Lời giới thiệu: Xin trân trọng giới thiệu các bạn vài ý kiến của chúng tôi về
hiện tình đất nước, và suy nghĩ về sự phát triển trong tương lai. Những ý kiến
và suy nghĩ này đã được Gs Trần Văn Thọ khởi xướng và soạn ra lần đầu cách đây
khoảng 3 tháng. Bản thảo đã qua rất nhiều lần bổ sung và chỉnh sửa, để đi đến
sự đồng thuận và dung hòa những khác biệt về quan điểm và cách nhìn giữa chúng
tôi. Những ý kiến và suy nghĩ được trình bày trong bài này đã được gửi cho giới
lãnh đạo trong Đảng, Chính phủ, và Quốc hội. Mới đây, một số báo cũng đề cập
đến một số khía cạnh trong bản ý kiến của chúng tôi. Hôm nay, chúng tôi chính
thức công bố để chia sẻ cùng các bạn quan tâm.
Xin nói ngay và nhấn mạnh rằng đây không phải là bản kiến nghị,
mà là một bản phân tích. Chúng tôi phân tích những diễn biến trong thời gian
qua liên quan đến kinh tế, đối ngoại, giáo dục, khoa học, y tế, và văn hóa. Từ
những kết quả phân tích, chúng tôi xác định một số nguyên nhân chủ yếu, và phát
biểu một số suy nghĩ về định hướng phát huy những thế mạnh và khắc phục những
yếu kém trong tương lai, nhằm đưa đất nước tiến vào một thời kì phát triển mới.
Cố nhiên, những lĩnh vực chúng tôi chọn để phân tích và phát biểu có thể không
đầy đủ, hoặc những nhận xét của chúng tôi không có gì “mới”, nhưng đây là một
nỗ lực tập thể nhằm hệ thống hóa, bổ sung và làm mới những gì các lãnh đạo Đảng
và Nhà nước, nhân sĩ và trí thức đã phát biểu trong quá khứ.
Chúng tôi nghĩ rằng là người Việt không ai mà
không muốn đất nước mình phát triển nhanh và bền vững. Nhưng nhìn qua các nước
chung quanh có cùng văn hóa và điều kiện phát triển, chúng ta phải chạnh lòng
thú nhận rằng những thành tựu đạt được trong thời gian qua ở nước ta chưa tương
xứng với tiềm năng của dân tộc, và nhất là chưa tương xứng với sự hi sinh to
lớn của hàng triệu người trong hai cuộc chiến vừa qua. Chúng tôi hi vọng rằng
những phân tích và suy nghĩ trình bày trong bài này sẽ giúp cho mỗi chúng ta
nhìn lại để — nói như lời kết của bản ý kiến là — “mở ra con đường mới để dân
tộc tiến nhanh về phía trước, để đất nước phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và
tự chủ.”
Nguyễn Văn Tuấn
Ý kiến: Cải cách
toàn diện để phát triển đất nước
Các tác giả:
Hồ Tú Bảo, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương,
Nguyễn Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Vĩnh Sính, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn Thọ, Cao
Huy Thuần,
Nguyễn Văn Tuấn, Hà Dương Tường, Vũ Quang Việt, Phạm Xuân Yêm
Nội dung tóm tắt
1. Mở
đầu
2. Việt
Nam nhìn từ thế giới bên ngoài
3. Việt
Nam hiện nay: thực trạng và nguyên nhân
4. Cải
cách vì một nước Việt Nam giàu mạnh và tự chủ
5. Kết
luận
Tóm tắt:
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Theo
dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây,
chúng tôi thật sự lo âu về tương lai của đất nước. Bản ý kiến này không nêu lại
những thành tựu Việt Nam đã đạt được, mà tập trung vào vấn đề nội lực Việt Nam
đang suy yếu: Kinh tế bấp bênh, giáo dục và y tế xuống cấp, khoa học và công
nghệ non yếu, đạo đức xã hội suy thoái, tham nhũng tràn lan, bộ máy nhà nước
nhiều bất cập. Trong lúc đó, kinh tế ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc và đe
dọa về an ninh từ nước láng giềng phương Bắc ngày càng rõ nét.
Năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua
ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước thu nhập thấp. Nhưng ta đã mất
gần 35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng gần một
thế hệ mới đạt được thành quả còn khiêm tốn này. Trong cùng thời gian đó, nhiều
nước ở châu Á đã đạt thành quả được cả thế giới ngưỡng mộ. So với các nước
trong vùng và trên thế giới có cùng điều kiện phát triển trước đây, nước ta
hiện nay vẫn còn ở vị trí rất thấp trong hầu hết mọi lĩnh vực, từ kinh tế, giáo
dục đến khoa học. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra vẫn còn rất xa. Hiện nay chưa có dấu hiệu cho
thấy Việt Nam có thể đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm
2020.
Khi phân tích vấn đề, chúng tôi thấy có hai nguyên nhân sâu xa,
liên quan đến thể chế nói chung, và cơ chế tuyển chọn người lãnh đạo và quản lý
nhà nước nói riêng.
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện
nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu
Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng,
thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động
và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy
thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và
không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để
phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều công
chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa
học,… không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn
có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh
của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần
lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao
và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến
địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng
bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi
dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều
cán bộ nhà nước.
Theo chúng tôi, phải có một cuộc cải cách mang tính cách mạng về
thể chế mới giải quyết được hai vấn đề này. Chúng tôi nghĩ rằng trách nhiệm này
trước hết thuộc về đảng cầm quyền và trên thực tế hiện nay cũng chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam mới đảm nhận được vai trò này.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét thực
hiện 8 điểm sau:
1. Kiên quyết xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền.
Không có ai và tổ chức nào đứng trên và đứng ngoài pháp
luật. Để thực hiện
được điều này, cần triệt để tôn trọng Hiến pháp và đảm bảo sự thực thi Hiến
pháp theo tinh thần hiến pháp là trên hết. Đồng thời, cần có cơ chế kiểm soát
quyền lực, cần có hệ thống tòa án độc lập để chế tài được các hành vi lạm dụng
quyền hành, tham nhũng, làm giàu bất chính và ức hiếp dân chúng.
Triệt để dân chủ hóa, đúng như mục tiêu mà Hiến pháp đề ra. Đảng cần chứng minh bằng hành động
thực tế rằng đó không phải là khẩu hiệu mà chính là thao thức thường xuyên của
lãnh đạo, của các cơ quan công quyền. Để thực hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp
lý hiện nay, cần thật sự triển khai và áp dụng nội dung của Hiến pháp. Trước
hết, phải thật sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi rõ, đặc biệt là quyền
tự do báo chí, tự do ngôn luận, và được quyền lập hội, quyền biểu tình trong
khuôn khổ pháp luật, và quyền bình đẳng trước pháp luật.
Pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do của người này không xâm phạm
đến quyền tự do của người khác chứ không phải nhằm hạn chế hoặc triệt tiêu tự
do. Tất nhiên, tự do cá
nhân phải tôn trọng lợi ích tập thể, nhưng không nên viện lợi ích tập thể với
mục đích triệt tiêu tự do. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” phải
được hiểu trong tinh thần đó để các quyền được Hiến pháp công nhận có giá trị
thực sự chứ không phải chỉ có tính cách lý thuyết. Hiện nay, không thiếu
thí dụ luật được viết nhằm hạn chế quyền công dân được ghi trên Hiến pháp. Thí
dụ điển hình là luật bầu cử và Quyết định 97. Luật bầu cử hạn chế quyền ứng cử
của công dân vì đòi hỏi người tự ứng cử phải được Mặt trận Tổ quốc thông qua.
Quyết định 97 của Thủ tướng nhằm hạn chế quyền phản biện chính sách của trí
thức. Thật ra, tất cả các quyền của công dân đều đã nằm trong Hiến pháp Việt
Nam, chỉ cần triển khai và thật sự áp dụng.
Cần bảo đảm nền móng của dân chủ: đó là tự do ngôn luận. Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp đã ghi
rõ cần đi vào thực chất với việc bảo đảm tính công khai và minh bạch của các
hoạt động công quyền và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những
hoạt động đó. Những hạn chế cần thiết của tự do ngôn luận, như các bí mật quốc
gia (thuộc phạm vi hình sự) hay bí mật kinh doanh, đời tư của công dân (dân
sự), phải được ghi rõ trong các đạo luật (được quốc hội thông qua) chứ
không phải là qua các nghị định, quyết định của hành pháp.
2. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ nhằm thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Không nên tự ràng buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nếu chỉ biết học thuyết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ
của thế giới thì đã không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá
trị phổ quát của nhân loại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” là rất hợp lòng dân. Các hệ tư tưởng là công cụ nhằm giúp
đạt mục tiêu trên. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy một xã hội muốn phát
triển cần có tự do tư tưởng và tự do ngôn luận do đó cần thoát khỏi sự ràng
buộc vào một ý thức hệ duy nhất. Ra khỏi sự ràng buộc vào ý thức hệ đó cũng sẽ
cho thấy Việt Nam độc lập với Trung Quốc về mặt tư tưởng và đi trước Trung Quốc
về cải cách thể chế.
3. Xây dựng một nhà nước vững mạnh bằng cách minh bạch hóa việc
bổ nhiệm các chức vụ cao cấp, thực hiện việc tuyển chọn công chức theo qui
trình khách quan dựa trên khả năng, cải cách chế độ tiền lương cho hợp
lý.
Nêu cao trách nhiệm cá nhân trong hệ thống công quyền. Tất cả công chức và
người lãnh đạo trong hệ thống nhà nước phải chịu trách nhiệm cá nhân về nhiệm
vụ của mình, không được ẩn náu dưới danh nghĩa trách nhiệm tập thể. Cơ chế tập
trung dân chủ khi đem áp dụng trong việc điều hành chính phủ đã bị nhiều người
lợi dụng để bao biện cho thói vô trách nhiệm, ỷ lại, đổ lỗi cho tập thể, cơ
hội, bè phái, “cha chung không ai khóc”. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế tách
bạch sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước để tránh sự chồng chéo, áp
đặt, kém hiệu quả.
Minh bạch hóa trong bổ nhiệm tất cả các chức vụ, kể cả vị trí cao
cấp. Tạo cơ chế
công khai và dân chủ hóa để có thể tuyển chọn những nhà lãnh đạo tài đức và đáp
ứng được đòi hỏi của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới nể trọng.
Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi đưa ra
Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Những người đủ tài đức nhưng không phải đảng viên
cũng cần được xem xét bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Chính phủ Hồ Chí Minh
sau Cách mạng Tháng tám cũng đã có phương châm này.
Xây dựng bộ máy công chức làm việc có trách nhiệm và hiệu quả, và
có cơ chế tuyển chọn khách quan dựa trên tài năng chuyên môn. Hiệu suất của bộ máy công quyền là điều
kiện tối cần thiết để kinh tế, giáo dục, văn hóa phát triển nhanh và lành mạnh.
Cho nên, việc tuyển chọn công chức phải dựa trên tiêu chí chuyên môn và đạo
đức, độc lập với quan điểm chính trị ở nhiều loại công việc.
Cải cách chế độ tiền lương nhằm bảo đảm người công chức có thể
sống bằng đồng lương của mình. Công chức phải được bảo đảm sống bằng đồng lương để tập trung
vào công việc. Chế độ tiền lương cần hợp lí và phù hợp với khả năng, cống hiến
thực của công chức để có thể thu hút được những người có khả năng nhất trong xã
hội vào bộ máy công quyền. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi cần đặt thành
mục tiêu ưu tiên phải thực hiện ngay.
4. Phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong đó ưu tiên hàng
đầu là tạo công ăn việc làm và nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý
doanh nghiệp quốc doanh trong đó có các tập đoàn kinh tế.
Về việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao
động cần được đặt thành ưu tiên hàng đầu. Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao
động cần đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế và chú trọng phát triển nông thôn.
Đề nghị lập một hội đồng tư vấn chiến lược phát triển để giúp
chính phủ vạch ra chiến lược phát triển có trọng điểm, không dàn trải và dẫm
chân lên nhau, kết hợp thỏa đáng lợi ích quốc gia và lợi ích vùng nhằm phát
triển nền kinh tế có chất lượng. Hội đồng này tập trung những chuyên gia có trình độ, có chức năng
xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và
chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành
liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường
trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh
nhân và trí thức. Bộ phận chuyên trách này sẽ có tiếng nói quan trọng trong
việc quyết định các dự án lớn, trong quy hoạch phát triển và xây dựng kết cấu
hạ tầng.
Cải cách chế độ sở hữu ruộng đất và tạo cơ hội có việc làm ngoài
nông nghiệp là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn. Cần có chiến lược về đất đai, qui hoạch
rõ rệt các vùng chuyên canh nông nghiệp và vùng có thể phát triển công nghiệp,
cải cách để xác định rõ đâu là đất tư hữu và đâu là đất công hữu, tiến tới xóa
bỏ hẳn chính sách coi đất đai là sở hữu toàn dân như hiện nay. Tư hữu hóa sẽ là
cơ sở để giải quyết việc tập trung ruộng đất manh mún hiện nay để thực hiện sản
xuất lớn nông nghiệp và phục vụ công nghiệp hóa nông thôn. Mặt khác, như nhiều
người đã chỉ ra, đất đai là một nguồn tham nhũng rất lớn, gây hàng ngàn vụ
khiếu kiện của dân trong những năm qua, tệ nạn này sẽ được hạn chế rất nhiều
nếu người dân trên nguyên tắc được toàn quyền sở hữu (thay vì chỉ có quyền sử
dụng) đất đai của mình.
Cần xóa bỏ chế độ hộ khẩu để người dân khi đến đô thị làm việc có
thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông
thôn.
Cần nhanh chóng cải cách việc điều hành và quản lý doanh nghiệp
quốc doanh đặc biệt là các tập đoàn kinh tế. Thời gian qua tập đoàn kinh tế đã trở
thành nơi hội tụ của các nhóm lợi ích và người có quyền chức, gây ra bất ổn cho
nền kinh tế và tình trạng tham nhũng bành trướng. Vì thế, cần đặt các doanh
nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, trong khung pháp lý chung
của luật pháp; xóa bỏ việc hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh và thay vào
đó là Hội đồng quản trị độc lập có nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân
bổ nhiệm, nhằm tránh biến tập đoàn thành một phần của các nhóm lợi ích. Ngoài
ra, cần xóa bỏ các ưu đãi đặc biệt (về tín dụng, thuế, bảo lãnh nợ,…) cho doanh
nghiệp quốc doanh; và không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và
ngoài quốc doanh.
5. Ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo đức xã hội.
Văn hóa và đạo đức xã hội đang xuống cấp nghiêm trọng. Kỷ cương
phép nước và nhân phẩm của con người đang bị coi thường. Chưa bao giờ cái xấu,
cái giả và cái ác, biểu hiện ở nhiều dạng nhiều mặt, lại xuất hiện nhiều như
bây giờ. Các giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân loại chưa kịp nuôi dưỡng và bén
rễ thì đã bị những cái xấu, cái giả lấn át. Thói háo danh, hình thức phô
trương, mê tín dị đoan lại càng được dịp lên ngôi. Vì thế, cần quảng bá, khuyến
khích những giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái,
pháp quyền… và khôi phục những tinh hoa văn hóa truyền thống để làm nền tảng
cho mọi sinh hoạt của xã hội. Cần nghiêm khắc xử lý cán bộ ở các cấp cao khi có
hiện tượng sai phạm đạo đức để làm gương. Đặc biệt quan trọng là việc sử dụng
hiệu quả vai trò tích cực của công luận để phê phán và ngăn chặn sự suy thoái
của đạo đức và văn hóa.
6. Thực sự làm cho giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Vì thế, chiến lược
phát triển cần phải xây dựng theo hướng chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực ngày
càng có kỹ năng và khả năng làm chủ công nghệ cao. Chiến lược phát triển cũng
cần phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng nhiều hơn nữa. Do đó, phải có
biện pháp hiệu quả nhằm cụ thể hóa các chính sách về giáo dục, khoa học và công
nghệ. Đồng thời, lãnh đạo phải cho thấy quyết tâm chăm lo sức khỏe của người
dân qua các cải cách về y tế.
Cần tránh chính trị hóa học đường. Thay vào đó, cần giáo dục đạo đức, khích lệ
tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, và ý chí phấn đấu của tuổi trẻ. Điều
tối quan trọng là cần đảm bảo tự do học thuật, tăng tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các cơ sở đào tạo.
Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp của giáo dục,
chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo dục, cụ thể là
chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến lược, chính sách,
và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
7. Thực hiện đoàn kết dân tộc
Chấp nhận và dung hòa với những người bất đồng chính kiến nhưng
cùng mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt trước những diễn biến phức tạp và
nguy hiểm ở biển Đông, hòa hợp hòa giải dân tộc cũng có nghĩa là cổ vũ lòng yêu
nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ. Chúng tôi đặc biệt
đề nghị nên có hình thức ghi nhận và biểu dương sự dũng cảm hy sinh của những
quân nhân Việt Nam Cộng hòa bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
8. Triển khai một đường lối ngoại giao độc lập, dựa trên một thể
chế dân chủ, chú trọng hơn đến quan hệ chiến lược với ASEAN và Hoa Kỳ, trong
khi tiếp tục coi trọng quan hệ hữu nghị và bình đẳng với Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc cần được xây dựng trên cơ sở hoàn
toàn bình đẳng, nhưng
không xem đó là quan hệ đặc biệt, càng không thể coi đó là đồng chí tốt. Việt
Nam không thể “hợp tác toàn diện” với một nước lớn và mạnh hơn mình hàng chục
lần và có những quan hệ phức tạp về lịch sử và địa chính trị, nhất là đang thể
hiện rõ tham vọng và đã có những hành động bành trướng, xâm hại chủ quyền và an
ninh quốc gia của Việt Nam.
Về Biển Đông, Quốc hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo đặc biệt về
Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là
sự thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là thiện chí
của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng
biển gần Đài Loan. Tuyên cáo này vừa để làm rõ quan điểm của Việt Nam trước dư
luận quốc tế, vừa xóa bỏ những ngờ vực của không ít người Việt Nam ở trong và
ngoài nước, góp phần tăng thêm tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm.
Cần đoàn kết với Philippines, Malaysia và Brunei trong việc chống
lại tuyên bố “Đường Lưỡi Bò” của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam đưa ra
đề án với ASEAN đặt tên vùng biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước gọi
là biển Nam Trung Hoa) là Biển Đông Nam Á.
Trước bước ngoặt lịch sử của đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam mang một trách nhiệm nặng nề đối với tiền đồ dân tộc. Chúng tôi mong
thấy một cuộc cách mạng mới về thể chế để Việt Nam có thể phát triển thành một
nước giàu mạnh và tự chủ.
A. Mở đầu
Việt Nam chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế và trên cục diện chính
trị của khu vực và thế giới? Đất nước chúng ta sẽ thụt lùi về nhiều mặt, hay là
sẽ phát triển mạnh mẽ, bền vững, đáp ứng khát vọng của dân tộc là mong thấy một
nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển hài hòa với thiên nhiên và xã hội, chia sẻ
được những giá trị phổ quát của thế giới văn minh và giữ vững độc lập về kinh
tế, chính trị, văn hóa? Nền tảng xã hội, văn hóa, giáo dục và thể chế của ta
hiện nay có tạo đủ những điều kiện cơ bản để đất nước phát triển theo hướng
tích cực không?
Theo dõi những diễn tiến của xã hội Việt Nam, đặc biệt trong
những năm gần đây, chúng tôi thật sự lo âu khi thử trả lời những câu hỏi nêu
trên.
Từ gần 20 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu phát
triển đất nước là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là
mục tiêu đúng đắn, có giá trị phổ quát và nước nào cũng muốn nhắm tới. Thế
nhưng, hiện thực cho thấy Việt Nam không luôn tiến được theo hướng đó, nếu
không nói là trên nhiều mặt Việt Nam đã đi ngược lại. Một bộ phận nhỏ giàu một
cách bất hợp pháp, sinh hoạt xa hoa trong khi đa số dân chúng hằng ngày phải
vật lộn với cơm áo, với chi phí cho giáo dục, y tế trong cơn lạm phát. Tham
nhũng ngày càng trầm trọng, len lách vào mọi ngõ ngách của xã hội làm ảnh hưởng
đến ý chí phấn đấu, tinh thần hướng thượng của người dân, và ngày càng có nhiều
trường hợp công chức làm mất thể diện quốc gia. Bộ máy công quyền ở các cấp nổi
lên quá nhiều người thiếu cả tài lẫn đức đến nỗi một lãnh đạo cấp cao của Đảng
phải thừa nhận là bây giờ có quá nhiều “sâu”. Do tham nhũng, thiếu người tài
đức gánh vác việc nước nên bộ máy nhà nước có nhiều bất cập. Tiếng nói của trí
thức, của các nhà báo chân chính ngày càng mất hiệu quả. Đạo đức xã hội xuống
cấp trầm trọng, bắt đầu lan tràn vào cả trong học đường, trong viện nghiên cứu
khoa học, là những nơi lẽ ra phải đi đầu về đạo đức.
Năm 1996 Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra mục tiêu công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, chủ trương phấn đấu làm cho Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp hiện đại vào năm 2020. Từ đó đến nay đã 15 năm, đã đi gần 2/3 đoạn đường
dự định mà cái đích còn quá xa vời. Việt Nam chưa có được một ngành công nghiệp
áp dụng công nghệ tiên tiến và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới.
Chúng ta chủ yếu vẫn còn xuất khẩu hàng công nghiệp gia công, dùng nhiều lao
động giản đơn và tùy thuộc sản phẩm trung gian nhập khẩu. Doanh nghiệp nhà nước
nhất là tập đoàn kinh tế được dành mọi ưu đãi về vốn và đất nhưng cho đến nay
chẳng những không đóng được vai trò chủ đạo như nhà nước chủ trương mà còn gây
ra gánh nặng nợ nần và bất ổn cho toàn nền kinh tế.
Nền kinh tế yếu cùng với bộ máy nhà nước nhiều bất cập đã đưa đến
một hậu quả nghiêm trọng là Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Về kinh
tế thì đã quá rõ: Hàng công nghiệp của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt
Nam, nhập siêu từ Trung Quốc cao ở mức dị thường, vừa gây bất ổn kinh tế vĩ mô
vừa cản trở khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Doanh nghiệp
Trung Quốc chiếm phần lớn các gói thầu xây dựng, mua quyền sử dụng lâu dài rừng
và bờ biển Việt Nam, đưa lao động vào Việt Nam dưới nhiều hình thức – kể cả bất
hợp pháp – và nhiều nơi hình thành cộng đồng người Hoa mới… Về chính trị và tư
tưởng, tuy không rõ ràng và dễ nhận biết như trong kinh tế, nhưng sự phụ thuộc
là có. Cũng vì gắn bó với Trung Quốc về ý thức hệ, về thể chế chính trị mà ta
không triển khai được đường lối ngoại giao khôn ngoan hiệu quả, không tận dụng
được sức mạnh thời đại để làm cho dân giàu nước mạnh. Chẳng những thế, lệ thuộc
về kinh tế và ngoại giao sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất chủ quyền. Điều này đưa
đến một thực tế nghiêm trọng: An ninh quốc gia bị đe dọa!
Từ tháng 5 năm nay (2011), vấn đề biển Đông trở nên nổi cộm. Ảnh
hưởng của Trung Quốc đến an ninh của ta đã thấy rõ. Thật ra, chuyện Trung Quốc
gây hấn ở Biển Đông lần này không đáng lo bằng sự thâm nhập của họ ngày càng
mạnh và sâu vào kinh tế, chính trị và văn hóa của ta. Khi kinh tế ta yếu, bộ
máy nhà nước yếu, nền tảng đạo đức xã hội lung lay, Trung Quốc có thể thực hiện
được mục tiêu biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc toàn diện vào họ.
Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, vô cùng
lo lắng, bức xúc trước nguy cơ Việt Nam bị thụt lùi trong tiến trình phát triển
của thế giới mà hậu quả là Việt Nam có thể mất độc lập và tự chủ dưới hình thức
này hay hình thức khác. Để tránh nguy cơ này, Đảng Cộng sản Việt Nam, với trọng
trách đối với tiền đồ của đất nước, cần cải cách và triệt để đổi mới thể chế,
nhằm củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, tận dụng thời cơ quốc
tế, để mở ra con đường phát triển mới cho đất nước. Những nhận định
về thực trạng và đề nghị cải cách dưới đây là xuất phát từ bức xúc về nguy cơ
hiện nay đối với Việt Nam và ước vọng của chúng tôi về một nước Việt Nam thực
sự giàu mạnh, văn minh và tự chủ. Chúng tôi tin rằng, đây cũng chính là ước vọng
của toàn dân Việt Nam nói chung.
B. Việt Nam nhìn từ thế giới bên ngoài
Nhìn kinh tế thế giới trong nửa thế kỷ gần đây ta thấy nhiều nước, nhất là
những nước ở châu Á, đã phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước đi
trước, thậm chí có nước đã tiến lên ngang hàng với các nước tiên tiến. Có mấy
khi chúng ta xét xem một cách khách quan, nghiêm túc những yếu tố cơ bản, những
đặc trưng chung nhất làm cho các nước ấy thành công? Cho đến nay, Việt Nam có
nghiên cứu kinh nghiệm các nước nhưng chủ yếu là những chính sách, chiến lược
cụ thể, còn những yếu tố thuộc nền tảng thể chế và xã hội, nền tảng văn hóa,
giáo dục…, tức là những tiền đề để cho các chính sách, chiến lược cụ thể ấy
thành công, thì hầu như không được chú trọng nghiên cứu, hoặc có nghiên cứu
nhưng không được thực thi, áp dụng.
Ta thử lấy trường hợp Hàn Quốc làm thí dụ: Hàn Quốc vào đầu thập
niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát triển ban
đầu và thành công trong giai đoạn phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến
trong thời gian rất ngắn. Quá trình công nghiệp hóa của nước này bắt đầu từ năm
1961 nhưng chỉ sau một thế hệ, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát
triển đáng kể trên thế giới và đến năm 1996 được kết nạp vào Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) là tổ chức của các nước tiên tiến. Từ một nước nhận
viện trợ nhiều vào các thập niên 1960 và 1970, Hàn Quốc bắt đầu chuyển sang vị
trí của nước đi viện trợ từ cuối thập niên 1980. Hiện nay, nhiều công ty của
Hàn Quốc trong các ngành công nghệ cao như điện tử, xe hơi đã vươn lên hàng đầu
thế giới.
Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về sự thành công của Hàn Quốc ta
có thể nêu lên mấy nguyên nhân chính. Thứ nhất là tố chất của người lãnh đạo.
Đó là những nhà chính trị mà tinh thần yêu nước vượt qua những niềm tin ý thức
hệ, luôn trăn trở về con đường đưa đất nước đuổi kịp các nước tiên tiến. Họ
cũng là những người thức thời, biết học hỏi ở đâu, tham khảo thể chế, cơ chế
nào và du nhập công nghệ gì để phát triển nhanh. Và họ cũng biết rằng để xây
dựng chiến lược phát triển trên cơ sở hiểu rõ nội lực và ngoại lực không thể
không dựa vào người tài thật sự. Bởi vậy, chung quanh lãnh đạo toàn người tài
giỏi, nhất là nhiều người đã du học và làm việc ở các nước tiên tiến. Thứ hai,
với ý thức rằng bộ máy hành chính mạnh, hiệu suất cao mới vạch ra được các
chính sách cụ thể và thực thi có hiệu quả các chính sách ấy, Hàn Quốc từ rất
sớm đã có cơ chế thi tuyển công chức nghiêm ngặt để có được đội ngũ quan chức
tài giỏi, mang trong mình sứ mệnh lo việc nước. Thứ ba, trong quá trình phát
triển, Hàn Quốc xây dựng được quan hệ lành mạnh, hiệu quả giữa nhà nước và
doanh nghiệp. Nhà nước yểm trợ để doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới
nhưng có cơ chế để doanh nghiệp không ỷ lại vào nhà nước như buộc doanh nghiệp
phải có thành quả xuất khẩu mới tiếp tục được hỗ trợ. Thứ tư, giáo dục, nghiên
cứu khoa học và công nghệ được quan tâm hàng đầu. Vào giữa thập niên 1980,
nghĩa là chỉ sau khoảng 25 năm từ khi bắt đầu quá trình phát triển, Hàn Quốc đã
có những đại học, những viện nghiên cứu đạt chất lượng thuộc đẳng cấp quốc tế.
Những đặc trưng trên hầu như xuyên suốt trong quá trình phát
triển, kể cả giai đoạn đầu, dưới thể chế độc tài chính trị (1961-1987). Hàn
Quốc không phải không có tham nhũng, nhưng không tràn lan trong xã hội mà chỉ
giới hạn ở một vài chính trị gia và một số ít tập đoàn kinh tế. Đặc biệt hầu
như không có hiện tượng bòn rút của công, rút ruột công trình xây dựng, càng
không dám lạm dụng, lãng phí tiền viện trợ.
Trong 50 năm qua, những nền kinh tế khác tại châu Á phát triển
nhanh trong thời gian dài như Đài Loan, Malaysia, Thái Lan cũng đều có những
đặc trưng giống Hàn Quốc, tuy nội dung chi tiết có khác và thành quả ít ấn
tượng hơn.
Bây giờ nhìn lại trường hợp Việt Nam. Năm 2008, lần đầu tiên thu
nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của
nước thu nhập thấp theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới. Nhưng ta đã mất gần
35 năm kể từ khi đất nước thống nhất, nếu kể từ khi đổi mới cũng
gần một thế hệ mới đạt được thành quả khiêm tốn đó. Mặt khác, cơ chế, chính
sách trong thời gian qua, đặc biệt trong 4-5 năm gần đây, đã làm cho kinh tế
phát triển chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư giảm và kéo theo lạm phát, lãng
phí. Chất lượng phát triển cũng giảm nghiêm trọng: môi trường xuống cấp, phân
hóa giàu nghèo tăng nhanh. Từ thành quả khiêm tốn và chất lượng phát triển thấp
này, liệu từ nay Việt Nam có thể bắt đầu giai đoạn phát triển bền vững và kéo
dài trong nhiều thập niên để thực sự có dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh, có vị trí xứng đáng trong khu vực châu Á và trên thế giới?
Cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, tính theo giá năm
2009, thu nhập đầu người 4.000 USD là cái mốc của nước thu nhập trung bình cao
và 12.000 USD là mốc vượt lên hàng các nước thu nhập cao. Ở châu Á, Hàn Quốc từ
một nước nghèo đã vươn lên hàng các nước thu nhập cao chỉ trong 4 thập niên
(thu nhập đầu người năm 2009 là 17.000 USD). Malaysia (7.000 USD) và Thái Lan
(4.000 USD) đang nỗ lực tạo điều kiện để trở thành nước tiên tiến, có thu nhập
cao trong vòng hai thập niên tới.
Chỉ kể từ thời kỳ sau đổi mới, Việt Nam đã nhận viện trợ gần 20
năm rồi mà chưa thấy lãnh đạo Việt Nam đưa ra kế hoạch tới bao giờ sẽ không còn
nhận viện trợ. Ngược lại, ở Hội nghị các nhà tài trợ mới đây, chính phủ còn
nhấn mạnh Việt Nam vẫn là nước nghèo, cần thế giới tiếp tục quan tâm, giúp đỡ!
Sang Seoul gặp sinh viên ta đang du học ở đấy sẽ nghe họ buồn rầu nói về hình
ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc. Trong khoảng 95.000 người Việt Nam tại đây thì
60.000 là lao động xuất khẩu và 30.000 là phụ nữ sang lấy chồng vì lý do kinh
tế. Vậy thì hình ảnh Việt Nam ở đây làm sao tốt được? Trí thức nước ngoài hiện
nay khi nói về Việt Nam ít có ai lạc quan về tương lai kinh tế nước ta. Đó là
họ mới chỉ thấy tình trạng tham nhũng, trình độ của quan chức mà họ tiếp xúc và
những chính sách bất cập mà họ thấy được.
Phân tích trong phần tiếp theo cho thấy thực trạng đáng lo ngại
về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học & công nghệ và đối ngoại,
cũng như những nguyên nhân chính đã đưa đến trình trạng đó.
C. Việt Nam hiện nay: Thực trạng và nguyên nhân
Phân tích hiện trạng Việt Nam, chúng tôi thấy có quá nhiều vấn đề đang làm cho
nền tảng xã hội bị lung lay, đất nước suy yếu. Hầu hết những vấn đề đó bắt
nguồn từ thể chế và cơ chế.
1. Về kinh tế
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp
chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu vẫn là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn.
Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản
phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ
năng lao động cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng xuất khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam
còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu. Từ năm 2002 nhập siêu của Việt
Nam tăng nhanh và gần đây khuynh hướng này càng mạnh hơn. Nhập siêu quá lớn
đang gây ra bất ổn vĩ mô.
Trong 5 năm qua, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đi theo hướng
hầu như mở toang cửa nền kinh tế mà không kèm theo việc thiết lập một hệ thống
pháp lý cần thiết nhằm giám sát các mặt trái của nền kinh tế thị trường. Kết
quả là Việt Nam đã vô tình xây dựng và củng cố một nền kinh tế tư bản hoang dã
phục vụ các nhóm lợi ích (nhất là các tập đoàn kinh tế), phá hoại tài nguyên
thiên nhiên, bòn rút của công làm giàu cho cá nhân trong khi lao động chân
chính phải khổ sở với đồng lương thấp trước sự leo thang của vật giá.
Từ năm 2006 Việt Nam cho phép lập các tập đoàn kinh tế nhưng
không đi kèm quy định giám sát cần thiết cũng như điều kiện buộc phải xác lập
hệ thống quản lý doanh nghiệp, minh định rõ trách nhiệm và quyền hạn của lãnh
đạo công ty. Điều này đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng, trở thành một trong
những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự đổ vỡ của Vinashin
cho thấy bản chất của các tập đoàn kinh tế.
Chính sách phân quyền xuống địa phương đã không phát huy được sức
sáng tạo và cạnh tranh để phát triển mà ngược lại, mở cửa cho những người có
chức có quyền ở địa phương lợi dụng cơ hội đào khoét tài nguyên đất nước để làm
giàu cá nhân, kể cả việc giao đất và tài nguyên cho nước ngoài khai thác ở
những nơi trọng yếu về an ninh và quốc phòng. Luật Đất đai coi đất đai là sở
hữu công, do đó dành cho chính quyền quyền thu hồi đất của bất cứ ai. Luật lại
giao quyền này cho Ủy ban Nhân dân ở mọi cấp, xuống tận cấp quận, huyện, với
giá do chính Ủy ban Nhân dân quyết định nhằm mục đích “phát triển kinh tế”. Đây
chính là lý do nhiều đất đai mầu mỡ của nhân dân bị thu hồi để làm khu phát
triển công nghiệp, sân gôn, hay xây nhà kinh doanh. Do được phân quyền, nhiều
địa phương giao đất rừng, hầm mỏ cho công ty Trung Quốc khai thác trong 50 năm,
kể cả những vùng nhạy cảm về an ninh mà trung ương không biết. Ngoài ra, tình
trạng thu hồi đất có tính cách cưỡng chế đã giải thích tại sao có quá nhiều vụ
dân oan liên quan đến đất đai.
Chính sách phân quyền hoàn toàn hợp lý để tạo sự chủ động, sáng
tạo cũng như nhằm giải quyết các vấn đề riêng của địa phương, kể cả tạo cạnh
tranh giữa địa phương này và địa phương khác. Nhưng thực tế các yếu tố tích cực
đó đã không phát huy tác dụng, ngược lại chỉ làm nảy sinh các mặt tiêu cực. Tại
sao như vậy? Đó là do năng lực yếu kém và thiếu tinh thần trách nhiệm của nhiều
lãnh đạo địa phương như sẽ nói dưới đây.
Quy hoạch phát triển cũng là vấn đề đáng lo ngại của ta. Nhìn
chung, cho đến nay quy hoạch nặng tính chất áp đặt, nóng vội, duy ý chí, thiếu
thiết kế tổng thể và nhiều khi thiếu tính chuyên nghiệp. Những yếu kém này thể
hiện ở nhiều lĩnh vực. Trong phát triển đô thị thì đó là việc quy hoạch vội vã,
thiếu khoa học dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông liên tục và kéo dài, ngập
úng do mưa, đào đường, đắp đường, chắn lô cốt … ở khắp mọi nơi. Trong đầu tư
thì đó là tình trạng đầu tư theo phong trào, tràn lan kém hiệu quả như việc đầu
tư trong nhiều dự án về kết cấu hạ tầng, về nhiều dự án phát triển công nghiệp
và dịch vụ kém hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển yếu kém dẫn đến tình trạng
khai thác tài nguyên cạn kiệt, ồ ạt, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà không
tính đến hiệu quả lâu dài; không xét đầy đủ đến tất cả các khía cạnh liên quan
đến hiệu quả kinh tế, văn hóa, môi trường, v.v. Nhiều cảnh quan thiên nhiên và
di tích văn hóa bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đặc biệt môi trường bị ô nhiễm nặng
nề. Điển hình của việc này là nhiều dòng sông đã và đang bị các công ty đua
nhau “bức tử”. Nguồn nước sinh hoạt, nước trong các ao hồ từ các thành phố lớn
đến nông thôn cũng bị ô nhiễm ở rất nhiều nơi. Chính do ô nhiễm nguồn nước sinh
hoạt, ở nhiều vùng đã xuất hiện những “làng ung thư”. Điều này gióng lên hồi
chuông cảnh báo cấp bách và đòi hỏi chính quyền phải có những biện pháp mạnh mẽ
hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường và chất lượng nguồn nước. Ngoài ra, ô
nhiễm không khí cũng ở trạng thái báo động và ô nhiễm ở các làng nghề cũng ở
mức nguy hiểm.
Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của quy hoạch, do khả năng hạn chế của chính quyền địa phương,
và không loại trừ những toan tính tư lợi hoặc lợi ích cục bộ của những người có
trách nhiệm.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình hình kinh tế như hiện nay? Chúng
tôi cho là có ba nguyên nhân sâu xa.
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì phương châm xây dựng
“nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đó chủ trương
vai trò chủ đạo của sở hữu nhà nước, của kinh tế nhà nước. Từ khi có phương
châm này (1991), do sự thuyết phục của những người có tư tưởng cải cách, nội
dung có thay đổi một phần nhưng cái cốt lõi vẫn giữ nguyên mà hiện thân của nó
là các tập đoàn kinh tế do nhà nước lập ra. Nhiều tập đoàn kết nối với một số
lãnh đạo làm thành những nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế. Khi có sai
phạm các lãnh đạo đó bám theo phương châm nói trên của Đảng để trốn trách
nhiệm.
Thứ hai, trong cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân không rõ
ràng và thiếu động cơ để quan chức, lãnh đạo các bộ phấn đấu để bộ mình giải
quyết các vấn đề lớn của đất nước. Ngược lại, ta thấy nhiều trường hợp họ chạy
theo những hoạt động ngoài công việc mình phụ trách, lãng phí thì giờ và công
quỹ. Có bộ trưởng phụ trách kinh tế trong lúc kinh tế khủng hoảng lại dành thời
gian hướng dẫn nghiên cứu sinh viết luận án tiến sĩ, vốn là việc của giáo sư
đại học. Có cục trưởng phụ trách vấn đề giá cả trong lúc lạm phát người dân
khốn đốn lại bỏ đi đóng phim! Suốt trong hơn 10 năm qua, ai cũng thấy rõ công
nghiệp Việt Nam thiếu sức cạnh tranh, hàng hóa của Trung Quốc ào ạt tràn vào
nước ta, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phát triển được, v.v. Cũng đã có rất
nhiều đề án, chiến lược được trí thức trong và ngoài nước đưa ra, kể cả phân
tích của học giả nước ngoài và các cơ quan quốc tế, nhưng tất cả đều bị xếp
lại, không được chuyển thành chính sách để thực hiện.
thứ ba, một phần liên quan đến vấn đề thứ hai vừa đề cập, trình
độ, năng lực, tư cách của rất nhiều quan chức các cấp ở trung ương và địa
phương không đạt yêu cầu. Rất tiếc chúng ta chưa chứng kiến những hình tượng lý
tưởng của nhà cầm quyền “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của
thiên hạ”, còn người ngược lại thì quá nhiều. Trong cơn bão giá làm dân chúng
điêu đứng mà trách nhiệm chính ở những bộ liên quan, nhưng tiền mua xe hơi của
quan chức cao cấp được tăng lên và được giải thích đó là chính sách đối phó với
giá cả leo thang! Thí dụ tương tự về sự vô cảm, vô trách nhiệm của quan chức
thì quá nhiều. Hậu quả tiêu cực của chính sách phân quyền đã nói phần lớn là do
trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và tư chất đạo đức của các chức trách địa
phương. Chúng ta nghe nhiều về các hiện tượng tiêu cực ở địa phương hơn là
những điển hình tiên tiến, ít thấy những lãnh đạo dấn thân vì dân giàu nước
mạnh ở địa phương mình. Hiện tượng đưa người thân quen vào bộ máy công quyền
rồi trang bị thêm bằng cấp đạt được bằng con đường bất minh cũng làm suy yếu bộ
máy hành chính ở rất nhiều nơi
2. Về văn hóa
Văn hóa, đạo đức xã hội đang suy thoái trầm trọng. Chưa khi nào
tin tức về tệ nạn xã hội lại có mật độ dày đặc như hiện nay. Dường như, cái xấu
và cái ác đang hoành hành ngoài xã hội và tràn lên mặt báo mỗi ngày. Kỷ cương,
phép nước bị coi thường, tính tự giác tôn trọng pháp luật và các quy ước xã hội
và văn hóa rất thấp. Mê tín dị đoan lên ngôi, không chỉ ở tầng lớp đại chúng mà
ngay ở cả một số cán bộ cao cấp ở các cơ quan công quyền. Hiện tượng “buôn thần
bán thánh” trở thành phổ biến. Những chuẩn mực về văn hóa, những giá trị phổ
quát như chân-thiện-mỹ đã bị sự giả dối, cái xấu và cái ác bóp nghẹt không nhân
nhượng.
Hệ quả của điều này là các thang giá trị trong xã hội bị đảo lộn.
Sự tự trọng, danh dự đã bị sự giảo hoạt, gian dối lấn át. Người ta sẵn sàng làm
đồ giả để dâng cúng Quốc tổ, Quốc mẫu; sẵn sàng tranh cướp trong các lễ hội hoa;
sẵn sàng túc trực chen lấn xô đẩy đến hỗn loạn trong lễ hội phát ấn.
Chưa bao giờ, nhân phẩm của con người có thể bị xúc phạm dễ dàng
và tính mạng của con người có thể bị coi rẻ như vậy. Những vụ đánh giết nhau
với hung khí xảy ra thường xuyên, nhiều khi chỉ vì những nguyên nhân không đâu.
Không chỉ giữa những người dân bình thường với nhau, mà còn cả giữa đại diện
của cơ quan công quyền với dân chúng. Vốn văn hóa dân tộc trở nên mỏng manh hơn
bao giờ hết trước sự tấn công của văn hóa ngoại, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc
dưới mọi hình thức, thể loại.
Một điều hết sức đáng băn khoăn là thế hệ thanh thiếu niên đang
lớn lên trong một môi trường thiếu hình mẫu cá nhân về lý tưởng và đạo đức, do
vậy dễ quen một cách tự nhiên với các thói xấu như quay cóp, gian lận thi cử,
đạo văn, hối lộ… Tính vị kỷ được đề cao, đi liền cùng sự thờ ơ với các vấn đề
của xã hội, của đất nước.
Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng suy thoái đạo đức, văn hóa
này là sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng; sự băng hoại, tha hóa
của nhiều công chức qua việc tham nhũng và hối lộ; và sự kiểm soát báo chí và
truyền thông, – vũ khí mạnh nhất để chống lại tham nhũng, bất công, giả dối, ác
độc – đã làm cho công luận bị hạn chế và vô hiệu hóa.
3. Về giáo dục
Giáo dục là vấn đề được toàn xã hội Việt Nam quan tâm nhất từ
nhiều năm nay. Từ cuối thập niên 1990 nhà nước đã đưa giáo dục lên quốc sách
hàng đầu, nhưng thực tế thì tình hình giáo dục ngày càng tụt hậu, sa sút, nhất
là trong những năm gần đây. Một vài điểm nổi bật dễ thấy của giáo dục Việt Nam
trong những năm qua như sau.
Một là chất lượng đào tạo sút kém, từ bậc phổ thông đến đại học
và càng lên cao chất lượng càng yếu. Nhìn tổng thể, giáo dục Việt Nam chưa đào
tạo đủ những người có kiến thức và năng lực để đáp ứng nhu cầu của phát triển
đất nước. Nhân lực đào tạo ra ở cuối bậc đại học, cao đẳng và dạy nghề còn ở
khoảng cách xa với đòi hỏi thực tế của các ngành nghề và xã hội.
Hai là hệ thống giáo dục phổ thông gây ra nhiều hiện tượng làm
bức xúc trong xã hội như tổ chức quá nhiều kỳ thi, lãng phí sức người, sức của;
dạy thêm, học thêm tràn lan; chương trình giáo dục và sách giáo khoa luôn thay
đổi nhưng chất lượng không được cải thiện. Ngoài ra, bệnh thành tích và các tệ
nạn tham nhũng trong giáo dục hết sức phổ biến.
Ba là giáo dục đại học có chất lượng nói chung còn thấp, gần đây
lại phát triển hỗn loạn với nhiều trường tư chạy theo lợi nhuận lại được cấp
phép bừa bãi, không đáp ứng một quy hoạch có cân nhắc nào. Tình trạng nói trên
dẫn đến hiện tượng “tị nạn giáo dục”, khi những người giàu có ở Việt Nam, kể cả
các quan chức trong Đảng và chính phủ, đều tìm cách cho con em ra nước ngoài
học, thậm chí từ cấp phổ thông.
Bốn là bằng cấp trở thành mục đích, là cứu cánh của cả xã hội, và
các tệ nạn học vẹt, học tủ, bằng giả, gian lận trong thi cử, … không hề được
bài trừ một cách kiên quyết. Nhiều quan chức bị tố cáo trên báo chí về việc
dùng bằng giả hay gian lận thi cử rồi cũng được bỏ qua, thậm chí được bổ nhiệm
chức vị cao hơn. Hiện tượng mua bằng, sao chép luận án, thuê viết luận án, v.v.
đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức học đường nói riêng và toàn xã hội nói
chung.
Năm là chế độ phong chức danh phó giáo sư và giáo sư ở đại học
còn nhiều bất cập. Các tiêu chuẩn phong chức danh hiện nay không khuyến khích
nhà giáo đại học hướng đến những nghiên cứu khoa học đích thực, có ý nghĩa mà
thường làm những việc để dễ có “điểm” theo quy định không đâu có của việc phong
chức danh. Ngoài ra, các chức danh này lẽ ra chỉ dành cho người giảng dạy đại
học hoặc nghiên cứu khoa học, nay được phong ở nhiều ngành cho nhiều người vốn
không có vị trí giảng dạy đại học hay nghiên cứu ở cơ quan khoa học, làm cho
nhiều quan chức hành chính nhảy vào tham gia công việc của đại học một cách
không thích đáng.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sa sút của giáo dục đã
được bàn luận rộng rãi, chúng tôi cho rằng các nguyên nhân sau đây là chính
yếu.
Một là giáo dục của Việt Nam trong những năm qua thiếu một tầm
nhìn chiến lược tổng thể; thiếu kiên quyết theo đuổi một triết lý giáo dục xác
định; thiếu kế hoạch đồng bộ từ cơ cấu tổ chức đến triển khai các hoạt động
giáo dục; ở rất nhiều nơi, sự cứng nhắc và áp đặt của hệ thống chính trị đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động giáo dục. Thêm nữa là nội dung giáo dục nặng
nề, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới; và trên hết là thiếu những
người lãnh đạo ngành giỏi cùng một đội ngũ quản lý giáo dục hiệu quả. Những cố
gắng thay đổi của ngành giáo dục trong những năm qua thường mang tính vụn vặt,
chắp vá, nhiều khi do quyết định vội vã của một vài cá nhân và càng làm tình
hình thêm rối.
Hai là lương của giáo viên quá thấp làm họ không thể vô tư toàn
tâm toàn ý với công việc. Do giáo viên phải tự bươn chải trong một xã hội cha
mẹ sẵn sàng làm mọi việc cho sự học của con cái, nhiều tiêu cực đã nảy sinh,
ảnh hưởng đến tư cách và hình ảnh người thầy, vốn là điều kiện tiên quyết cho
thành bại của giáo dục.
4. Về y tế
Tình trạng bệnh tật và y tế của nước ta thật hết sức đáng lo.
Số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng
nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm
tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn,
cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng
thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, là sự bất
cập trong chính sách về y tế và thiếu đạo đức nghề nghiệp của người thầy thuốc.
Dịch vụ y tế ở Việt Nam có phát triển trong những năm vừa qua (số
lượng cán bộ nhà nước làm về y tế tăng xấp xỉ 40% trong giai đoạn 1995-2009, và
có thêm nhiều cơ sở y tế tư nhân xuất hiện), nhưng tình trạng quá tải ở các
bệnh viện công, với hiện tượng 2-3 người phải nằm chung một giường bệnh ở nhiều
nơi, không giảm đi mà thậm chí có phần tăng lên. Lý do là, tuy dịch vụ y tế tăng
lên, nhưng bệnh tật ở Việt Nam còn tăng nhanh hơn. Ví dụ, nếu năm 2000 cứ 100
nghìn người có 242 ca ung thư, thì đến năm 2010 con số này đã tăng lên thành
315 ca, so với trung bình trên thế giới là dưới 200 ca. Nếu như trong giai đoạn
2002-2006 cứ 100 người thì có 9 lượt nhập viện trong năm, thì đến năm 2009 con
số đó đã tăng hơn 30% thành 12 lượt nhập viện, thuộc loại cao nhất trên thế
giới. Tỷ lệ bệnh tật tăng nhanh là cái giá mà Việt Nam đang phải trả cho kiểu
phát triển kinh tế thiếu bền vững, thói làm ăn giả dối dẫn đến môi trường bị ô
nhiễm và thực phẩm độc hại.
Tương tự như đối với ngành giáo dục, nhà nước ở trung ương và địa
phương chưa chú tâm đầu tư đúng mức đến ngành y tế, trong khi tiếp tục lãng phí
trong việc xây dựng nhiều công trình không hoặc chưa cần thiết. Tỷ lệ chi phí
mà nhân dân phải tự bỏ ra cho dịch vụ y tế tăng lên nhanh. Nhiều người nghèo có
bệnh không được nhập viện, hay phải trốn viện vì không có tiền đóng viện phí.
Lương chính thức trả cho các y bác sĩ không đủ sống và không xứng đáng với địa
vị của họ. Những điều này góp phần làm cho các tệ nạn tiêu cực, sự suy đồi về
đạo đức lan tràn vào trong ngành y tế. Người thầy giáo và người thầy thuốc vốn
là những người được xã hội ta tôn trọng từ xưa, nhưng sự suy thoái về đạo đức đã
làm phai nhạt đi truyền thống tốt đẹp này.
5. Về khoa học và công nghệ
Có thể nói những đặc điểm chính của khoa học và công nghệ
(KH&CN) Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp còn rất hạn chế của
KH&CN vào công cuộc phát triển đất nước; lực lượng làm KH&CN được đào
tạo nhiều nhưng không làm việc hiệu quả; các chính sách và cách thức tổ chức
hoạt động KH&CN còn nhiều bất cập.
Có thể tóm tắt những điểm nổi bật của bức tranh tổng quát về tình
trạng khoa học và công nghệ của Việt Nam hiện nay, như sau:
Thứ nhất, có thể nói hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN ở
Việt Nam còn mờ nhạt: hoạt động nghiên cứu KH&CN có chất lượng thấp và
KH&CN chưa có những đóng góp xứng đáng cho sự phát triển đất nước.
Chất lượng thấp này có thể thấy rõ qua các thước đo khách quan
như số lượng các công trình công bố trên các tập san khoa học quốc tế uy tín và
số bằng phát minh sáng chế. Trong 10 năm qua, số lượng công bố của các nhà khoa
học Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 2/5 của Malaysia. Hơn nữa, ở nhiều
lĩnh vực, phần lớn những nghiên cứu này là do hợp tác với nước ngoài, tức còn
phụ thuộc vào “ngoại lực” quá nhiều. Trong giai đoạn 2000-2007, các nhà khoa
học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng phát minh, trong khi cùng thời gian này
Malaysia có 901 bằng phát minh. Thái Lan (310), Philippines (256) và Indonesia
(85) cũng đều có số bằng phát minh nhiều hơn Việt Nam nhiều lần.
Ứng dụng và sáng tạo KH&CN trong sự phát triển của Việt Nam
còn mờ nhạt, chưa tương xứng với lực lượng đông đảo cán bộ KH&CN được đào
tạo và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Kinh phí đầu tư, chính sách và
cách quản lý chưa cho thấy KH&CN khó có thể trở thành yếu tố quyết định để
Việt Nam thoát ra khỏi nhóm quốc gia chủ yếu chỉ sản xuất sản phẩm đơn giản hay
gia công hàng hóa. Hiện tại, phần lớn doanh nghiệp làm ăn chưa dựa trên
KH&CN và hầu hết không có liên kết chặt chẽ với các cơ sở KH&CN.
Thứ hai là số người được đào tạo để hoạt động KH&CN tuy rất
đông với nhiều bằng cấp, nhưng phần lớn không thật sự hoạt động KH&CN, mà
lay lắt hoặc “chân trong chân ngoài” với danh nghĩa làm KH&CN.
Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính của tình trạng trên:
Một là, Việt Nam thiếu một chiến lược KH&CN thích hợp nên
chưa xác định được lộ trình của KH&CN, và tập trung vào những hướng quan
trọng rất cần cho phát triển đất nước và có thể tạo ra thành quả ý nghĩa. Hạn
chế này có phần do việc thiếu các chuyên gia đầu đàn ở mức độ am hiểu sâu sắc
lĩnh vực chuyên môn, có kinh nghiệm và uy tín quốc tế, có thể lãnh đạo được
những tập thể khoa học. Một nguyên nhân của tình trạng trên là: Tuy số lượng
cán bộ KH&CN của ta được đào tạo nhiều, nhưng hầu hết chỉ ở mức vừa xong
giai đoạn học việc (như có bằng tiến sĩ mới là xong giai đoạn học để thành
người làm nghiên cứu), thường không được rèn luyện thêm trong môi trường
KH&CN phát triển để thành nhà khoa học trưởng thành.
Hai là, các nhà khoa học Việt Nam chưa có được môi trường
KH&CN thích hợp để có thể làm việc và sáng tạo. Môi trường này gồm ba yếu
tố cơ bản: điều kiện làm việc đủ tốt, lương đủ sống để tập trung cho công việc,
các chính sách hợp lý có tác dụng kích thích tinh thần sáng tạo, dấn thân vì
khoa học. Điều kiện làm việc ở phần lớn các đại học và các viện nghiên cứu của
Việt Nam nói chung còn thiếu thốn, chưa đủ để tiến hành nhiều đề tài quan trọng
và tiên tiến trong khoa học. Một số nơi có trang thiết bị tốt, lại không giải
quyết được vấn đề tiền lương. Tiền lương của người làm khoa học thấp vừa ảnh
hưởng đến nội dung, chất lượng nghiên cứu vừa gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực,
người có năng lực nghiên cứu cũng không chuyên tâm với nghề mà phải xoay xở tìm
thêm thu nhập ngoài lương.
Nhiều chính sách và cách quản lý đề tài KH&CN chưa hợp lý
cũng góp phần làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nghiên cứu. Thí dụ tiêu
biểu như cách tổ chức đề tài khoa học còn nặng tính xin-cho, làm nhiều người
làm nghiên cứu mất nhiều thì giờ chạy dự án; việc tuyển chọn và nghiệm thu đề
tài thiếu nghiêm túc nên rất nhiều đề tài không có ý nghĩa và giá trị khoa học.
Những quy định, tiêu chuẩn hiện nay về việc phong các chức danh giáo sư, phó
giáo sư không khuyến khích các nhà khoa học hướng đến những nghiên cứu quan
trọng và thách thức, có giá trị khoa học cao hoặc cần cho sự phát triển, mà dễ
hướng đến những nghiên cứu dễ làm, những nơi dễ công bố để có đủ “điểm” thỏa
mãn các tiêu chuẩn phong chức danh, vốn không có ở bất kỳ nước nào khác. Đây
thật sự là những điều rất không hợp lý đã được nhiều nhà khoa học góp ý gần hai
chục năm, nhưng không được thay đổi.
Người làm nghiên cứu trong ngành khoa học xã hội còn luôn nỗi ám
ảnh sợ “chệch hướng”, mất lập trường, nên nói chung sáng tạo bị hạn chế, khoảng
cách so với cộng đồng khoa học thế giới càng lớn. Ngoài ra, ngược với yêu cầu
rất cao về sự bình đẳng, sự tự do tư duy của môi trường khoa học, việc mất dân
chủ ở các cơ quan khoa học thường rất lớn, nhiều trường hợp nội bộ mâu thuẫn,
giành giật địa vị, hoàn toàn không xứng đáng với phẩm vị của người làm khoa
học.
6. Về quan hệ đối ngoại
Sau khi gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt
Nam mở rộng quan hệ ngoại giao, kinh tế và giao lưu văn hóa với hầu hết các
nước. Sau năm 2000, quan hệ đó được đẩy mạnh thêm một bước bằng Hiệp định
thương mại Việt Mỹ và gia nhập WTO. Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế
Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào dòng chảy của thế giới, các quan hệ đối ngoại
khác cũng nhộn nhịp hơn trước.
Có thể ghi nhận nhiều mặt tích cực của hiện tượng đó. Chẳng hạn
xuất khẩu sang thị trường lớn nhất thế giới (Mỹ) được đẩy mạnh, cơ hội du học
của sinh viên Việt Nam tăng nhanh, giành được vị trí trong các tổ chức khu vực
và quốc tế như ASEAN, APEC, WTO. Nhưng nhìn kỹ ta thấy những mặt tiêu cực lớn
hơn nhiều, rất đáng lo ngại.
Theo chúng tôi, so với thời mới đổi mới, mở cửa
(đầu thập niên 1990), hình ảnh Việt Nam trên thế giới xấu đi nhiều. Tham nhũng
lan ra cả trong các quan hệ quốc tế. Chỉ kể những sự kiện lớn (như dự án ODA
của Nhật, vụ in tiền polymer ở Úc,…) cũng thấy thể diện đất nước bị tổn thương
nhiều. Các vụ nhỏ hơn thì nhiều vô kể, chỉ cần gặp những doanh nhân nước ngoài
có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam là biết rõ. Điều đáng nói là nhà nước Việt
Nam đã không có thái độ thích đáng, không xử lý nghiêm những sự kiện bị nước
ngoài chỉ trích. Điển hình là vụ in tiền polymer, báo chí nước ngoài nhiều lần
nêu tên thật của cựu thống đốc ngân hàng nhà nước mà cả đương sự và chính phủ
đều giữ im lặng. Là người Việt Nam có ý thức dân tộc ai cũng thấy hổ thẹn về sự
kiện này.
Nhìn sang lĩnh vực đầu tư nước ngoài, ta thấy nổi bật lên sự hiện
diện rất lớn của Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và gần đây là Trung
Quốc. So với các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Pháp,.. thì những nước mới nổi,
mới phát triển chưa có nhiều những công ty đa quốc gia tầm cỡ; chưa có công
nghệ cao; chưa coi trọng sự minh bạch, hoạt động đúng theo luật và nhất là giữ
thanh danh đã được xác lập của mình. Không ít trường hợp các công ty của những
nước mới nổi tạo những quan hệ bất chính với quan chức nhà nước Việt Nam, nhất
là với chính quyền địa phương, để được cấp các dự án béo bở. Chúng tôi rất lo
ngại khi thấy nhà nước Việt Nam quá dễ dãi để cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt
vào việc xây dựng các khu nhà ở quy mô lớn, các khu du lịch, sân gôn, v.v. và
hình thành những cộng đồng người Hàn, người Hoa trên đất nước mình. Trong khi
giới doanh nhân trong nước còn non yếu, chưa có khả năng làm chủ đất nước và
cuộc sống của tuyệt đại đa số người dân còn nhiều khó khăn, liệu có nên để cho
nước ngoài xây dựng những vùng đặc biệt như vậy? Trong nhiều năm qua, đầu tư
nước ngoài triển khai ồ ạt ở Việt Nam mà cơ cấu công nghiệp không chuyển dịch lên
cao hơn, không tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao.
Trong chiều hướng chung ấy, quan hệ với Trung Quốc là đáng lo
nhất. Đầu tư của Trung Quốc chưa nhiều bằng những nước nói trên nhưng sự hiện
diện của Trung Quốc trong những hình thái khác đang làm Việt Nam mất dần chủ
quyền trong nhiều lĩnh vực. Nếu tình hình hiện tại không thay đổi thì đầu tư
trực tiếp từ Trung Quốc sẽ tăng nhanh, không bao lâu sẽ chiếm vị trí số một tại
Việt Nam.
Hiện nay, quan hệ ngoại thương Việt Trung gây ra bất ổn kinh tế
vĩ mô của Việt Nam, tiềm ẩn nguy cơ về an ninh kinh tế và gây khó khăn trên con
đường công nghiệp hóa của ta. Mậu dịch giữa hai nước tăng nhanh từ năm 2000
nhưng ngày càng mất quân bình. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối
với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Hiện nay nhập siêu của Việt Nam đối với thế
giới chủ yếu là nhập siêu với Trung Quốc.
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta
thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Cơ cấu này hầu như không
thay đổi trong 10 năm qua. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc thì hầu hết là
hàng công nghiệp. Các loại máy móc và các sản phẩm trung gian như sắt thép,
thậm chí các loại vải để dệt may là những mặt hàng nhập khẩu chính. Theo Hiệp
định thương mại ASEAN – Trung Quốc, đến năm 2015 Việt Nam sẽ bãi bỏ hàng rào
quan thuế trên hầu hết các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, tình hình sẽ càng
bi đát hơn nữa. Con đường công nghiệp hóa của Việt Nam sẽ rất khó khăn. Nhưng
chính phủ Việt Nam không thấy nguy cơ đó dù đã được trí thức trong và ngoài
nước cảnh báo nhiều lần. Ngược lại nhà nước còn cho tiến hành khai thác bô-xit
để xuất khẩu sang Trung Quốc làm cho cơ cấu ngoại thương hiện nay đã bất lợi
càng trở nên bất lợi hơn. Cần nói thêm rằng tính chất của ngoại thương Việt
Trung hiện nay là quan hệ của một nước tiên tiến với một nước chậm phát triển.
Tính chất này vừa tạo ra khó khăn cho kinh tế Việt Nam vừa làm hình ảnh Việt
Nam trên thế giới xấu đi nhiều.
Thách thức từ Trung Quốc không chỉ trong ngoại thương. Các công
ty Trung Quốc thắng thầu phần lớn các dự án trọng điểm quốc gia của Việt Nam.
Trung Quốc với lối làm ăn không minh bạch, sẵn sàng mua chuộc, lại quả, nên dễ
thắng phần lớn các gói thầu lớn ở Việt Nam. Theo ước tính, Trung Quốc chiếm
khoảng 50% giá trị thầu trong vòng 10 năm nay, đặc biệt Trung Quốc thắng thầu
tới 90% các dự án trọng điểm về điện, dầu khí, viễn thông, cơ khí, hóa chất và
100% dự án khai khoáng. Trong việc thực hiện các dự án này, Trung Quốc đưa
nhiều lao động đi theo, kể cả các hình thức bất hợp pháp, thậm chí hình thành
những khu cư trú đặc biệt cho người Hoa. Ngoài ra, nhiều chính quyền địa phương
còn cho công ty Trung Quốc thuê rừng, thuê bờ biển hàng nửa thế kỷ, kể cả những
nơi nhạy cảm nhìn từ góc độ an ninh quốc gia.
Một vấn đề nữa là Việt Nam ngày càng vay nợ từ Trung Quốc. Theo
số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, nợ từ Trung Quốc tăng rất nhanh,
gấp 10 lần trong 4 năm gần đây (1,4 tỉ USD năm 2009). Nếu khuynh hướng này tiếp
tục, chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ trở thành chủ nợ lớn nhất và lớn áp đảo đối
với Việt Nam.
Quan hệ Việt Trung cũng ảnh hưởng nhiều đến đường lối đối ngoại
của Việt Nam. Vấn đề này sẽ được bàn riêng trong một mục ở phần D.
Trong thời đại hội nhập, quan hệ đối ngoại của Việt Nam như được
trình bày trên đây hoàn toàn không lành mạnh, ảnh hưởng đến con đường phát
triển sắp tới của Việt Nam và tiềm ẩn nguy cơ mất chủ quyền. Yếu tố nào gây ra
tình trạng đáng lo này? Có thể kể hai nguyên nhân chính:
Thứ nhất, nội lực của Việt Nam quá yếu nên khi hội nhập với thế
giới không hoặc ít tranh thủ được thời cơ từ ngoại lực để phát triển, ngược lại
bị ngoại lực chi phối. Thị trường Trung Quốc lớn và rộng nhưng hàng hóa của
Việt Nam không chen vào được. Nội lực yếu vì sao? Vì trình độ của nhiều lãnh
đạo và quan chức có hạn, không ít trường hợp họ không vì dân vì nước mà vì lợi
ích riêng, sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài dù thấy bất lợi cho
xã hội, cho đất nước. Mở tung cửa thị trường cho hàng hóa và tư bản nước ngoài
mà không định hướng để phát triển những ngành mới và có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới, không đi kèm các luật lệ, quy định cần thiết để giám sát cũng
là một biểu hiệu yếu kém của nội lực.
Thứ hai, trong lúc nội lực của Việt Nam còn quá yếu, quan hệ “đặc
biệt” với Trung Quốc càng làm cho Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào nước này.
Kinh tế Trung Quốc lớn, mạnh áp đảo, phát triển nhanh, và lại ở cận kề Việt
Nam, trong khi kinh tế Việt Nam nhỏ yếu, phát triển chậm hơn mà Việt Nam lại
sẵn sàng đồng ý “hợp tác toàn diện” (4 trong 16 chữ vàng), tạo mọi điều kiện để
hợp tác toàn diện thì dẫn đến kết quả như đã thấy.
7. Tổng kết: Đâu là những nguyên nhân sâu xa?
Trên đây chúng tôi đã điểm qua thực trạng kinh tế, văn hóa, giáo
dục, y tế, nghiên cứu khoa học và đối ngoại của Việt Nam hiện nay và trình bày
một số nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đó. Nổi lên trên hết là hai nguyên
nhân cơ bản, chung cho tất cả các mặt của xã hội:
Thứ nhất, thể chế còn thiếu dân chủ. Có thể nói rằng thể chế hiện
nay là di sản của thời chiến tranh, bao cấp và chủ nghĩa xã hội kiểu
Lênin-Stalin, với đặc điểm cơ bản là hạn chế dân chủ, hạn chế tự do tư tưởng,
thiếu tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ quả là xã hội suy giảm tính năng động
và hiệu quả, hạn chế sáng tạo trong khoa học và giáo dục, không chống được suy
thoái giá trị đạo đức và văn hóa, bất công và cách biệt xã hội tăng lên, và
không khuyến khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước để
phát triển. Chế độ tiền lương bất hợp lí trong cơ chế “xin cho” đã đẩy nhiều
công chức vào con đường tham nhũng, và làm cho nhiều nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa
học, … không chuyên tâm với nghề nghiệp và không giữ được đức tính cao đẹp vốn
có từ xưa. Hoàn toàn đáng lo ngại khi thể chế hiện nay đang hạn chế sức mạnh
của đất nước và làm lung lay nền tảng của xã hội.
Thứ hai, là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất, trong thành phần
lãnh đạo đất nước chưa có nhiều người tài giỏi, bản lĩnh, chịu trách nhiệm cao
và quy tụ được bên mình những trí thức và cộng sự chân chính. Từ trung ương đến
địa phương, nhiều quan chức thiếu cả năng lực và đạo đức cần thiết. Tình trạng
bằng cấp giả và chạy chức chạy quyền đã trở thành vấn nạn nhức nhối. Việc lợi
dụng vị trí công quyền để trục lợi cá nhân đang là hiện tượng phổ biến ở nhiều
cán bộ nhà nước.
D. Cải cách vì một nước Việt Nam giàu
mạnh và tự chủ
1. Cải cách thể chế là quan trọng nhất
Có thể nói Việt Nam chúng ta đang đứng trước một bước ngoặt lịch
sử. Phải có cuộc cách mạng về thể chế mới tránh được nguy cơ này và đưa đất
nước phát triển bền vững. Ai sẽ đảm nhận cuộc cách mạng mới này và nội dung cốt
lõi của cuộc cách mạng là gì?
Chúng tôi cho rằng ở thời điểm này chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam
mới thực hiện được cuộc cách mạng này. Đảng Cộng sản Việt Nam cần tự thay đổi
để lãnh đạo dân tộc bước vào một thời đại mới, thời đại củng cố và phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc để đất nước trở nên giàu mạnh, tự chủ. Đó cũng chính là
sức mạnh to lớn mà Đảng cộng sản Việt Nam (trước đây là Đảng Lao động Việt Nam)
đã phát huy, đã phấn đấu, hy sinh trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân
tộc. Cuộc cách mạng thể chế này, theo chúng tôi, bao gồm những khía cạnh sau:
Thứ nhất, không áp đặt một hệ tư tưởng, một ý thức hệ duy nhất
vào thể chế chính trị, vào đời sống của dân, vào các hoạt động kinh tế – giáo
dục – văn hóa – báo chí, để tạo điều kiện cho người dân, nhất là giới trẻ tiếp
cận được những tinh hoa, những tiến bộ của thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu
chỉ biết Mác-Lênin, không tiếp thu mọi tư tưởng tiến bộ của thế giới thì đã
không viết được bản Tuyên ngôn độc lập gói ghém những giá trị phổ quát của nhân
loại. Trên thực tế, chính Đảng Cộng sản đã từ bỏ nhiều khẩu hiệu phi lý một
thời đã được cường điệu. Chẳng hạn “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” từng là
một trong những khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi (sau năm 1975) nhưng đã dần
dần biến mất. Đó là một sự thay đổi tích cực cần ghi nhận. Mong rằng Đảng Cộng
sản tiến thêm một bước tránh dùng các cụm từ như “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” để các thế lực
bảo thủ vì lợi ích riêng không thể dựa vào đó để làm cho đất nước trì trệ, lạc
hậu. Chúng tôi cho rằng Đảng Cộng sản chỉ giữ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” là hợp lòng dân.
Ra khỏi sự ràng buộc vào một ý thức hệ cũng sẽ giúp cho Việt Nam
độc lập với Trung Quốc về mặt này và đi trước Trung Quốc về cải cách thể chế.
Làm được điều này, Đảng Cộng sản vừa được lòng dân vừa tạo được uy tín trên thế
giới.
Thứ hai, phải triệt để thực hiện dân chủ, đúng như
quy định của Hiến pháp và đúng như trong Cương lĩnh mà Đảng Cộng sản Việt Nam
đề ra. Đảng phải làm thế nào để nhân dân thấy rằng đó không phải là khẩu hiệu
mà chính là khát khao, trăn trở thường xuyên của lãnh đạo, của nhà cầm quyền để
mọi người dân thật sự được tham gia bàn bạc và quyết định việc chung. Để thực
hiện dân chủ trong khuôn khổ pháp lý hiện nay, chỉ cần triển khai và thật sự áp
dụng nội dung của Hiến pháp.
Trước hết, phải thực sự tôn trọng các quyền mà Hiến pháp đã ghi
rõ, đặc biệt là quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và quyền bình đẳng trước
pháp luật. Đầu tiên là quyền tự do báo chí. Muốn biết một nước có dân chủ hay
không, chỉ cần nhìn tình trạng báo chí là thấy. Mà tình trạng báo chí trong
nước ta thì nhân dân thấy rõ là chưa làm được nhiệm vụ thông tin trung thực và
soi sáng được dư luận. Tiếp theo là quyền bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng
trước pháp luật có nghĩa rằng luật pháp là ở trên cao nhất, tối thượng, ai cũng
ngang nhau và đều ở dưới pháp luật. Vậy mà nhân dân thấy quá nhiều người có
quyền chức tự cho mình quyền đứng cao hơn người khác, thậm chí cao hơn cả pháp
luật. Như vậy là ta chưa tiến được bước nào, thậm chí còn đi lùi, trên con
đường “nhà nước pháp quyền” mà chính Hiến pháp đã đề xuất. Bình đẳng trước pháp
luật bao hàm bình đẳng trước công vụ như một hệ quả tất nhiên. Do đó, những
phân biệt đối xử như lý lịch, đảng viên hay không, đều là trái với Hiến pháp.
Bình đẳng trước công vụ, ai cũng có quyền bầu cử, ứng cử như nhau, ai cũng phải
được tuyển dụng vào các cơ quan hành chính trên cơ sở duy nhất là năng lực và
tinh thần trách nhiệm. Chỉ với biện pháp đó, thực hiện triệt để, nền hành chính
của ta, từ trung ương đến địa phương, mới có thể tuyển dụng được người tài giỏi
xứng đáng.
Thứ hai, triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền
lực cao nhất”. Đảng Cộng sản phải thực sự thực hiện nguyên tắc đó để làm nhân
dân tin rằng lá phiếu của mình chắc chắn góp phần vào việc xây dựng một cơ quan
xứng đáng là đại diện toàn dân.
Thứ ba, bảo đảm có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô
cùng quan trọng. Để có được sự độc lập và bảo đảm khả năng chuyên môn về luật
pháp, các thẩm phán cần phải được tuyển dụng như công chức, được bổ nhiệm theo
một quy chế riêng có mục đích bảo vệ tính độc lập của họ. Thẩm phán ở cấp cao
có trách nhiệm bổ nhiệm thẩm phán cấp dưới, cần có nhiệm kỳ dài, chỉ bị truất
quyền giữa nhiệm kỳ nếu vi phạm luật pháp.
Cần nhấn mạnh điều này: Nếu Đảng đứng trên hiến pháp và quyết
định thay cho Quốc hội và tòa án thì tình trạng mãi kéo dài như hiện giờ: Nhiều
sai phạm lớn của cán bộ, đảng viên chỉ được xử lý nội bộ, được bao che, nên
không phòng chống được tham nhũng, và kết quả là mất lòng dân và bộ máy nhà
nước kém hiệu lực.
Thứ tư, cần tạo cơ chế công khai, minh bạch, thực sự dân chủ,
trước hết là trong Đảng để có thể chọn lựa và làm xuất hiện những nhà lãnh đạo
xứng tầm với trí tuệ của dân tộc, được dân tin tưởng và được thế giới kính
trọng. Không nên tiếp tục cách làm hiện nay là dàn xếp trong nội bộ Đảng rồi
đưa ra Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm.
Chúng tôi thẳng thắn nêu những vấn đề này chỉ với mong muốn Đảng
Cộng sản Việt Nam xứng đáng là tổ chức lãnh đạo đất nước, không bị trói buộc
bởi những giáo điều, những mô hình đã bị thực tế lịch sử loại bỏ. Những giấc
mơ, những lý tưởng tốt đẹp cần được chứng minh từng bước bằng thực tế, bằng kết
quả hiện thực chứ không chỉ bằng duy ý chí, và bị lợi dụng bởi một nhóm người
cầm quyền, dùng giáo điều, dùng khẩu hiệu để củng cố quyền lực và lợi ích phe
nhóm mà hậu quả là đất nước tụt hậu và tha hóa…
Nếu bốn điểm nói trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở
Đảng Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp
hơn. Do đó dân chúng nếu có bất mãn và phê phán lãnh đạo hay quan chức thì chỉ
là đối với cá nhân chứ không phải đối với Đảng Cộng sản. Ngược lại, dân chúng
được tự do sử dụng các quyền chính đáng của mình thì chính là giúp Đảng phát
hiện ra những người không đủ tư chất đảm trách công việc lãnh đạo hay quản lý.
Thực hiện dân chủ cũng là biện pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng.
Ngoài ra, Đảng Cộng sản cần quan tâm hơn đến vấn đề đoàn kết dân
tộc. Nếu những điểm nói trên được thực hiện thì kết quả là gắn bó được dân với
Đảng và thực hiện được đoàn kết. Tuy nhiên, cần đưa ra các chính sách cụ thể,
chẳng hạn nghiêm cấm việc lạm dụng quyền lực để đề bạt người thân, có quy chế
luật lệ nghiêm khắc để xử lý các trường hợp sai phạm. Việc cất nhắc, đề bạt
không dựa trên lý lịch chính trị mà theo năng lực và tư chất đạo đức. Đảng và
Nhà nước cần nghiêm chỉnh thực hiện chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc đối với
cựu quan chức và quân nhân của chế độ cũ ở Miền Nam, nhất là trong bối cảnh cần
đoàn kết dân tộc trước yêu cầu tăng nội lực để phát triển đất nước và trước
nguy cơ ngoại xâm. Đặc biệt trong tình hình phức tạp ở biển Đông, để cổ vũ lòng
yêu nước của mọi người dân không phân biệt chính kiến, quá khứ, chúng tôi đề
nghị nên có hình thức biểu dương sự dũng cảm hy sinh của quân đội Việt Nam Cộng
hòa ở Hoàng Sa năm 1974.
Trong việc thúc đẩy sự hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần có biện
pháp hữu hiệu để người Việt ở nước ngoài hợp tác với các cơ sở trong nước, nhất
là trong nghiên cứu khoa học, trong giáo dục và phát triển kinh tế, để cùng làm
cho đất nước giàu mạnh.
2. Củng cố bộ máy nhà nước.
Một chính phủ mạnh và hiệu quả là điều kiện tối cần thiết để kinh
tế phát triển nhanh và có chất lượng cao. Để củng cố bộ máy nhà nước, cần cải
cách chế độ tiền lương và thực hiện việc thi tuyển quan chức. Đây là vấn đề cốt
lõi của nhiều vấn đề.
Cải cách chế độ tiền lương là một việc tuy khó nhưng cấp bách và
không thể trì hoãn, vì nếu không sẽ không thể giải quyết được vấn đề nào khác.
Thiết nghĩ, đây là vấn đề nan giải nhưng không hẳn là không có giải pháp nếu
nhà nước thực lòng quyết tâm. Trước mắt, chúng tôi đề khởi một số nội dung cải
cách như sau:
Thứ nhất, hiện tượng phổ biến hiện nay là tiền lương chỉ chiếm
một phần nhỏ trong thu nhập của quan chức, công chức, thầy giáo, v.v.. Do đó,
trước tiên phải minh bạch hóa các nguồn thu nhập này và lần lượt đưa vào lương.
Thứ hai, cải cách thuế để tăng thu ngân sách. Đặc biệt cần đánh
thuế lưu thông bất động sản, đánh thuế suất cao đối với những người sở hữu
nhiều bất động sản, và đánh thuế thừa kế tài sản.
Thứ ba, tăng tỉ lệ tiền lương trong tổng thu ngân sách. Trước mắt
giảm tỉ lệ đầu tư công lấy từ ngân sách, hoãn những dự án đầu tư lớn cần nhiều
vốn nhưng chưa thật cần thiết..
Thứ tư, tinh giảm bộ máy công quyền ở trung ương và địa phương.
Chúng tôi đề nghị nhà nước lập ra ngay một ban chuyên trách về
cải cách tiền lương gồm các chuyên gia kinh tế, tài chính, hành chánh. Ban
chuyên trách này sẽ khẩn trương nghiên cứu, xem xét 4 nội dung cải cách nói
trên, để trong thời gian ngắn đưa ra đề án cải cách khả thi.
Quan chức, công chức phải là những người được tuyển chọn nghiêm
túc qua các kỳ thi định kỳ và cuộc sống của họ và gia đình họ phải được bảo đảm
bằng tiền lương. Tiền lương cũng phải đủ sức hấp dẫn người có năng lực vào bộ
máy công quyền. Nội dung các kỳ thi tuyển cho quan chức cấp trung trở xuống
cũng cần chú trọng trình độ văn hóa và sự hiểu biết về luật pháp và cơ cấu hành
chánh. Quan chức cấp trung ương, cũng với nội dung ấy nhưng ở trình độ cao cấp
hơn và thêm các chuyên môn cần thiết. Trình độ văn hóa và sự khó khăn phải vượt
qua các cửa thi tuyển sẽ nâng cao khí khái và lòng tự trọng của quan chức,
tránh hoặc giảm được tệ nạn tham nhũng. Việc thi tuyển quan chức còn có tác
dụng tạo niềm tin và động lực học tập trong giới trẻ vì ai cũng có cơ hội bình
đẳng thi thố tài năng cho việc nước. Chế độ tiền lương và việc thi tuyển quan
chức cần được thực hiện trong vòng 3-4 năm tới.
3. Về chiến lược, chính sách phát triển kinh tế
Đây là vấn đề khá rộng và lớn, ở đây chỉ xin nói đến mấy điểm
chúng tôi cho là quan trọng nhất.
Nguồn lực lớn nhất của Việt Nam là con người. Chiến lược phát
triển phải vì cuộc sống của đại đa số dân chúng và chủ yếu dựa vào nguồn nhân
lực ngày càng có kỹ năng cao qua giáo dục và đào tạo, qua khả năng làm chủ công
nghệ.
Hiện nay xuất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài vì lý
do kinh tế đang là hiện tượng làm bức xúc người dân và ảnh hưởng đến uy tín của
Việt Nam trên thế giới. Chúng tôi đề nghị nhà nước đưa ra mục tiêu đến năm 2020
phải thực hiện toàn dụng lao động, không còn ai phải miễn cưỡng ra nước ngoài
chỉ vì sinh kế.
Để phát triển bền vững và hướng tới toàn dụng lao động cần đẩy
mạnh công nghiệp hóa theo hướng ngày càng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và
chú trọng phát triển nông thôn. Cho đến nay trí thức trong và ngoài nước đã đề
xuất nhiều chiến lược, chính sách về các vấn đề này nhưng không được nhà nước
quan tâm thực hiện. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề nghị nhà nước cần
tập trung những chuyên gia có trình độ, thành lập một bộ phận chuyên trách để
xây dựng và giám sát việc thi hành chiến lược phát triển với đủ thẩm quyền và
chế độ đãi ngộ thích hợp. Bộ phận này phải được đặt trên tất cả các bộ ngành
liên quan tới lĩnh vực kinh tế, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó thủ tướng thường
trực, có những chuyên viên tài năng, có cơ chế tiếp thu ý kiến của giới doanh
nhân và trí thức. Việt Nam hiện nay cũng có những cơ quan như Bộ Kế hoạch &
Đầu tư hay Bộ Công thương nhưng quyền hạn liên quan tới vấn đề này bị phân tán,
ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với cơ quan hay doanh nghiệp nhà nước, vì vậy
thường khó có thể đề xuất được những chính sách hiệu quả, hoặc do phải cân nhắc
lợi ích của quá nhiều đối tượng nên những nội dung thống nhất được cũng mang
tính thỏa hiệp, chung chung.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng, chúng tôi đề nghị hoãn kế hoạch xây
dựng đường sắt cao tốc vì chưa cần thiết, tốn kém lớn và đã được chứng minh
bằng các phân tích khoa học là không có hiệu quả. Thay vào đó, cần tu bổ nâng
cấp đường sắt Thống Nhất, mở rộng mạng lưới đường sắt phổ thông đến vùng đồng
bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Bắc, đồng thời xây dựng đường bộ cao tốc
Bắc Nam và xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ nối nông thôn với đường sắt và đường
cao tốc này, nhất là nối nông thôn với các đô thị gần đường cao tốc. Kết cấu hạ
tầng như vậy mới thúc đẩy công nghiệp hóa nông thôn.
Liên quan đến phát triển nông thôn, việc cải cách chế độ hạn
điền, tư hữu hóa sở hữu ruộng đất cần được đẩy mạnh. Chế độ hộ khẩu đã được cải
thiện nhiều nhưng mỗi đô thị lại có các quy chế riêng, cần cải cách theo hướng
tự do hóa việc thay đổi chỗ ở hơn nữa để người dân khi đến đô thị làm việc có
thể yên tâm với cuộc sống ở đó và không cần giữ lại quyền sử dụng đất ở nông
thôn. Với sự phân tán, manh mún của ruộng đất hiện nay, việc tăng năng suất
nông nghiệp gặp khó khăn. Tăng năng suất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông
thôn là hai trụ cột để nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn nói riêng và
phát triển kinh tế nói chung.
Đối với hoạt động của doanh nghiệp, thị trường lao động hiện nay
có vấn đề không ăn khớp giữa cung và cầu: Ở các khu công nghiệp tại các thành
phố lớn bắt đầu có hiện tượng thiếu lao động, doanh nghiệp khó tuyển dụng số
lao động cần thiết, mặc dù ở nông thôn vẫn còn lao động dư thừa. Nguyên nhân là
do thị trường lao động chưa phát triển, cung và cầu không gặp nhau. Một nguyên
nhân nữa là chất lượng lao động (trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, khả
năng tiếp thu tri thức về hoạt động của doanh nghiệp,…) không đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp. Biện pháp để cung cấp lao động một cách ổn định phải bao gồm
chính sách ngắn hạn (phát triển thị trường lao động) và chính sách trung dài
hạn (nâng cao chất lượng lao động, tăng cường giáo dục nghề nghiệp). Chính
quyền địa phương ở nông thôn cần tích cực hơn nữa trong lĩnh vực này.
Nhà nước cần lắng nghe chuyên gia, trí thức về việc quyết định
các dự án lớn. Đặc biệt, chúng tôi đề nghị tạm ngưng kế hoạch xây dựng nhà máy
điện hạt nhân ở Ninh Thuận vì những lý do chúng ta đã biết và các chuyên gia
của ta cũng đã có những phân tích cho thấy dự án này quá tốn kém và chứa nhiều
rủi ro tiềm ẩn. Nhiều người trong chúng tôi cũng đã đề nghị ngưng kế hoạch khai
thác bô-xit ở Tây nguyên vì các lý do về môi trường, an ninh, hiệu quả kinh tế,
và sự lệ thuộc vào nước ngoài.
Vấn đề cuối cùng là cải cách doanh nghiệp quốc doanh trong đó có
các tập đoàn. Cần đặt các doanh nghiệp đó trong khung cảnh chung của luật pháp,
xóa bỏ việc để hành pháp trực tiếp lãnh đạo kinh doanh – dù dưới dạng Thủ tướng
quản hay Bộ trưởng quản – và thay vào đó là Hội đồng quản trị độc lập và có
nhiệm kỳ, do Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân bổ nhiệm, nhằm hạn chế sự thao túng
của các nhóm lợi ích. Doanh nghiệp quốc doanh dùng tiền của dân và nhằm phục vụ
dân, do đó phải có tiếng nói của đại diện nhân dân. Hội đồng quản trị có đại
diện của dân do các tổ chức hội chuyên nghiệp và Mặt trận Tổ quốc đề cử, có đại
diện của người tiêu dùng chính do các ngành sử dụng đề cử, có các chuyên gia
đầu ngành trong lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp do các hội chuyên gia đề cử.
Hội đồng quản trị sẽ bổ nhiệm chủ tịch công ty hay tập đoàn. Để cho doanh
nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực sự phục vụ nhân dân thì phải có
các tổ chức chỉ đạo, kiểm tra nghiêm túc. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp phải
hạn chế, không thể để cho chính quyền các cấp tự do lập ra như hiện nay. Đặc
biệt, phải công khai, minh bạch trong việc cấp vốn, việc cấp và sử dụng các
nguồn lực quốc gia cho các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài những trường hợp đặc
biệt ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước đã được công khai, minh bạch, chính sách
cần bảo đảm công bằng cơ hội, bảo đảm hiệu quả sử dụng và không phân biệt giữa
các thành phần kinh tế, không phân biệt giữa các công ty, kiểm soát và hạn chế
việc hỗ trợ các nguồn lực quốc gia theo kiểu chủ nghĩa tư bản thân hữu.
4. Về văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và công nghệ
Chúng tôi có mấy đề nghị cụ thể sau:
a) Cần có chính sách ngăn chặn sự xuống cấp của văn hóa và đạo
đức xã hội. Tăng cường quảng bá và khuyến khích những giá trị phổ quát, tiến bộ
của nhân loại như tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, quyền con người,… Đồng
thời, phục hồi những giá trị văn hóa truyền thống tích cực để làm nền tảng cho
các ứng xử văn hóa, các chuẩn mực đạo đức trong sinh hoạt xã hội. Song song với
việc này cần tích cực bảo tồn các di tích văn hóa, lịch sử của dân
tộc và ngăn chặn sự xâm thực không chọn lọc của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là
từ Trung Quốc.
b) Cần giảm các hình thức thi đua, tuyên dương, trao huân chương
như hiện nay: Các cơ quan, các đoàn thể tổ chức quá nhiều lễ kỷ niệm những mốc
hoạt động (20 năm, 30 năm, v.v.) và vận động để được nhận huân chương. Đây là
hình thức tốn kém thì giờ, ngân sách mà không có hiệu quả, chưa kể đến những
tiêu cực trong quá trình xin-cho vốn rất phổ biến. Phong trào học tập đạo đức
Hồ Chí Minh cũng không thật sự hiệu quả vì dân chúng thấy tình trạng tham nhũng
ngày càng trầm trọng, người cần học tập đạo đức Hồ Chí Minh (cần kiệm liêm
chính chí công vô tư, …) trước hết phải là những người ở cấp lãnh đạo và quản
lý nhà nước. Tổ chức học tập nghị quyết của Đảng sau các kỳ đại hội như cách
làm hiện nay cũng tốn kém và làm ảnh hưởng đến việc quản lý nhà nước ở trung
ương và địa phương. Thay vào đó nên áp dụng các hình thức khác thích hợp và ít
tốn kém thì giờ, ngân sách.
c) Việc cải tổ giáo dục được bàn quá nhiều trong thời gian qua
nhưng không đưa lại kết quả. Do tầm quan trọng và tình hình ngày càng xuống cấp
của giáo dục, chúng tôi đề nghị Thủ tướng trực tiếp chịu trách nhiệm về giáo
dục, cụ thể là chỉ đạo nội dung cải cách, theo sát việc triển khai các chiến
lược, chính sách, và chịu trách nhiệm về kết quả của các cải cách lớn.
Một trong những nội dung cải cách cấp bách phải là nâng cao vị
thế của người thầy, bắt đầu từ đồng lương đủ sống và nuôi gia đình. Từ đó tiến
đến việc thiết lập lại sự trung thực trong học tập và thi cử, trả lại tính
trong sáng của tuổi trẻ cho học trò, tạo điều kiện cho những tài năng nảy nở.
Một nội dung nữa là tôn trọng quyền tự do học thuật và tư tưởng ở
đại học cũng như trong các hoạt động trí thức, văn hoá nghệ thuật, tạo ra sức
thu hút đối với tuổi trẻ và qua đó giúp thế hệ trẻ có động lực phấn đấu mạnh
mẽ, có ý thức công dân cao và hoài bão phát triển đất nước. Nhân đây chúng tôi
cũng đề nghị Thủ tướng hủy bỏ Quyết định 97 đòi hỏi trí thức chỉ được góp ý
riêng với các cơ quan có thẩm quyền.
d) Cụ thể hóa các biện pháp làm cho giáo dục, đào tạo là quốc
sách hàng đầu.
Triệt để thực hiện miễn phí bậc tiểu học và trung học cơ sở (chậm
nhất là đến năm 2015) và trung học phổ thông (đến năm 2020). Song song với việc
nâng cấp các đại học đang có, cần có ngay kế hoạch xây dựng một hoặc hai đại
học chất lượng cao, trong đó nội dung giảng dạy, cơ chế quản lý, và trình độ giáo
sư cũng như tiêu chuẩn đãi ngộ tương đương với các đại học tiên tiến ở châu Á.
Về các đại học và trường cao đẳng ngoài công lập, cần có biện pháp chấn chỉnh
giải quyết ngay những nơi không đủ chất lượng và có quy chế để ngăn ngừa hiện
tượng kinh doanh giáo dục hiện nay. Ngoài ra, cần ban hành các sắc thuế khuyến
khích doanh nghiệp và những cá nhân có tài sản đóng góp vô vị lợi (chủ yếu là
tặng không) cho sự nghiệp giáo dục. Những vấn đề này cũng cần có kế hoạch thực
hiện cụ thể trước năm 2015.
Cần tăng cường mở rộng và xây dựng thêm các trường, các khoa liên
quan khoa học tự nhiên và công nghệ, xây dựng nhiều trường cao đẳng công nghệ
để cung cấp đủ lao động cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới. Hiện nay, một
mặt, trong nhiều ngành, sinh viên tốt nghiệp ra truờng không có việc làm, trong
khi một số ngành về công nghệ tin học, điện tử, hoá học, kế toán, nông cơ,
v.v.. thì nguồn cung cấp thiếu hoặc không đủ chất lượng. Chính sách sắp tới cần
chú trọng đầu tư xây dựng thêm các ngành ở các lĩnh vực này và cải thiện chương
trình, nội dung giảng dạy để nâng cao chất lượng. Mặt khác, nhu cầu về lao động
có trình độ trung cấp và cao đẳng kỹ thuật, cao đẳng kế toán,… đang và sẽ tăng
nhanh nhưng khả năng cung cấp còn rất hạn chế. Tâm lý coi thường bậc trung cấp
và cao đẳng trong xã hội Việt Nam rất lớn. Cần có chính sách khuyến khích học
tập trong các bậc học này, chẳng hạn tăng cường chế độ cấp học bổng và quan tâm
giới thiệu việc làm cho học viên sau khi ra trường. Tóm lại, cần đổi mới thể
chế giáo dục và đào tạo hiện nay mới có thể thực hiện toàn dụng lao động và đẩy
mạnh công nghiệp hoá trong thập niên 2010.
Nhiều cải cách trong giáo dục cũng nên được áp dụng trong y tế:
tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập
bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên
có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận
nghèo.
e) Tăng cường đầu tư và cải thiện việc sử dụng ngân sách cho
nghiên cứu khoa học: Một trong những lý do thành quả nghiên cứu khoa học của ta
còn khiêm tốn là do thiếu đầu tư. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ
năm 2006 chẳng hạn chỉ có 428 triệu USD, chiếm khoảng 0,17% GDP. Trong cùng
năm, Thái Lan đầu tư 1,79 tỉ USD (0,3% GDP) và Malaysia 1,54 tỉ (0,5% GDP).
Đáng chú ý là Trung Quốc đầu tư 1,4% GDP cho khoa học và công nghệ trong năm
2010 và đặt mục tiêu đầu tư 4% GDP vào năm 2015. Ngân sách đầu tư cho khoa học
công nghệ ở Việt Nam có đặc tính là tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất
thay vì chi tiêu cho việc thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học. Ngoài việc
tăng đầu tư, cần phải xem xét lại việc sử dụng ngân sách khoa học. Theo cách
làm hiện nay thì chúng ta có thể có những thiết bị khoa học tinh vi, nhưng
không có người sử dụng hiệu quả những thiết bị này. Trong thực tế, tình trạng
“thiết bị trùm chăn” đó đã trở nên phổ biến. Như đã phân tích ở trên, nền khoa
học nước ta hiện nay còn lệ thuộc quá lớn vào các đồng nghiệp nước ngoài vì
thiếu chuyên gia có trình độ cao. Do đó, thay vì đầu tư xây thêm phòng thí
nghiệm, cần chú trọng đầu tư vào đào tạo chuyên gia có trình độ chuyên sâu.
Chẳng những cần tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ, chúng ta
cần phải cải cách hệ thống phân phối ngân sách cho nghiên cứu khoa học và quản
lý khoa học. Hiện nay, các đề tài nghiên cứu cơ bản ở cấp nhà nước do các nhà
khoa học xây dựng đã được quản lý khá tốt bởi Quỹ KH&CN quốc gia
(Nafosted). Nhưng với các loại đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển sản
xuất ở các cấp – do cơ quan chủ quản ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu nộp
đơn xin và các cơ quan chủ quản xét duyệt và thẩm định – lại chưa có sự tham
gia đúng mức của các nhà chuyên môn. Vì lý do này nhiều đề tài nghiên cứu của
các bộ ngành, địa phương đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa
học quốc tế và nhu cầu thực tế.
5. Chiến lược đối ngoại
Trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam hiện nay, Trung Quốc, Mỹ
và ASEAN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
“Đường lối ngoại giao của Việt Nam là thân thiện với mọi nước”:
nguyên tắc đó luôn luôn là lý tưởng. Nhưng lý tưởng đó cũng luôn luôn va chạm
với một thực tế mà không nước nào tránh khỏi: đó là thực tế chiến lược mà vị
trí địa dư là yếu tố then chốt.
Chẳng hạn quan hệ của ta với Trung Quốc. Dù Việt Nam muốn chân
thành làm bạn với Trung Quốc đến đâu đi nữa, vị trí địa dư của Việt Nam cũng
bắt buộc ta phải đồng thời nhìn Trung Quốc như một vấn đề an ninh cốt tủy và
thường xuyên. Không việc gì ta phải giấu diếm quan tâm sinh tồn đó bằng 16 chữ
vàng. Càng giấu, ngôn từ và hành động ngoại giao của ta lại càng để lộ yếu kém,
sợ hãi, khiếp nhược. Chỉ bằng cách nói thẳng với Trung Quốc: “Nam quốc sơn hà
nam đế cư”, ta mới có thể làm bạn với Trung Quốc trên một vị thế không phải là
khúm núm, thần phục. Ngày xưa, chỉ có ta với Trung Quốc thôi, ngoài trứng với
đá không có ai khác, vậy mà tổ tiên ta vẫn có thể hiên ngang nói thẳng như thế,
huống hồ bây giờ, thế giới đổi khác, quan hệ chiến lược có thể mở rộng với
nhiều nước khác, cho phép Việt Nam lập hàng rào chiến lược bằng những quan hệ
đặc biệt với nhiều nước.
Trung Quốc chắc phải hiểu cái thế tất yếu đó của Việt Nam. Cho
nên họ vừa dụ dỗ, vừa uy hiếp để Việt Nam không thiết lập quan hệ đặc biệt với
Mỹ và ngay cả không mơ tưởng đến một sách lược cân bằng lực lượng như nhiều
nước trong khối ASEAN công khai áp dụng. Việt Nam có gì khác với các nước ASEAN
khác khiến Trung Quốc có thể uy hiếp được? Không phải vì cái vị thế “núi liền
núi sông liền sông” trong địa dư mà chính vì “núi liền núi sông liền sông”
trong tư tưởng. Chẳng có ai phản đối: văn hóa Trung Quốc đã từng sáng chói cả
một vùng trời Đông Á, ta chịu ảnh hưởng không phải là chuyện lạ, chuyện dở.
Chuyện dở là chịu ảnh hưởng mà không biết sáng tạo như Nhật Bản. Chuyện dở là
chịu ảnh hưởng đến cái mức phải làm cho giống nguyên bản để khỏi bị xem là man
di. Từ trong tư tưởng, Trung Quốc đã là cái khuôn để rập theo. Họ Khổng giáo
thế nào, ta Khổng giáo thế ấy. Họ Mao, ta cũng đã từng Mao. Họ đang là gì, ta
cũng đang thế ấy. Suốt cả thế giới châu Á, có lẽ ngoài Việt Nam và Bắc Triều
Tiên, không có nước nào làm cái bóng dưới mặt trời tư tưởng của họ. Trung Quốc
biết rõ như thế, việc gì họ chẳng nắm cái điểm yếu đó để dụ và đe? Họ biết rõ
ta sẽ không nghĩ đến cái thế cân bằng lực lượng, vì từ trong tư tưởng ta đã
không có ý niệm cân bằng, đã lựa chọn nghiêng về một phía, đã nhượng bộ họ trên
khắp lĩnh vực.
Họ lại còn tha hồ nắm cái điểm yếu đó vì biết chắc rằng không ai
muốn sát cánh với ta thực sự khi quan hệ thân sơ của ta không rõ ràng. Về ngoại
giao, dĩ nhiên ta cần giao hảo thân thiết với Trung Quốc như với Nhật, với
ASEAN, nhưng về chiến lược, cả lịch sử lẫn thực tế ngày nay không cho phép ta
xây dựng an ninh trường kỳ trên tư tưởng trụ cốt “Trung Quốc là bạn đặc biệt”.
Ta không minh bạch trên điểm đó, ai sẽ tin ta? Ai sẽ liên minh chiến lược với
ta để ngăn chận kẻ mà ta vẫn nhận là “bạn đặc biệt”? Thế nhưng trên thực tế ta
lại không thể minh bạch được vì một đằng quyền lợi quốc gia đòi hỏi ta phải
cảnh giác Trung Quốc, một đằng tư tưởng chính thống lại xem Trung Quốc là bạn
đặc biệt. Mâu thuẫn đó phải chấm dứt thì quan hệ chiến lược mới phân minh.
Vậy ai là đồng minh chiến lược với ta? Đồng minh ở đây không có
nghĩa là gia nhập vào một liên minh quân sự mà bao gồm các trường hợp những
nước có cùng quan tâm chiến lược trong các quan hệ ngoại giao. Trong định nghĩa
rộng đó, thực tế ngày nay cho thấy dù muốn dù không chỉ có Hoa Kỳ mới có thể
trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam trong việc thiết lập thế cân bằng lực
lượng để ta giữ nước. Câu hỏi duy nhất còn có thể đặt ra là: nước Mỹ có sát
cánh với ta để cùng ta bảo vệ những quyền lợi thiết thân nhất của ta? Cụ thể,
nước Mỹ có thể cùng ta ngăn chận bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông?
Nước Mỹ không dại gì trả lời câu hỏi đó rành rọt và công khai.
Câu hỏi đó, chính ta phải trả lời, và chỉ ta mới trả lời rành rọt được mà thôi.
Nếu ta làm cho người Mỹ thấy rằng quyền lợi của họ và quyền lợi của ta là một,
không những chỉ trên Biển Đông mà cả trong chiến lược lâu dài của họ ở Đông Á
và cả Á châu thì hai nước sẽ sát cánh với nhau. Hơn nữa, nếu ta giúp củng cố
các thể chế ASEAN để vừa tăng đoàn kết và ổn định trong khu vực vừa tạo cho Mỹ
cơ hội vận động nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới ủng hộ sự hiện diện của Mỹ tại
Đông Nam Á thì ta lại càng thắt chặt quyền lợi của Mỹ với quyền lợi của ta hơn.
Nhưng quyền lợi mà thôi chưa đủ để xây dựng một quan hệ chiến
lược bền vững, trường kỳ. Bởi vì đe dọa của Trung Quốc là trường kỳ, giải pháp
đối phó cũng phải trường kỳ để quan hệ đồng minh (theo nghĩa rộng nói trên)
không phải là quan hệ giai đoạn, chiến thuật. Cái gì tạo ra chất lượng cho một
quan hệ chiến lược bền vững? Địa-chính trị ngày nay nói rõ: tư tưởng, văn hóa
là yếu tố chiến lược cùng với vị trí địa dư. Chính thể dân chủ ở Đài Loan là
yếu tố chiến lược gắn kết thêm với yếu tố quyền lợi trong quan hệ giữa Mỹ và xứ
ấy. Nước Nhật quân phiệt phải dứt khoát viết lại hiến pháp để trở thành đồng
minh chiến lược bền vững nhất của Mỹ trên thế giới. Do đó, cải cách thể chế
theo hướng dân chủ hóa như đã trình bày ở trên ngoài mục đích tăng nội lực còn
là điều kiện để mở rộng chiến lược ngoại giao.
Ai cũng biết: thực chất của ý thức hệ hiện nay ở Trung Quốc là
chủ nghĩa dân tộc nước lớn. Dưới lớp áo xã hội chủ nghĩa, trái tim của Trung
Quốc ra lệnh cho dân tộc họ phải trả thù nhục nhã của thế kỷ 19, nhanh chóng
chiếm lĩnh địa vị đại cường, ngự trị như bá chủ trên vùng Đông Á. Làm sao ta
đồng chí với họ được? Ngược lại, đó là tư tưởng mà ta phải triệt để chống như
một đe dọa đè nặng trên sự sống còn của dân tộc. Tư tưởng chính trị của Việt
Nam là tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng trên quan tâm duy nhất là độc lập của dân
tộc. Vì độc lập, ta phải đoàn kết dân tộc, lấy đoàn kết làm tư tưởng, lấy dân
tộc làm mục tiêu chứ không phải một lý thuyết nào xa lạ với thực tế mà người
dân đang thấy trước mắt. Vì yếu tố tư tưởng quan trọng như vậy, chúng tôi đề
nghị Việt Nam hãy dứt khoát cắt rốn tư tưởng với Trung Quốc. Ta đã có một Hồ
Chí Minh đặt nền móng dân chủ cho một nước Việt Nam độc lập khác hẳn nền móng
mà Mao đã đặt cho Trung Quốc năm 1954. Ta đã lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư
tưởng chỉ đạo. Tư tưởng độc lập đó cần phải được vun xới sâu hơn trong bối cảnh
ngày nay. Cần suy nghĩ rằng: một phần lớn tư tưởng đó đã được thoát thai từ
tình trạng chiến tranh, hết chiến tranh thuộc địa đến chiến tranh chia cắt
trong một thế giới chia hai theo lằn ranh ý thức hệ. Bây giờ nước ta không còn
chiến tranh nữa, đã bắt đầu phát triển lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lại
hội nhập vào một thế giới hoàn toàn đổi khác trong đó ý thức hệ tranh chấp ngày
xưa đã biến mất rồi. Bối cảnh hoàn toàn đổi khác, tất nhiên tư tưởng của lãnh
tụ cũng phải được hiểu theo một tinh thần mới, phải được chắt lọc lại, chỗ nào
là tinh túy trường kỳ, chỗ nào là chiến thuật giai đoạn, chỗ nào thích hợp cho
dân chủ ngày nay, chỗ nào đã đáp ứng xong rồi những nhu cầu trong quá khứ. Toàn
dân sẽ tham gia thực hiện nền móng dân chủ mà lãnh tụ đã đặt viên gạch đầu tiên
từ thuở khai sinh nhà nước. Ngôi nhà sẽ xây kết hợp hài hòa tư tưởng Hồ Chí
Minh với những tư tưởng dân chủ của thế giới, vạch ra một mô hình dân chủ thích
hợp với hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam. Mô hình đó cũng sẽ không chối bỏ
nguyên tắc căn bản của chính thể hiện nay là “đảng lãnh đạo”. Vấn đề là phải
thiết lập cho kỳ được dân chủ thật sự trong đảng và định nghĩa lại cho minh
bạch thế nào là “lãnh đạo” theo ý kiến của toàn dân.
Không khó khăn gì để thể chế hóa hai vấn đề đó. Nhân dân và trí
thức Việt Nam không thiếu óc sáng tạo. Thách thức là có ý muốn hay không. Từ
lâu, vấn đề đã được đặt ra, nhưng chẳng bao giờ giải quyết. Thời cuộc ngày nay
không cho phép trì hoãn nữa. Không những lòng tin của nhân dân có hạn mà an
ninh của đất nước bắt buộc phải thế. Đe dọa từ phương Bắc buộc ta phải từ giã
con đường cụt trong tư tưởng. Hoặc ta không có đồng minh, hoặc có đồng minh thì
phải minh bạch, không ai hứng đạn cho ta nếu không tin ta.
Tất nhiên ai cũng có thể chất vấn: đồng minh (trong ý nghĩa cùng
một quan tâm chiến lược) với Mỹ, ta có mất độc lập chăng? Trong lịch sử thế
giới từ sau 1945, có hai kinh nghiệm đồng minh trong đó một bên là siêu cường,
một bên là nước bại trận, mất cả chủ quyền, mất cả tiềm năng kinh tế, mất cả
quân đội: đó là nước Đức và nước Nhật. Cả hai nước đều trở thành cường quốc.
Nước Đức liên minh chiến lược với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với
Liên Xô. Nước Nhật liên minh với Mỹ nhưng không mất độc lập ngoại giao với
Trung Quốc. Quan hệ chiến lược có ảnh hưởng trên quan hệ ngoại giao, nhưng
không trùng hợp. Ngay cả Hàn Quốc, liên minh với Mỹ, họ có mất độc lập ngoại
giao với ai đâu?
Tại sao họ không mất? Tại vì hai lẽ. Thứ nhất, họ biết vận dụng
nội lực, xây dựng ở bên trong một thể chế lành mạnh, hữu hiệu, đưa đất nước họ
từ tình trạng lệ thuộc, độc tài, lên tình trạng dân chủ, cường quốc. Sức mạnh
bên trong là yếu tố không thể không có để độc lập với thế giới. Chính vì vậy mà
toàn thể nhân dân ta khát vọng một cải cách toàn diện để lãnh đạo cùng với toàn
dân đưa đất nước lên địa vị độc lập, độc lập với Trung Quốc, dĩ nhiên, và độc
lập với cả Mỹ.
Thứ hai, họ biết vận dụng thời cuộc quốc tế để không trở thành
chư hầu của một cực. Hiện nay, ai cũng tưởng chừng như Mỹ và Tây Âu đang trên
đà đi xuống, Trung Quốc đang ở thế thượng phong bất khả cưỡng. Đúng vậy. Nhưng
tình hình đó lại có một mặt tích cực khác cho ta mà chính ta cần phải thấy rõ:
cái thế thượng phong trịch thượng, ngạo mạn, thủ đoạn của Trung Quốc hiện nay
là vấn đề của cả thế giới dân chủ, hòa bình, tự do, chứ không phải riêng gì của
ta. Việt Nam đang có một cái thế rất lớn, lớn hơn cả thời 1945, là đứng chung
với cả thế giới đó trong một mặt trận chung. Chúng tôi nói “đồng minh” hoặc
“quan tâm chiến lược” là nói trong ý nghĩa đó. Việt Nam “đồng minh” với cả thế
giới đó chứ không phải với riêng ai. Việt Nam “đồng minh” với cả những lực
lượng tiến bộ, dân chủ, trong lòng xã hội Trung Quốc. Vấn đề là ta có đủ quyết
tâm làm như thế hay không, thế giới có xem ta như vậy hay không mà thôi. Đây là
cơ hội ngàn năm một thuở, là quốc sách để cứu nước, chưa bao giờ có.
Việt Nam sẽ không bao giờ là chư hầu của ai nếu ta vận dụng được
sức lực của toàn dân. Chọn dân tộc và chọn thế giới dân chủ, hòa bình, tự do,
tôn trọng môi trường thì mới thoát ra được cái ách của Trung Quốc, hiện nay và
mai sau.
Dĩ nhiên, dù đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, ta vẫn coi trọng quan hệ
với Trung Quốc trên nguyên tắc bình đẳng. Vì là láng giềng gần, sự giao lưu mật
thiết giữa các tầng lớp dân chúng, nhất là giữa giới trí thức và lớp trẻ để tạo
sự tương kính, hiểu biết nhau. Đó cũng là yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình. Tuy
nhiên, Việt Nam là nước nhỏ hơn nhiều về nhiều mặt, không thể theo phương châm
“hợp tác toàn diện”, mà phải chọn lựa lĩnh vực và mức độ.
Riêng về vấn đề Biển Đông, chúng tôi có hai đề nghị: Một là, Quốc
hội Việt Nam cần ra một tuyên cáo, một nghị quyết đặc biệt về Công hàm Phạm Văn
Đồng năm 1958, khẳng định đó không phải là sự thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ là thiện chí của Việt Nam ủng hộ Trung Quốc
trong việc tranh chấp với Mỹ về an ninh ở vùng biển gần Đài Loan. Trung Quốc đã
phản bội Việt Nam khi dùng công hàm đó để chủ trương chủ quyền của mình ở Hoàng
Sa và Trường Sa. Tuyên cáo này vừa để thanh minh trước dư luận quốc tế vừa xóa
bỏ những ngờ vực trong không ít người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng thêm
tình đoàn kết dân tộc trước hiểm họa ngoại xâm. Thứ hai, trên thực tế Việt Nam
không làm chủ hết cả quần đảo Trường Sa nên cần đoàn kết với Philippines,
Malaysia và Brunei trong việc gìn giữ quần đảo này và chống lại Đường Lưỡi Bò
của Trung Quốc. Chúng tôi đề nghị Việt Nam chủ động đưa ra đề án với ASEAN đặt
tên Biển Đông nước ta (mà Trung Quốc và nhiều nước khác gọi là biển Nam Trung
Hoa) là Biển Đông Nam Á.
E. Kết luận
Trên đây là phân tích sơ lược về thực trạng của Việt Nam và đại
cương về các giải pháp nhằm cải cách toàn diện để phát triển đất nước. Những
nội dung chi tiết hơn không được đề cập để tránh loãng thông tin. Tuy nhiên,
qua đó cũng có thể rút ra kết luận:
Việt Nam chúng ta đang đứng trước một khúc ngoặt lịch sử. Kinh
tế, văn hóa giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay
và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Vì thế,
Đảng Cộng sản Việt Nam cần làm một cuộc cách mạng mới để cứu đất nước khỏi nguy
cơ này và mở ra con đường mới để dân tộc tiến nhanh về phía trước, để đất nước
phát triển nhanh chóng, giàu mạnh và tự chủ. Cốt lõi của cuộc cách mạng mới là
dứt khoát từ bỏ sự ràng buộc của một chủ nghĩa, một học thuyết đã không còn sức
sống ở cả Việt Nam và trên thế giới. Gắn chặt với học thuyết ấy, chủ nghĩa ấy
cũng làm nước ta ngày càng lệ thuộc vào quỹ đạo của phương Bắc ngày càng nặng.
Trí tuệ, khí khái, bản lĩnh và lòng yêu nước của tiền nhân ta là
những bài học vô cùng phong phú, quý giá. Bây giờ là lúc phải học lại, học hơn
nữa tầm nhìn chiến lược “khoan thư sức dân” của Trần Hưng Đạo, “khai dân trí,
chấn dân khí” của Phan Châu Trinh, tư tưởng dân chủ, đoàn kết dân tộc và tinh
thần học tập phóng khoáng của Hồ Chí Minh. Và hơn bao giờ hết chúng ta phải kế
thừa khí phách Nguyễn Trãi “… Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một
phương, tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.
Mong rằng với sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước
chúng ta sẽ nhanh chóng ra khỏi thời kỳ khó khăn nghiêm trọng hiện nay và bước
vào một kỷ nguyên phát triển mới./.
Đồng ký tên:
Hồ Tú Bảo, Giáo sư Tin học, Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến
Nhật Bản, Nhật Bản.
Nguyễn Tiến Dũng, Giáo sư Toán học, Đại học Toulouse, Pháp.
Trần Hữu Dũng, Giáo sư Kinh tế học, Đại học Wright State, Hoa Kỳ.
Giáp Văn Dương, Nhà nghiên cứu (Vật lý), Đại học Quốc gia
Singapore.
Nguyễn Ngọc Giao, Nhà báo, nguyên Giảng viên Toán, Đại học Paris
VII, Pháp.
Ngô Vĩnh Long, Giáo sư Sử học, Đại học Maine, Hoa Kỳ.
Vĩnh Sính, Giáo sư danh dự (Sử học), Đại học Alberta, Canada.
Nguyễn Minh Thọ, Giáo sư Hóa học, Đại học Leuven, Bỉ.
Trần Văn Thọ, Giáo sư Kinh tế học, Đại học Waseda, Nhật Bản.
Cao Huy Thuần, Giáo sư danh dự (Chính trị học), Đại học Picardie,
Pháp.
Nguyễn Văn Tuấn, Giáo sư Y khoa, Đại học New South Wales, Úc.
Hà Dương Tường, Giáo sư danh dự (Toán học), Đại học Công nghệ
Compiègne, Pháp.
Vũ Quang Việt, Chuyên gia tư vấn Thống kê Kinh tế cho Liên Hiệp
Quốc, Myanmar, Philippines và Lào; nguyên chuyên viên cao cấp Liên Hiệp Quốc,
Hoa Kỳ.
Phạm Xuân Yêm, Nguyên Giám đốc nghiên cứu Vật lý, Đại học Paris
VI và Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học, Pháp.
Nguồn: Blog Nguyễn Văn Tuấn/ Diễn Đàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét