12 tháng 9, 2013

Địa đạo Củ Chi và những chuyện lần đầu công bố

Kỳ tích vĩ đại của những người con đất thép


Ra đời trong nỗ lực hóa giải sự càn quét của giặc Pháp, ban đầu địa đạo Củ Chi chỉ đơn giản là những căn hầm trú ẩn, tránh bom, đạn. Tuy nhiên, ít ai ngờ, công trình của một người nông dân chất phác lại trở thành công trình phòng thủ nổi tiếng thế giới sau này. Sau hơn 38 năm, những người từng tham gia đào địa đạo vẫn nhớ như in ngày đầu cầm cuốc luồn sâu dưới lòng đất, đào trong bóng tối. Và cho đến nay, những bí mật về cách thức hình thành công trình địa đạo dài hơn 200km chỉ dựa vào những công cụ thô sơ của người lính, nông dân mới ít nhiều tiết lộ.
Dù đã về hưu nhưng Đại tá Lê Văn Đào vẫn nhớ như in ngày đầu tham gia đào địa đạo

 Kỳ tích của một nông dân

Người khai sinh ra địa đạo Củ Chi là một nông dân chân chất có tên Nguyễn Văn Bộ. Ghi nhận sự kiện trên, ông Lê Văn Đào (SN 1942, ngụ ấp Phú Lợi, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, TP.HCM), Đại tá đã về hưu, người từng tham gia đào địa đạo trong thời gian dài cho biết: "Địa đạo đã có từ thời chiến tranh chống Pháp nhưng còn rất thô sơ, do ông Nguyễn Văn Bộ (thường gọi là Sáu Bộ), một người nông dân chất phác sáng tạo ra. Mục đích ban đầu của ông Sáu Bộ là đào hầm để trú ẩn, tránh bom đạn cho người dân sống trong vùng".Thấy đây là một biện pháp tốt để tránh thương vong nên mọi người hăng hái làm theo. "Hồi đó, cả làng học theo ông Sáu Bộ đào hầm. Thời gian đầu, những căn hầm của ông Sáu Bộ tỏ ra khá hiệu quả, chống địch rất tốt tuy còn khá đơn sơ", ông Đào cho biết thêm.  Những căn hầm, địa đạo bí mật thời kỳ này của ông Sáu Bộ khá đơn giản nên dễ bị hư hỏng, không mấy tiện lợi.
Theo lời ông Đào, những căn hầm, địa đạo bí mật theo kỹ thuật của ông Sáu Bộ thường được đào trong các bụi tầm vông, chiều ngang 1,2m, chiều dài 2m. Nắp hầm được che bằng gỗ nên khiến hầm dễ bị hư hỏng, thấm nước. Sau này, Đảng cũng phát động phong trào toàn dân đào hầm, địa đạo bí mật nhưng mãi đến năm 1961, khi ngụy quân ngụy quyền bố ráp, càn quét dữ dội, những căn hầm theo kiểu giản đơn của ông Nguyễn Văn Bộ mới xuất hiện nhiều.
Ông Lê Văn Đào nhớ lại: "Sau năm 61, người ta biết đến hầm nhiều hơn. Đặc biệt là sau trận giặc càn vào rừng Kè Đôi thuộc ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi. Trong trận này, số người chết và bị bắt bớ quá nhiều nên khi được phát động phong trào đào địa đạo, hầm bí mật người dân hưởng ứng nhanh chóng. Và chính ông Sáu Bộ là người trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật. Ban đầu, chúng tôi đào đều hư hỏng do chọn trúng gan đất không tốt. Sau này rút kinh nghiệm và tích lũy thêm những sáng kiến, kỹ thuật mới. Điều đáng nói là phần nhiều, những kỹ thuật này đều do những người trực tiếp đào nghĩ ra chứ không hề qua trường lớp, đào tạo nào cả".
Theo đó, khi đào hầm trong rừng, các miệng hầm sẽ cách nhau 6m. "Trước đây, miệng hầm chấn cây nên dễ hư, mục, nay hầm đều được xây miệng, ém đất kỹ lưỡng, mưa gió không thể lọt vào. Nơi trống trải, hầm được đào cách nhau 10m. Xung quanh miệng hầm được trải đất thịt, trồng cỏ, trồng cây một cách tự nhiên. Ngoài ra khi gấp rút, người ta có thể dùng bộc phá khai hoang và lợi dụng điều này khiến xung hầm, miệng hầm như bị pháo nổ hoặc như một hố bom... Hầm trầm, được đào sâu xuống 5m, xuyên ngang rồi mới trổ thẳng lên các miệng đã chấm cách nhau 3m", ông Đào nhớ lại.

Cuộc đời trong lòng đất
 Theo ông Đào, những năm 1962, 1963, nhân dân Củ Chi hưởng ứng phong trào thi đua đào hầm, đào địa đạo trong đó có xã Phú Mỹ Hưng. Từng cầm cuốc cùn tham gia đào địa đạo từ tuổi 14, 15, ông Nguyễn Văn Tiền (SN 1935, ngụ xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi) hiểu hơn ai hết những khó khăn, gian khổ những ngày mà sau này ông gọi vui là "ngày lót ổ dưới lòng đất". Ông nhớ lại: "Còn nhỏ, thấy cha mẹ đào hầm tránh đạn, tôi cũng đã tham gia đến khi Đảng phát động phong trào đào hầm, đào địa đạo lũ con nít như chúng tôi cũng tham gia. Thời điểm ấy, ai cũng hừng hực khí thế, hăng say thi đua đào địa đạo. Đó là những ngày tháng đầu tiên tôi đánh giặc".Ông Nguyễn Văn Tiền thoát ly từ quận Gò Vấp, ông xuống xã Trung An, nhanh chóng tham gia phong trào đào địa đạo của xã. Ông cho biết: "Tôi còn nhớ như in ngày mình cầm cây cuốc ngắn cũn mà người thời bấy giờ hay gọi là cuộc tây lom khom chui vào hầm cuốc từng cm đất một. Ngày ấy, đào địa đạo có khí thế như một ngày hội thực sự. Gái trai, già trẻ, lớn bé người đi trước chỉ người đi sau, ai ai cũng đều tích cực tham gia. Ai có việc của người nấy. Trước thì khi đào có tổ chức cụ thể, người già kéo ky (cái thúng để đựng, đổ đất khi đào - PV), đổ đất, trai gái, thanh niên thì thay phiên cầm cuốc đào hầm".
Khi đề cập về những kỹ thuật đào hầm để có được một hệ thống địa đạo thông suốt, nhiều tầng nhiều lớn với hơn 200km dưới lòng đất cả ông Đào và ông Tiền đều khẳng định: "Việc đào hầm, đào địa đạo ai không biết, không có kinh nghiệm thì thấy rất khó nhưng khi đã làm quen thì sẽ trở nên dễ dàng. Cái khó là làm sao để giữ bí mật". Theo đó, người đào phải đảm bảo được những yêu cầu như: Hai bên tường phải thẳng đều, địa đạo không có chỗ lồi chỗ lõm, không ngoài hẹp trong rộng, không bên thấp bên cao, nền phải bằng phẳng, trần có hình mái vòm,... Lỗ thông hơi thiết kế càng lên sát mặt đất càng thu nhỏ theo hình chóp nón...".
Địa đạo vốn gồm một tổ hợp những đường hầm nhiều tầng nhiều lớp. Để hoàn thành một hệ thống địa đạo trải dài trên hàng trăm km, người ta buộc phải chia thành nhiều nhóm, đào cùng lúc ở  những vị trí khác nhau, thậm chí, ở những địa phương khác nhau.  Ông Tiền miêu tả: "Thường thì mỗi nhóm đào một đường hầm. Các vị trí miệng hầm đã được tính toán sẵn, người ta ước lượng thời gian và dựa vào kinh nghiệm để những đường hầm dưới lòng đất thông nhau là chính. Hồi đó không có bất kỳ sự tham gia nào của khoa học hiện đại. Những người đào địa đạo ngầm thường dựa vào âm thanh dội lại từ phía bên kia để ước lượng xem mình có đào đúng hướng và mình còn cách xa đầu bên kia bao nhiêu lâu nữa. Phải chú ý lắm mới gặp được nhau dưới lòng đất tối đen".

Mỗi tấc đất là máu, là hơi thở...
 Lao động trong lòng địch, trong lằn ranh giữa sự sống và cái chết, thế nhưng những người con thành đồng đất thép chỉ có một cây cuốc cùn. Họ được chia thành từng tốp, cụm. Tùy số lượng thành viên, các cụm này sẽ tự phân công người đào, người đổ đất. Ông Đào nhớ lại: "Hình ảnh những con người lưng trần đen đúa đất bùn ngả bóng trong ánh đèn nến giữa lòng đất cố đào từng cm đất một luôn tồn tại trong trí óc tôi trên mọi trận đánh sau này. Vì chính tôi là một trong nhiều người được lệnh phải trụ vững ở đất này trước sự càn quét gắt gao của địch. Và tôi biết, chỉ có những địa đạo, hầm bí mật này mới có thể đảm bảo an toàn cho mình, cho đồng đội, mới có thể cản bước tiến quân thù".Với tư tưởng mỗi tấc đất là máu thịt là hơi thở của mình, những người con đất thép luôn ý thức việc bám trụ quê hương bằng những căn hầm, địa đạo, bỏ qua những mất mát hy sinh. Một sự trùng hợp đầy tự hào khi chúng tôi hỏi về những nguy hiểm, gian khổ trong ngày tham gia hình thành công trình quân sự vĩ đại trên, những con người như ông Đào, ông Tiền đều quả quyết: Khi ấy không ai cảm thấy sợ  hay thấy gian khổ cả và nhiều kỷ niệm mà bản thân chúng tôi trải qua trong những ngày ấy đều là những kỷ niệm bi hùng.             
 Hy sinh cho địa đạo mãi vững bền
 Ông Đào nhớ lại: "Đào địa đạo ngoài những khó khăn chung như gặp đất xấu, chướng ngại vật dẫn đến thi công chậm còn vấp phải những tai nạn thương tâm. Sự mất mát xương máu đó đến từ tai nạn cũng có, đến từ phía kẻ thù cũng có. Đến giờ tôi vẫn nhớ như in ngày hai đồng đội của tôi hy sinh khi đang đào hầm. Không may mắn như tôi, hai anh này đào phải lớp đất mềm, không chắc nên khi đào sâu được vài mét, bỗng dưng hầm sập. Khi cả hai được moi ra từ hàng trăm khối đất thì đã tắt thở".
Đối mặt với tử thần
Trong ký ức của nhiều người trực tiếp tham gia đào địa đạo Củ Chi từ tấm bé như bà Lê Thị Hở, ông Nguyễn Văn Tiền, Lê Văn Đào,... đều hằn in những kỷ niệm vui có, buồn có, đau thương cũng có. Nhưng khi được hỏi, những con người ấy đều nở nụ cười tự hào dù có khi nước mắt vẫn lăn vội trên nụ cười móm mém. Ông Đào nói vui: “Tôi đào địa đạo nhiều đến nỗi người ta gọi tôi là Đào luôn chứ tên trong giấy của tôi là Lê Văn Đèo. Gọi mãi thành quen”.

Chia sẻ kỷ niệm đầu tiên khi tham gia đào địa đạo, ông Lê Văn Đào cho biết: “Kỷ niệm đầu tiên khi tôi tham gia đào địa đạo đào trúng ổ mối”. Đào trúng ổ mối là một trong nhiều chướng ngại đáng sợ hàng đầu của dân đào địa đạo. “Ngoài việc bị mối cắn đau, đất cũng cứng, dai đến khó tưởng tượng. Vấp phải nó chỉ biết kêu trời. Mỗi ngày cao lắm chỉ đào được vài tấc. Nhất là rơi vào dịp thi đua giật cờ, gặp ổ mối coi như lần thi đua đó cầm chắc về chót”, ông Đào quả quyết. “Cái khó ló cái khôn”, để khắc phục tình hình, dân đào địa đạo đặt rèn một loại cuốc đặc biệt chuyên dùng “đục” ổ mối. “Thay vì rèn cuốc có lưỡi, họ yêu cầu lò rèn làm một cái cuốc có lưỡi nhọn hoắt, cứng, nặng để đục, bóc dần lớp đất chai lỳ, dai của ổ mối”, ông Đào khẳng định.

 Đại tá Nguyễn Văn Tiền kể lại ngày sinh đứa con đầu lòng dưới lòng đất
Tuy nhiên, khó khăn đó chỉ như chút chướng ngại nhỏ. Người đào địa đạo luôn phải đối đầu với tử thần. Ông Lê Văn Đào nhớ lại: “Một trong nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất trong thời gian đào địa đạo là việc suýt nữa tôi bỏ mạng dưới lớp đất dày”. Theo lời ông, trong lúc cùng đồng đội đang thi công thì bất ngờ địch tràn vào. Mọi người được lệnh xuống hầm ẩn nấp. Sau ít phút yên ắng, ông nghe rõ tiếng động cơ xe tăng ầm ầm tiếng đến. Ngồi dưới lòng đất, ông cảm nhận rõ sự rung chuyển của mặt đất. Tiếng động cơ ngày càng gần, sự rung động của mặt đất mỗi lúc một mạnh.
Bất ngờ, trong bóng đêm đen kịt, ông cảm nhận đất đổ ầm ầm xuống đầu, vai. Theo phản xạ, ông lách người sang bên nhưng đã muộn. “Tôi thấy khó thở và nhói ở ngực rồi không còn biết gì nữa. Khi mọi người móc được tôi ra từ đất cát thì bên cạnh tôi đã có hai cái xác của đồng đội. Bơ vơ trên miệng hầm, phía xa tôi thấy lính Mỹ đang leo xuống từ trực thăng. Tôi nghĩ mình đã bị lộ nên không thể chui lại hầm. Làm như thế sẽ khiến các anh em dưới ấy bị phát hiện. Tôi rút khẩu K54, lên đạn đặt bên cạnh rút chốt hai trái lựu đạn còn lại. Song, không hiểu vì sao địch lại không tiến vào. Tôi thoát chết lần thứ hai”.

Sau lần suýt bị xe tăng đè chết, vùi dưới đất sâu, ông vẫn hăng say bám đất, bám địa đạo kháng cự với giặc Mỹ. Tháng năm sống và chiến đấu dưới địa đạo luôn đẩy ông về phía tử thần. Thế nhưng, ông khẳng định ông không còn cảm giác run sợ mà chỉ thêm hưng phấn. Ông nói: “Tôi không muốn nhắc nhiều đến quá khứ đau buồn vì mỗi lần như thế, tôi đều xúc động và không kìm được nước mắt. Sự mất mát đau thương mà dân tộc ta trải qua là quá lớn. Nhưng, bù lại ta có được chiến thắng. Một chiến thắng vẻ vang”.

“Lót ổ” dưới lòng đất

Cũng như Đại tá Lê Văn Đào, ký ức Đại tá Nguyễn Văn Hiền (đã về hưu) cũng chất đầy những kỷ niệm bi tráng. Tuổi cao, thân mang bệnh và không bao giờ muốn rơi thêm nước mắt nhưng mỗi lần nhắc đến tháng ngày đào địa đạo, ông không thể ngăn nước mắt ứa ra từ đôi mắt nhăn nheo. Ông kể: “Tôi đào địa đạo từ năm 13, 14 tuổi và chứng kiến biết bao đau thương trên mảnh đất này hay dưới lòng địa đạo, hầm sâu. Những kỷ niệm đó luôn cho tôi niềm đau bất tận. Một trong chứng kiến ám ảnh tôi nhất là lần giặc càn vào làng và phát hiện địa đạo, hầm bí mật. Để triệt tiêu ý chí bám đất, bám làng, đào địa đạo, chúng không ngần ngại thảm sát vô số người vô tội, trong đó có cả những đứa trẻ con chưa sống trọn tuổi thơ”.

Phút nghỉ ngơi của những người đào địa đạo
Năm 1950, khi ông đang tham gia đào địa đạo tại xã Trung An, bất ngờ địch phát hiện. Thất bại trong việc tấn công vào các hầm trong địa đạo, chúng tìm cách đưa những người đang trốn dưới lòng đất ra khỏi nơi trú ẩn. Trong lúc triển khai quân bao vây khu vực được khoanh vùng, chúng dùng bao bố loại lớn nhúng xăng, đốt hun khói xuống hầm. “Không chịu được khói độc nhiều người trong hầm chưa có đường thoát hiểm phải chui ra khỏi địa đạo. Trong đó có những đứa trẻ vô tội. Chúng xếp những người này thành hàng ngang rồi nã đạn. Lần ấy, chúng tàn sát mấy trăm người. Khi tôi bò lên thì hai lỗ mũi bị bít kín bởi bụi khói đen kịt, xác người vương vãi khắp nơi”, ông Tiền kể.
Nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên trong địa đạo
Sau trận càn, người còn sống sót cố lục tìm xem có ai may mắn thoát chết không. Hình ảnh những người phụ nữ cố ôm con trong lòng, chết gục trong khi đứa trẻ vẫn say ngủ, hay bú sữa luôn ám ảnh tâm trí ông. Thời lửa khói, nếu nhiều địa phương khác coi rừng là nhà thì người Củ Chi coi địa đạo là mái ấm. Ông Tiền chứng kiến biết bao thế hệ lớn lên và mất đi từ địa đạo, những đôi lứa kết đôi rồi sinh con giữa lòng đất tối tăm. 
Vợ ông, bà Lê Thị Hở nhớ lại: “Năm 1965, giặc càn dữ lắm, chúng bốc dân đi hết. Đất này chỉ cò người theo cách mạng bám trụ lại. Trong đó có chúng tôi. Lúc ấy, ông Tiền đang phụ trách cán bộ của xã. Giặc càn dữ quá nên mọi người đẩy mạnh phong trào đào địa đạo. Lúc ấy, mọi người không phân biệt tuổi tác, ai cũng hăng say đào hầm, địa đạo, công sự. Tôi đang mang bầu đứa con đầu lòng nhưng vẫn tham gia đào và sinh con dưới lòng đất”.
Kể lại sự luống cuống trong ngày đầu làm cha, ông Nguyễn Văn Tiền cho biết: “Hôm đó, hai vợ chồng tôi cũng đào ngay chỗ này (nhà riêng của ông – PV) đang đào thì vợ tôi chuyển dạ. Bên ngoài, giặc nã đạn ầm ào nên tôi không dám đưa vợ đi trạm xá. Tình hình lúc đó gấp quá có đưa đi cũng không kịp mà đường xá, phương tiện sơ cứu cũng thô sơ, tôi đành cố thu dọn gọn gàng nơi đang đào dở làm cái hầm cho vợ sinh. Đặt bà ấy lên giường bằng đất có lót tấm mền cũ, tôi lui ra sau bắc nồi đồng đun nước sôi rồi băng rừng đi gọi hộ sinh”.
Đến nay, dù ở bên kia sườn dốc cuộc đời, ông vẫn không quên những tình huống luống cuống đến dở khóc dở cười trong lần vợ sinh con dưới lòng địa đạo. Ông kể: “Hôm ấy tôi đi gọi hộ sinh nhưng chẳng còn ai, gắng mãi mới tìm được một cô nhưng không may cô ấy lại cụt một tay. Trở về đến địa đạo, thấy vợ la đau đớn tôi càng thêm lúng túng. Khi cô hộ sinh bảo tôi chuẩn bị nước tôi mới ngửi thấy mùi đồng khét lẹt. Ngoảnh ra sau mới biết trong lúc luống cuống đi gọi hộ sinh, tôi bắc nồi đồng lên bếp mà quên chuyện đổ nước. Thế mà cuối cùng cũng mẹ tròn con vuông”. 
15 ngày sau ngày sinh nở, khi hai mẹ con bà Hở vẫn đang sinh hoạt dưới lòng đất tối đen thì máy bay B52 dội bom xuống Phú Mỹ Hưng. Dân được lệnh di tản. Ông Tiền bế đứa con còn đỏ hỏn băng sông di tản. Ông nhớ như in: “Đang giữa dòng, vợ tôi yếu quá, đuối sức, ngất xỉu giữa dòng nước đục. May mà những người sau phát hiện, lôi bà ấy vào bờ. Đến khi tình hình tạm yên, tôi lại đưa mẹ con bà ấy về chỗ cũ. Nói chung con đầu lòng của tôi sinh ra và lớn lên trong địa đạo ngay dưới nhà tôi đang ở bây giờ”. Bỗng chốc ông ngừng lại, kết thúc câu chuyện bằng những giọt nước mắt trong sự trầm ngâm, xa xăm. Chúng tôi hiểu, ông đang sống lại giây phút bi hùng và hạnh phúc trong niềm tự hào là con dân của thành đồng đất thép.


Ước mơ xây dựng phòng Truyền thống ở mỗi xã có địa đạo

Ông Lê Văn Đào chia sẻ: “Hiện nay, nhiều bạn trẻ Củ Chi có nhu cầu và rất thích thú tìm hiểu về lịch sử cũng như những con người từng gắn bó sống và hoạt động cách mạng dưới lòng đất địa đạo. Địa đạo Củ Chi trải dài trên địa bàn nhiều xã của huyện như Phú Mỹ Hưng, Trung An, Nhuận Đức, Phú Hiệp, An Nhơn Tây... nhưng chỉ mới có một khu di tích lịch sử địa đạo đặt tại xã Phú Hiệp. Tôi nghĩ cần phải xây dựng thêm một số phòng truyền thống ở các xã còn lại, có người hướng dẫn, kể chuyện về địa đạo cho con cháu hiểu biết và yêu thêm truyền thống yêu nước của quê hương”.

                                                                                                            Hà Nguyễn - Ngọc Lài

Không có nhận xét nào:

Trang