Thành tích "nổi bật" của GD Việt Nam thời gian qua là đã
đào tạo được một đội ngũ quan chức chiếm tới 70% "nguyên khí" quốc
gia, chỉ còn 30% làm việc trong lĩnh vực GD, khoa học. Đó phải chăng là
lý do khiến đất nước không thể cất cánh.
Năm
học mới bắt đầu và câu chuyện cải cách giáo dục (CCGD) thì vẫn như thửa ruộng
cày vỡ, chưa biết sẽ chọn loại hạt gì để gieo và gieo vào lúc nào. Dù cải cách
kiểu gì thì đối tượng chịu tác động nhiều nhất vẫn là đội ngũ giáo viên và học
sinh, sinh viên. Riêng với người học, câu hỏi "học để làm gì, học như thế
nào" đặt ra thì dễ nhưng dường như chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Trách ai?
Trên
thế giới những nước nghèo về tài nguyên như Nhật Bản, Thụy Sĩ, Singapore lại là
những nước có thu nhập bình quân đứng hàng đầu. Ở đó nạn thất nghiệp luôn
được xem là một tiêu chí đánh giá năng lực điều hành của chính phủ, của các
quan chức, đặc biệt là người đứng đầu. Quan chức các nước tiên tiến rời chính
trường vẫn tiếp tục làm việc ở công ty, có thể viết sách hoặc giảng dạy, nước
ta bao nhiêu người có năng lực và sẵn sàng làm việc như vậy?
Học
sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay học để làm gì? Có ba nấc thang được hình
thành: Học sinh phổ thông học để thi đại học, sinh viên ĐH học để kiếm một nghề
nhiều tiền mà nhàn nhã, cử nhân kỹ sư ra trường học tiếp để trở thành quan chức.
Một
số ý kiến cho rằng, sai lầm của GD nước nhà là định hướng cho học sinh:
"Mọi con đường đều để đến cánh cửa trường ĐH". Nhận định trên không
sai nhưng cũng không hoàn toàn đúng, lỗi không hoàn toàn thuộc về GD. Phải thừa
nhận rằng nội dung học trong suốt 12 năm phổ thông, nhất là ba năm cuối luôn
nhằm một mục đích là giúp cho học sinh thi đỗ ĐH.
Những
trường có tỷ lệ học sinh thi đỗ ĐH cao được đánh giá là trường dạy giỏi. Mục
tiêu của GD phổ thông "ngắn" như vậy một phần do cách thức chỉ đạo
điều hành. Mặt khác cũng do tâm lý của phần lớn các bậc cha mẹ và bản thân học
sinh, họ chưa thấy được việc làm và thu nhập từ lao động quan trọng hơn bằng
cấp. Đặt cho sinh viên câu hỏi: "Mục đích học tập của các em là gì?",
câu trả lời mà người viết nhận được thường là nụ cười và những cái lắc đầu.
Sai
lầm thứ nhất "học để thi vào ĐH" dẫn tới sai lầm thứ hai "học để
không phải làm công việc nặng học". Tình trạng quá dư thừa cử nhân các
ngành Kinh tế, Kế toán, Ngân hàng... thời gian qua là một minh chứng. Không
thiếu cử nhân các ngành trên rong ruổi xe máy đi tiếp thị dầu gội đầu, đi phát
tờ rơi cho các cửa hàng, siêu thị.
Dẫu
chẳng danh giá gì song họ cũng có thu nhập và quan trọng là không bị lấm lem
dầu mỡ, bùn đất như các ngành Xây dựng, Giao thông... Thi vào ngành Y được 27
điểm vẫn trượt, vì sao học sinh vẫn lao vào? Bởi vì mỗi khi đến cửa bệnh viện,
các "đại gia" còn phải nể sợ bác sĩ, huống chi những người bị liệt
vào hàng "chân quê". Y đức, y thuật tất cả đều thua y "tờ",
lương y không thể sánh được với lương "lậu".
Hai
"mục tiêu học tập" kể trên kết hợp lại tạo ra mục tiêu học tập thứ
ba: Học để làm quan, đây là cách làm giàu nhanh nhất, an toàn nhất, có lợi nhất
cho con cháu mai sau.
Điều
này có trách thì phải trách "truyền thống", ngày xưa thi đỗ, dù chưa
biết có mang lại lợi ích gì cho dân, cho nước các ông nghè đã được cả xã, cả
tổng nghênh đón tận đầu làng. Đỗ một cái là chắc một suất quan huyện, quan tổng
hoặc quan trong triều. Cho đến tận bây giờ, chuyện vinh quy bái tổ của các tân
khoa vẫn còn được ca ngợi trong phim ảnh, trong nghệ thuật truyền thống...
Không phải chỉ giới trí thức trẻ mà là
đại bộ phận dân chúng đều thấy rõ sự giàu có của các quan chức.
Quan
cỡ "trung bình" như mấy vị giám đốc công ty thoát nước, cây xanh ở
T/p Hồ Chí Minh lương đã trên 02 tỷ một năm chưa kể "lậu", nếu dính
đến "ba cái" khoáng sản, đất cát... thì họ sẽ còn giàu như thế nào?
Doanh nhân muốn giàu phải lo làm ăn, lo lách luật, lo vận động hành lang, lo
thâm nhập để trở thành thành viên "nhóm lợi ích", tóm lại là lo đủ
thứ.
Quan
chức chỉ cần lo sao cho hạ cánh an toàn trước khi bị lộ.
Câu nói kính thưa các đồng chí chưa bị
lộ xem ra đã lỗi
thời. Lộ hay chưa bị lộ chẳng có gì quan trọng miễn là được các chiến hữu cùng
"nhóm lợi ích" bao che, đùm bọc.
Hiện
trượng "mua" bằng, kể cả bằng "thật" lẫn bằng
"rởm" trong quan chức hình thành nên một "nhóm lợi ích bằng
rởm" và sự vận động hành lang của nhóm này đã mang lại hiệu quả là chưa ai
bị xử lý hình sự, có chăng là phê bình, cảnh cáo chuyển công tác để "né
bão" một thời gian, ít lâu sau guồng máy lại hoạt động bình thường.
Có
thể đây là một kẽ hở pháp luật vì Luật Hình sự chỉ quy định chung chung về tội
sử dụng "con dấu, tài liệu giả mạo" chứ chưa thấy nói cụ thể
"văn bằng giả mạo" hoặc "bằng thật nhưng trình độ giả".
Cải cách bắt đầu từ... bộ tham mưu
Đã
có nhiều ý kiến về khâu đột phá trong CCGD. Ba năm trước người viết cũng từng
nêu quan điểm về việc này: CCGD trước hết hãy cải cách việc đào tạo giáo viên
và cách đối xử với thầy cô giáo. Không có thầy giỏi không bao giờ có được trò
giỏi và cũng không bao giờ có được một nền GD theo kịp thời đại".
Đến
nay, có lẽ ý kiến này không còn phù hợp nữa. Cải cách GD phải lựa chọn khâu đột
phá từ việc cải cách "chính bộ tham mưu CC". Bộ tham mưu ấy phải có
thực quyền để chỉ đạo không chỉ ngành GD mà là cả hệ thống chính trị bao gồm:
Văn hóa, truyền thông, tư pháp, tài chính...
Bộ
tham mưu CC ấy phải ít các quan chức đương nhiệm. Thực tế cho thấy sau khi từ
giã nhiệm sở, nhiều quan chức mới dám nói thẳng, nói thật, thậm chí là nói
mạnh. Đương chức không phải họ không thấy những bất cập của chính sách, nhưng
có những vách ngăn vô hình khiến cho âm thanh không thoát ra khỏi cửa miệng.
Không phải ngẫu nhiên mà Quốc hội đã chất vấn Bộ trưởng Tư Pháp rằng có hay
không "nhóm lợi ích" khi ban hành các chủ trương chính sách, đặc biệt
là các văn bản quy phạm pháp luật?
Báo
Thanh Niên đã nêu nhận xét: "Môi trường thiếu minh bạch chính là lỗ hổng
trong cơ chế để các nhóm lợi ích có thể chi phối chính sách. Chẳng hạn như cơ
chế bộ chủ quản đối với các doanh nghiệp, trường học là nguy cơ cho các nhóm
lợi ích nằm ngay trong bộ máy".
Bước
tiếp là chọn mô hình GD như thế nào? Chúng ta có thuận lợi là nước đi sau nên
có nhiều mô hình GD để tham khảo. Chẳng hạn mô hình GD ĐH của các nước châu Âu
(gồm cả Liên bang Nga) theo hiệp định Bologna. Theo mô hình này GDĐH gồm 03 bậc
là cử nhân - thạc sĩ - tiến sĩ.
Cử
nhân đào tạo trong 03 năm, thạc sĩ 02 năm và tiến sĩ trung bình là 04
năm. Tương tự, mô hình GD phổ thông có thể tham khảo nhiều nước, có những
nước như Hoa Kỳ, GD bậc tiểu học chủ yếu là GD thể chất, ngôn ngữ và đạo đức,
các kiến thức toán, lý... chưa phải là trọng tâm.
Mục
tiêu của GD phổ thông nước ta phải là đào tạo một lớp người phát triển đồng đều
về tâm sinh lý và thể lực, đủ sức khỏe để theo học các chương trình nặng ở bậc
ĐH. Giáo dục phổ thông chưa phải là nơi đào tạo nghề. Tại sao sau bao nhiêu
năm, dù bữa ăn đã được cải thiện cơ bản, tầm vóc người Việt vẫn thuộc loại
"thấp bé nhẹ cân?"
Một
mô hình GD tiên tiến, phù hợp với sự phát triển trí tuệ và tâm sinh lý người
Việt sẽ là yếu tố quyết định sự thành bại của CCGD. Hoàn thành bước xây dựng mô
hình GD, dẫn đến việc bố trí lịch trình đào tạo.
Các cụ xưa có câu tam thập nhi lập,
nghĩa là bước vào tuổi 30, con người phải hoàn toàn tự lập, phải hoàn thành
những công việc trọng đại của đời người.
Mô hình GD: Nên 9-2-9
Như
nêu trên, mô hình GDĐH châu Âu kéo dài 09 năm, vận dụng mô hình đó và tính ưu
việt về sự ổn định trong học thuyết đối xứng, chúng ta có thể xây dựng mô hình
GD Việt Nam là 9 - 2 - 9. Chín năm GD cơ bản, 02 năm GD định hướng, 09 năm
GDĐH. Một người học tập liên tục sẽ đạt trình độ tiến sĩ trước năm 30 tuổi. Sau
đó là giai đoạn làm việc và cống hiến cho xã hội.
Có
mô hình GD, hoạch định được tiến trình đào tạo thì tự nhiên sẽ thấy những vấn
đề còn lại như đào tạo giáo viên, biên soạn sách giáo khoa... sẽ mang tính kỹ
thuật nhiều hơn là tính chiến lược.
Nhìn
tổng thể nền GD nước ta xưa nay vẫn thế, vẫn chú trọng đào tạo các ông Nghè,
ông Cống để làm quan chứ không phải đào tạo đào tạo những người lao động có tri
thức, càng không phải đào tạo các nhà khoa học. Minh chứng cho điều này có thể
thấy qua ý kiến của GS Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Walel, Úc):
Việt
Nam có khoảng 24.000 TS và 9.000 GS- Phó GS nhưng 70% không làm nghiên cứu khoa
học mà chỉ làm các chức vụ hành chính và quản lý . Còn lại, một số ít làm
việc trong các viện nghiên cứu . TS. Nguyễn Khắc Hùng (nguyên chuyên viên
đối ngoại, Học viện Hành chính Quốc gia) thống kê cho thấy "các chức vụ
tương đương từ Thứ trưởng trở lên có trình độ TS ở Việt Nam nhiều gấp 05 lần
Nhật Bản.
Qua
các số liệu nêu trên có thể khẳng định, thành tích "nổi bật" của GD
Việt Nam thời gian qua là đã đào tạo được một đội ngũ quan chức chiếm tới
70% "nguyên khí" quốc gia, chỉ còn 30% làm việc trong
lĩnh vực GD, khoa học. Đó phải chăng là lý do khiến đất nước không thể cất cánh.
Tâm
lý thường trực từ trẻ em đến người lớn là lo cho các kỳ thi: Thi vào lớp 1, thi
vào trung học phổ thông, thi ĐH, thi công chức, viên chức, thi chuyên viên và
cuối cùng thi... làm quan. Kỳ thi cuối cùng này nhiều người ngại nói ra, song
ai cũng biết nếu không có tấm bằng mà kỳ thi này cung cấp thì chắc chắn không
được bổ nhiệm vào chức vụ mong muốn!
Giáo
sư, TSKH Hồ Ngọc Đại đã nêu một ý kiến thật dí dỏm: "Cuộc CCGD năm 1980 từ
bỏ giải pháp Hoàng Xuân Hãn, sáng tạo ra o / c / co, kèm theo cách đánh vần kì
quặc: cam → a - m - am / c - am - cam... Chương trình sau năm 2015 nhằm
đổi mới căn bản và toàn diện nền GD, trị giá 70.000.000.000.000 đồng (13 chữ số
không), nếu giao cho tư duy kiểu ấy, với nghiệp vụ sư phạm cỡ ấy, thì tôi đánh
cuộc, họ sẽ từ bỏ e / b / be và sáng tạo ra cái mới: ô / l / lô" .
Chỉ
còn hai năm nữa là đến 2015, liệu các nhà CC, các "trí thức" còn đang
"ngái ngủ" có kịp bỏ cái ô / l / lô hay là cần thêm dấu ngã
thành ra "l ô lô ngã... "lỗ". Thêm "ngã" cho có cải
tiến chứ chẳng lẽ lại dập theo nguyên mẫu của GS. Hồ Ngọc Đại? Mà dù có
"lỗ" thì "các phản biện rồi sẽ nhất trí thông qua, rồi cũng ký
vào biên bản nghiệm thu, rồi cũng ký vào giấy nhận tiền" . Lỗ là thuộc
về ai đó chứ không phải thuộc về những người biết "ngã".
Cải
cách GD cần lắm và gấp lắm song không thể vội nếu chưa có một chiến lược tổng
thể. Càng không thể vội nếu "Bộ tham mưu CC" chưa tập hợp được một
đội ngũ những người tâm huyết, am hiểu GD, đặc biệt là những người không còn
ham muốn làm ... quan.
TS. Dương Xuân Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét