình). Các sử gia thời Hậu Lê đã viết về Trần Nhân Tông: "Vua
nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước,
thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để
siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân".
Theo Đất Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét