Rất nhiều người Hà Tĩnh khi mới
ra Bắc vào Nam, nhất là ra Hà Nội hay vào thành phố Hồ Chí Minh để học tập hoặc
lập nghiệp, thường ngượng ngùng, lúng túng trong giao tiếp bởi cái “tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo
để” của họ làm cho
người được đối thoại nhiều khi không hiểu. Ấy là những người đó khi nói, mới
chỉ có giọng nói và ngữ điệu là “Hà Tĩnh”, còn từ dùng thì chủ yếu là từ phổ
thông. Còn nếu họ nói “đặc
sệt” “tiếng Hà Tĩnh”, tức là
cả ngữ điệu và từ dùng đều là ngôn ngữ địaphương, thì chắc rằng người nghe sẽ
ngớ ra cứ như nghe một thứ ngôn ngữ không phải là tiếng Việt vậy. Lúng túng là
chuyện thường tình khi mà giao tiếp không suôn sẻ do ngôn ngữ bất đồng. Nhưng
liệu có phải ngượng ngùng, xấu hổ đến nỗi cho rằng cái mô tê răng rứa là ngô
nghê quê mùa?
Ngôn ngữ nào, kể cả những
ngôn ngữ địa phưong có ít nhiều dị biệt so với ngôn ngữ chính thống được sử
dụng trong một quốc gia, cũng đều có cái văn hóa riêng của nó. Ngôn ngữ địa
phương Hà Tĩnh nói riêng và tiếng miền trung của các
tỉnh khu 4 cũ (Thanh Hoá , Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên - Huế) nói chung`cũng vậy. Đấy là chưa kể hiện đang có
nhiều nghiên cứu khẳng định, phương ngữ Hà Tĩnh là gốc rễ của tiếng Việt, mới
là ngôn ngữ thuần Việtcũng như Việt Thường mới là cái nôi của người Việt
cổ, là nơi hình thành Nhà nước đầu tiên của Việt Nam, có kinh đô được xây dựng
trên núi Ngàn Hống, tức là dãy Hồng Lĩnh, mà các di chỉ khảo cổ được tìm thấy,
các di tích còn lưu giữ trên núi Ngàn Hống có thể chứng minh cho điều đó. Trao
đổi với nhà nghiên cứu Bùi Thiết xung quanh vấn đề này thì ông cho rằng ngôn
ngữ của Hà Tĩnh nói riêng và của vùng khu Bốn cũ nói chung là một hệ thống ngôn
ngữ hoàn chỉnh, khoa học, chứ không thể xem đó chỉ là ngôn ngữ địa phương. Tuy
vậy, theo nhận thức còn hạn chế của người viết, xin vẫn được sử dụng các thuật
ngữ “ngôn ngữ địa phương” hay “phương ngữ”.
Có thể nói rằng, phương ngữ Hà
Tĩnh về mặt cấu trúc, phân chia nhánh ngành, lang lớp, khái niệm bao quát và
khái niệm chi tiết v.v. nhiều khi còn khoa học hơn cả ngôn ngữ phổ thông mà ta
đang sử dụng. Xin lấy một ví dụ. Nếu nói “khoai” theo tiếng phổ thông thì người ngoài
Bắc chỉ hiểu là khoai lang hoặc khoai tây mà thôi. Còn các loại củ ăn được thì
kèm luôn tên gọi là “củ từ”,
“củ mỡ”, “củ dong riềng”, “củ mài”, ....
Còn tiếng Hà Tĩnh thì phân chia rõ ràng hơn. Cây gì có rễ phình to thì cái rễ
đó được gọi là “cổ”. “Cổ” gì ăn được thì “cổ” đó được gọi là khoai. Rồi mới đến tên
riêng và thành ra “cổ khoai
từ”, “cổ khoai vạc” (củ mỡ), “cổ khoai đao” ( củ dong riềng), “cổ khoai mài” (củ mài).... “Thương nhôông nấu cháo khoai
mài...” (ca dao). Như vậy là
“cổ” trở thành khái niệm
chung, hay nói cách khác thành một loại quán từ ngang hàng với “con” “cái”... làm cho ngôn ngữ phong phú hơn, chính
xác hơn, rõ nghĩa hơn. Cũng chính vì thế nên người Hà Tĩnh ít ai gọi “cổ lạc” (củ lạc) mà thường gọi là “trấy lạc” (trái lạc, quả lạc). Tương tự là từ “ló” (lúa)để rồi có ló kê, ló ré (lúa tẻ),
ló nếp, ló ngô (thường được nói nhanh là lồ ngô, tức là ngô, bắp)... hay “bù” để rồi phân biệt bù ta (bầu), bù rợ
(bí đỏ)..... Chưa kể là qua cách gọi có tính chất phân loại lang lớp một cách
khoa học này, ta còn có thể biết được ló ngô không phải là loại ngũ cốc bản địa
từ xưa mà sau này mới được di thực từ bên Ngô Tàu sang. Mà đúng là như vậy. Học
giả Lê Quý Đôn trong tác phẩm “Vân
Đài loại ngữ” cho biết: “Hồi đầu đời Khang Hi (1662 –
1723), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong, Sơn Tây, sang sứ nhà Thanh, mới
lấy giống lúa ngô đem về nước”. Giá như nhà văn người Hà Tĩnh khá nổi
tiếng nọ thấu hiểu hơn ngôn ngữ nơi chôn rau cắt rốn của mình thì sẽ không đến
nỗi lại hạ bút tả cảnh phi ngựa giữa bãi ngô trong cuốn tiểu thuyết lịch sử
viết về Thăng Long ở thế kỷ XV để cho nhiều độc giả, nhiều nhà phê bình lên
tiếng phê phán gay gắt. Còn nữa. Bù rợ (bí đỏ) cũng xuất hiện trên mảnh đất Cửu
Đức, mảnh đất Hà Tĩnh sau bù ta (bầu), mà qua tên gọi phải là từ một nước láng
giềng nào đó ở phía Tây hoặc Tây Nam nước ta. Nhưng người ngoài Bắc lại gọi bí
đỏ là bí ngô, tức là loại bí này có thể được di thực từ bên Trung Hoa sang. Khả
năng thứ nhất chắc sẽ thuyết phục hơn, nhưng khả năng nào là đúng thì chỉ có
các nhà khoa học nghiên cứu về các loại thực vật mới khẳng định được. Tuy vậy,
“bù rợ” và “bí ngô” cũng có khác nhau chút ít. Bí ngô có
hình thù hơi dài hoặc hình cầu, còn bù rợ có hình thù hơi dẹt , tại chỗ cuống
và trôn quả thường lõm vào.
Đấy là chưa kể rât nhiều tên
gọi các lọai nông cụ, công cụ, các đồ dùng thường ngày… của phương ngữ Hà Tĩnh
phong phú hơn nhiều và ít vay mượn các từ Hán - Việt hơn so với ngôn ngữ phổ
thông. Các dụng cụ đan bằng tre nứa để đựng đồ vật là một ví dụ. Để chỉ đồ tre
nứa đan thưa dùng để đựng các loại rau, củ, quả thì tiếng phổ thông chỉ có vài
danh từ là “giành”, “rổ”, trong khi phương ngữ Hà Tĩnh nói riêng
và của đất Việt Thường nói chung có rất nhiều danh từ để chỉ chúng tùy thuộc
vào hình dáng, kích cỡ, sức chưá, mắt đan thưa hay mau, kiểu đan lồng mốt, lồng
đôi hay lồng ba v.v. như “giành”,
“ky”, “đúa”, “sảo”, “cạo” “rổ” v.v. Còn để chỉ các dụng cụ đan bằng tre
nứa có mặt phẳng lớn hơn nhiều so với chiều cao của thành để chứa, đựng thì
tiếng phổ thông chỉ có “nong, nia” chung
chung, còn phương ngữ Hà Tĩnh lại phân ra cụ thể hơn như “vựa” (được đan ken dày, đường kính lớn trên
dưới 1 mét, thành cao vài ba chục phân dùng để đặt ngay dưới cối xay lúa để
nhận sản phẩm lúa đã xay nhưng chưa được sàng sảy hoặc dùng để chứa thóc lúa
khi chưa được phơi khô, quạt sạch nên chưa được cất giữ vào bồ), “nôống” (gồm nôống
nậy là cái nong lớn,
nôống con có kích thước nhỏ
hơn, nôống gấm dùng để sảy lúa, gạo, nôống sưa là cái nong được đan thưa dùng để phơi
khoai, sắn cắt lát cho chóng khô), “ránh” cũng là nong đan thưa nhưng mắt lỗ bé
hơn so với nôống sưa nhưng chỉ để dùng phơi cau đã bửa làm
cau khô v.v. Từ cổ “vựa” chỉ một đồ đựng bằng tre đan nói trên
về sau đã được sử dụng để chỉ những nơi chốn, những vùng và cả những khu vực
rộng lớn với sản phẩm đặc trưng như “vựa
lúa đồng bằng sông Cửu Long”, “vựa trái cây miệt vườn Tiền Giang” v.v.
Không chỉ vốn từ vựng có
thể nói là vừa độc đáo, vừa phong phú, vừa thuần Việt, hội tụ nhiều yếu tố lịch
sử, khoa học, bản địa, hầu như không bị lai tạp …như đã được đề cập ở trên mà
trong phương ngữ Hà Tĩnh nói riêng và vùng khu Bốn cũ nói chung, cách phát âm
và yếu tố tượng thanh, tượng hình cũng rất độc đáo. Sau đây, xin bàn về
cách phát âm của phương ngữ Hà Tĩnh trong mối liên quan đến cách viết của tiếng
Việt phổ thông với việc sử dụng các dấu thanh. Ví dụ như từ “ló ngô”đã được nhắc đến ở
trên.Ở Hương Sơn nói riêng và hầu như ở Nghệ Tĩnh nói chung, ngô, bắp được gọi
và phát âm là“lồ ngô” hay“lò
ngô” để chỉ từ gốc là “ló ngô” (còn một từ nữa là “xà lì” để chỉ ngô,
bắp, nhưng là từ mượn của một ngôn ngữ khác).Xin được tạm tạm viết là “lồ ngô” mặc dầu với cách viết này, chữ “lồ” cũng chưa lột tả được cách phát âm của
người Hương Sơn đối với từ này.Thường thì người Hà Tĩnh khi nói
nhanh, có nhiều từ, nhất là từ kép hay từ láy, không được phát âm rõ ràng ra,
mà nó nằm trong cuống họng, hoặc nếu phát âm ra thì hay sử dụng thanh bằng và
từ đứng trước được nói lướt qua khá nhanh. “Ló
lòn” (lúa tẻ) cũng là một ví
dụ. Thực ra khi phát âm từ này, người Hà Tĩnh nói thành“lò lòn”.Quả là
khó mà phiên âm chính xác được những phương ngữ loại này bằng cách dùng các chữ
cái và 6 dấu thanh của tiếng Việt theo quy tắc viết hiện nay, kể cả những từ
như thường vẫn được viết hiện nay để biểu đạt chúng như khôông, eng, hoọc, eéc
v.v. Đấy là chưa kể đến việc âm sắc biến đổi theo từng vùng miền có khi đến
mức, nhiều từ ngay cả những người trong cùng một làng xã cũng rất khó nghe.
Chẳng thế mà ở các làng thuộc tổng An Ấp trước đây, nay là các xã Sơn Ninh, Sơn
Thịnh, Sơn Hòa, Sơn An, Sơn Lễ và Sơn Tiến thuộc vùng hạ Hương Sơn nằm bên tả
ngạn sông Phố ai cũng biết câu ca dao: “Kè
Đọng nòi giọng khò nghe, Kè E nòi choẹt bè le dìa đèn” (Kẻ biến thành Kè, nói biến thành nòi,
khó biến thành khò, dĩa đèn thành dìa đèn. Dĩa đèn là cái đĩa đựng dầu trẩu,
dầu bùi hay dầu lạc của cái đèn cổ thắp bằng ruột bấc ngâm trong đó. Câu thơ
của Nguyễn Xuân Sanh: “Đáy
đĩa mùa đi nhịp hải hà” cũng
có một cách giải thích là nói đến đáy của cái đĩa đèn này). Có nhiều dấu thanh
thực ra không tồn tại hoặc tồn tại theo kiểu khác trong phương ngữ Hà Tĩnh, chứ
không phải là họ không phát âm được dấu thanh đó. Một số địa phương ở Nghi
Xuân, xa hơn như ở Nghi Lộc, Nghệ An, và tận ngoài Ba Vì, Hà Nội và cả trong
tiếng nói của dân tộc Mường, cách phát âm các từ cũng tồn tại những nét rất đặc
trưng kiểu này.
Yếu tố tượng thanh, tượng hình
thường được phát triển và nhân rộng bắt đầu từ một từ đơn âm
hay còn gọi là từ chỉ có một từ tố. Xin được bắt đầu bằng một âm vần nhưng cũng
là một từ có nghĩa, đó là “óc”. Trong phương ngữ Hà Tĩnh, “óc” không chỉ có nghĩa là “khối mềm màu trắng
đục chứa trong hộp sọ” như Từ điển tiếng Việt đã dẫn giải mà còn để chỉ
một số các loại quả,hạt. Quả ớt được gọi là “trấy
óc cay”. Hạt mít lại là “óc mít”. Phần hạt của quả
trám là “óc mui”. Hạt bưởi thành “óc bưởi”, hạt bí thành “óc bù”… Phải chăng “óc” là một từ cổ để chỉ hạt. Thế nhưng với
một số loại hạt như đậu, lạc, ngô, vừng, kê, lúa… thì từ “óc” hầu như không được dùng. Cũng có thể
chúng đã được đổi sang gọi là hạt hay hột trong quá trình giao lưu với các vùng
miền khác. Cũng có thể và dường như từ “óc” chỉ dùng để chỉ các loại hạt có kích
cỡ nhất định, vì các hạt quá bé hoặc quá lớn thì chẳng bao giờ được gọi là “óc” cả. To như hạt quả xoài, hạt quả quéo,
hạt quả đào thì cũng chẳng ai gọi là “óc xoài” “óc quéo” hay “óc đào’ cả. “Óc bưởi” nhưng lại là “hột cam”, “hột chanh” (những con cá rô lúc còn bé được gọi
là “cá rô óc bưởi” hay nhiều nơi còn gọi chúng là “ô rô óc bưởi”). Với từ “óc” này, một từ láy khác hình thành là “óc nóc” hàm chứa cả tính chất, cả hình tượng,
cả âm thanh. “Óc nóc”
là cách gọi của nhiều địa phương ở Hà Tĩnh đối với ấu trùng của ếch, nhái,
nhưng chủ yếu là của cóc, mà tiếng Việt phổ thông gọi chúng là nòng nọc. Lũ “óc
nóc” thường có màu đen, tập trung thành đàn và bơi lội rất hiếu động. Tính chất
và hình tượng được thể hiện trong tên gọi này là ở chỗ chúng có hình thù
và kích thước giống như óc na, óc bù nhưng hiếu động và di chuyển liên tục.
Danh từ này do vậy còn là tính từ . Khi nghe bố mẹ nói với một đứa con
trai “Mi đúng là kì đồ óc
nóc” thì có thể hình dung
được đứa con trai này đang là một đứa trẻ con nhưng lại hiếu thắng, hoặc
có chút hung hăng, tỏ ra hùng hổ và hay to mồm nhưng lại láu táu,vô tích sự.
Phải chăng cũng từ đó mà con chó còn nhỏ được gọi là “chó nóc” ?. Và có
thể các từ “thằng
nhóc”, “nhóc con” … được
hình thành sau đó (?) trong tiếng Việt phổ thông có liên quan với từ “óc nóc” này chăng?. Khi ghép một phụ âm với
vần “óc” với ý nghĩa để chỉ các hạt cỡ nho nhỏ như đã dẫn giải ở trên, phương
ngữ Hà Tĩnh cho ta những từ vừa tượng thanh, vừa tượng hình rất bản địa
để chỉ những cá thể còn “choai choai” hay những sự vật cũng bé nhỏ
tương tự. Những từ ngữ này nếu tra cứu “Từ điển tiếng Việt” thì sẽ không
thể nào tìm thấy. Đó là các từ ghép ngoài từ “óc nóc” nói trên còn có
nhiều từ khác mang ý nghĩa tương tự như “chó
nóc”, “tràu cóc”, “ôống bóc”, “ná bóc”, “trộ mưa cóc”, “ngóc dam”, “ngóc tắn”,
“láu nóc” v.v. “Chó nóc” là
con chó con nhưng đã chạy nhảy chơi đùa được. “Tràu
cóc” là con cá quả (cá
chuối, cá lóc) to cỡ bằng ngón tay cái hoặc nhiều nhất cũng chỉ bằng ngón chân
cái. “Ôống bóc” là một loại súng đồ chơi làm bằng tre
của trẻ con. Nòng súng là một đoạn ống tre nhỏ không có mắt tre, dài khoảng một
đến hai gang tay, đường kính bên trong chỉ khoảng vài ba mi li mét. “Đạn” được
nhét vào cả hai đầu ống tre là viên giấy được vo tròn hoặc là các loại quả non
như quả cây đình đẹ, ô rô hoặc quả bưởi non chỉ bằng hạt đậu. Qui lát là một
thanh tre được vót giống như chiếc que đan len có đường kính nhỏ hơn
đường kính bên trong của nòng súng, một đầu được đóng chặt vào tay cầm cũng là
một đoạn ống tre có cùng đường kính nòng súng nhưng chỉ dài bằng ngón tay
trỏ. Qui lát được đẩy vào một đầu nòng súng để ấn viên “đạn” chạy trong
nòng súng. Khi “bắn”, qui lát được ấn thật mạnh, không khí không có lối thoát
bên trong nòng súng sẽ làm áp suất tăng đột ngột khiến cho viên đạn
ở đâù còn lại bị bắn ra xa. “Ná
bóc”, tiếng phổ thông gọi là
nứa tép. “Trộ mưa cóc” là một trận mưa lúc mới bắt đầu có vẻ
rất dữ dội nhưng chỉ được một lúc đã tạnh hẳn, tương tự như mưa rào nhưng lượng
nước trút xuống không đáng kể. Còn “ngóc
dam”, “ngóc tắn” là hang cua
đồng, hang rắn. Danh từ “ngóc” trong tiếng Việt phổ thông khi
đứng một mình thì không có nghĩa rõ ràng mà phải đi cùng từ
khác như ngách thành “ngóc
ngách”. Trong khi đó, danh
từ “ngóc” trong phương ngữ Hà Tĩnh gần như đồng
nghĩa với từ “ngách” trong tiếng Việt phổ thông, được dùng
để chỉ các hang hốc nhỏ, luồn sâu trong đất, chỉ vừa đủ để các con vật
như “dam”(cua đồng), “tắn” (rắn) chui vào ẩn nấp. Từ các danh từ
chỉ sự vật, hiện tượng sử dụng âm vần “óc” nêu trên, tính từ “láu nóc” hình thành mang đậm nét phương ngữ Hà
Tĩnh. Từ này có thể nói là đặc sệt Hà Tĩnh và khó mà tìm được một từ đồng nghĩa
trong tiếng Việt phổ thông. Láu táu? Láu cá? Láu lỉnh? Láu tôm láu cá? Các từ
này đều có vẻ giống nhưng không hề đồng nghĩa với “láu nóc”. “Láu nóc” là thái độ và hành động gây sự mang
tính chất láo xược, ngỗ ngược nhưng lại là của trẻ con mà đối tượng bị gây
sự không thèm chấp vì kẻ gây sự không có thực lực, khó mà mang lại
ảnh hưởng hay hậu quả gì.
Ví dụ tiếp theo là âm vần và là
động từ “eéc” (tạm phiên âm như vậy nhưng thực tế âm
phát ra của người nói đối với từ này không hoàn toàn đúng như cách phiên âm
này). Động từ này là để biểu đạt tiếng kêu của con lợn và cùng nghĩa với từ
“eng éc” của tiếng Việt phổ thông. Nó còn là danh từ để chỉ cái ách cày quàng
lên cổ trâu bò. Âm vần “eec” khi ghép với các phụ âm có thể tương ứng
không những âm vần “ach” mà cả âm vần “anh” trong tiếng Việt phổ thông. “Meéc”
nghĩa là mách, “nhà có kheéc” nghĩa là nhà có khách, “geẹc ngang” nghĩa là gạch
ngang, “nói seéc” nghĩa là nói thách… Cùng với rui, mèn, đòn tay, kẻ… “ngeẹc”
là một bộ phận của kết cấu nhà tre, gỗ. “Ngeẹc” là thanh xà ngang
bằng gỗ hay tre, cau… được nối mộng liên kết với chân cột để làm chỗ
tựa cho các “bức thưng” (vách ngăn) bằng ván gỗ hay bằng phên nứa.
Khoảng trống giữa “ngeẹc” với mặt nền thường được chèn bằng gạch, nhưng nhiều
khi được để trống tạo hiệu quả thông gió rất tốt cho bên trong ngôi nhà. Với
nhà làm mới,“ngeẹc” thường được lắp vào mộng ngay sau khi dựng cột,
kèo thành khung nhà. Với nhà đang sử dụng, khi cần phải làm thêm các “bức
thưng”, “ngeẹc” được lắp trước một đầu vào cột, đầu còn lại được lắp nhờ một
loại mộng đặc biệt sau khi dùng vồ gỗ “đập” cột để nới rộng khoảng cách hai cột
thêm khoảng dăm phân. Có thể từ “ngạch” trong tiếng Việt phổ thông có nguồn gốc
là từ “ngeẹc” này. Muốn đi vào nhà, từ sân phải bước lên bậc thềm, sau đó bước
qua “ngeẹc” cửa, còn gọi là “bậu cửa”. “Ngạch bậc” trong hệ thống
thăng tiến của công chức, viên chức, công nhân… chắc chắn có nguồn gốc là các
từ ngạch, bậc của một ngôi nhà. Từ điển tiếng Việt giải thích “ngạch” là khoảng trống dưới khung cửa là
không chính xác. Khoảng trống dưới khung cửa được người Hà Tĩnh gọi là “dới ngeẹc”. Còn trường hợp “eéc” tương ứng với âm vần “anh” trong tiếng Việt phổ thông thì ít gặp
hơn, ví dụ như từ “beéc” lại có nghĩa là banh: “beéc meẹng beéc mồm” nghĩa là banh miệng banh mồm.
Đặc biệt, với âm vần “eec” này, đôi khi ghép với một phụ âm sẽ
cho những từ chỉ có trong phương ngữ Hà Tĩnh. Ví dụ như từ “treéc”. “Treéc” là một dụng cụ để kho cá, kho thịt làm
bằng đất nung có hình dáng giống như cái mũ nồi bằng dạ (mũ bê rê) mà trong
tiếng Việt phổ thông cũng không có từ tương ứng…
Còn có thể dẫn ra rất nhiều ví
dụ tương tự. Tuy vậy, trong tiến trình lịch sử, sự giao lưu với các vùng miền,
sự giao thoa của ngôn ngữ cũng như trào lưu phổ thông hóa thông qua giáo dục
học đường đã làm cho khá nhiều từ cổ của phương ngữ Hà Tĩnh dần biến mất hoặc
được thay thể. Các âm vần nêu trên cũng được dần thay thế bằng các âm vần của
tiếng Việt phổ thông. Các loại hạt không phải bản địa và xuất hiện sau này như
hướng dương, cà phê, dẻ cười…. đều không được sử dụng từ “óc” để chỉ
chúng. Trong rất nhiều từ của ngôn ngữ Hà Tĩnh, vần “eec” không
được sử dụng đối với các khái niệm cận đại hoặc đương đại mà chỉ dùng vần
“ach”. Ví dụ như “phụ trách”, “viên gạch”, “quyển sách”. Tương tự, âm vần
“eeng” được thay bằng âm vần “anh” như trong quả chanh, đài phát thanh, bức
tranh …. mặc dầu vẫn tồn tại các từ cổ như “keeng” (canh), “treeng chắc” (tranh
giành nhau)... Nguy cơ biến mất của các từ cổ trong phương ngữ Hà Tĩnh là nhãn
tiền.
Xin được kể hơi cà kê một chút
như vậy để thấy rằng cái mô tê răng rứa của tiếng địa phương Hà Tĩnh là một di
sản văn hóa đậm đà bản sắc của ngôn ngữ Việt đáng được trân trọng, tìm hiểu và
gìn giữ để không bị mai một trong quá trình “phổ thông hóa, toàn cầu hóa” làm
ảnh hưởng đến sự phong phú đa dạng của văn hóa Việt.Cái sự học trong các bậc
phổ thông ngày càng phổ cập với mọi tầng lớp, thành quả của sự nghiệp giáo dục
kể từ ngày đất nước độc lập, cũng như sự phổ cập của các phương tiện thông tin
đại chúng đã không những giúp cho chỉ đối với những người Hà Tĩnh từng cắp sách
đến trường, mà còn giúp cho mọi người dân Hà Tĩnh dù sống ở những vùng miền heo
hút nhất đều sử dụng thành thục được tiếng Việt hiện đại trong mọi lĩnh
vực. Tuy vậy, cũng chính vì thế mà ngày càng có nhiều người Hà Tĩnh biết rất ít
vốn từ của ngôn ngữ địa phương mình, và do đó, nguy cơ mai một của phương ngữ
Hà Tĩnh ngày càng rõ. Có những ngôn từ có thể nói là rất “đắt”, “độc nhất vô
nhị” nhưng lại đang dần bị biến mất trong đời sống của chính người dân Hà Tĩnh.
Ví dụ như động từ “trủ” chỉ công việc thu hái hàng loạt và
bằng hết cùng một lúc các loại quả của những cây ăn quả (trủ vải, trủ nhãn,
trủ cam...) hay danh từ “lặc
lè” chỉ phần mặt sau của đầu
gối (có thành ngữ “trục cúi
đi mô lặc lè theo đó”, trục
cúi chính là đầu gối)…là những từ đặc sệt phương ngữ nhưng lại không thể tìm
được từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ phổ thông hay danh từ riêng “tấy” để chỉ con rái cá, còn gọi là hải ly,
với câu thành ngữ “nghịch nhi
tấy, khun nhi tấy”(nghịch như rái cá, khôn như rái cá) v.v và v.v
Do vậy, việc sưu tầm và
lưu giữ để vốn từ cổ này không biến mất trong quá trình phát triển ngày càng
trở nên cấp bách. Các nhà khoa học trên thế giới đã khuyến cáo là khoảng 50%
ngôn ngữ của loài người sẽ biến mất vào cuối thế kỷ XXI khi những nét văn hóa
đặc thù xã hội nhỏ hơn bị đồng hoá vào văn hoá quốc gia cũng như văn hóa toàn
cầu. Mất đi sự đa dạng về ngôn ngữ sẽ là một đòn giáng mạnh vào những nghiên
cứu văn hoá và khoa học nhận thức. Hay nói cách khác, một ngôn ngữ mất đi sẽ
kéo cả một thế giới cùng biến mất theo nó như một nhà khoa học Mỹ ở trường Đại
học Yale đã từng cảnh báo.Đã đến lúc cần tổ chức sưu tầm, nghiên cứu và biên
soạn một bộ Từ điển phương ngữ Hà Tĩnh nhằm gìn giữ và bảo tồn di sản
này. Cùng với các di chỉ khảo cổ, các văn bia, các bằng sắc, các ấn phẩm v. v.
thì ngôn ngữ địa phương, nhất là các ngôn ngữ cổ cũng là những chứng tích,
những căn cứ khoa học vô cùng quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử nói
riêng và các bộ môn khoa học xã hội nói chung./.
·
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét