MINH DIỆN
Thế là thằng Kỳ cháu tôi đã dẹp cái công ty TNHH
của nó rồi. Động tác cuối cùng là tháo tấm bảng tên công ty bằng mê ca, gói vào
giấy báo, nhét xuống gầm bàn. Các thứ tải sản có giá trị
nó đã phải bán lấy tiền trả nợ.
Tôi hỏi Kỳ:
- Thế anh em nhân viên thỉ giải quyết ra sao?
Kỳ nói, giọng buồn xo:
- Cũng như cháu, đi làm mướn, bác ạ!
Nghe Kỳ nói giật cục, và nhìn khuôn mặt rầu rĩ
thất vọng của nó, thấy đắng lòng. Ai ngờ phú quý giật lùi như vậy?
Hơn chục năm trước, Kỳ tốt nghiệp xuất sắc Trường đại học giao
thông thành phố Hồ Chí Minh. Ra trường, Kỳ làm việc cho doanh nghiệp nhà nước.
Gần chục năm lăn lộn ở nhiều công trình xây dựng cầu đường miền Đông,
miền Tây , Kỳ đã khá già dặn về kỹ thuật cũng như chỉ huy thi công, đồng
thời tích lũy được một ít kinh nghiệm làm ăn của các doanh nghiệp. Như
con chim đủ lông cánh, Kỳ quyết định thành lập công ty riêng, làm
chủ, làm giàu , thoát kiếp làm thuê .
Công ty TNHH xây dựng cầu đường của Kỳ ra đời, vốn pháp
định vài trăm triệu đồng. Bố mẹ Kỳ ở quê phải bán mấy sào đất vườn,vay
mượn thêm hùn với tiền nó tiết kiệm được .
Bấy giờ
đầu tư công xây dựng cơ sở hạ tầng ào ạt, vốn nhà nước tuôn
ra như nước, các chủ đầu tư ôm nhiều dự án lớn. Dự án mẹ đẻ
dự án con. Doanh nghiệp nhỏ và vừa mọc lên như nấm.
Với mối quan hệ sẵn có, Kỳ nhận được nhiều hợp
đồng thi công những công trình vốn đầu tư ít,
hoặc làm B , B phết cho những công ty lớn. Ngày
ấy việc chung chi cho bên A, cũng như các nơi khác, mà người ta
dùng danh từ một cách sống động là “Bôi trơn” vừa phải, vì nhiều dự án,
nên làm ăn có lãi. Bình quân mỗi công trình sau khi
hoàn thành, trừ hết các khoản chi phí, Kỳ kiếm được
khoảng 8% .
Thừa thắng xông lên, Kỳ phấn khởi nâng cấp công ty , mua thêm thiết
bị chuyên dùng, như máy ủi, máy xúc, xe lăn. Tích lũy được
đồng nào dồn hết vào vẫn không đủ, phải vay thêm. Vay
tiền ngân hàng khó như bắc thang leo lên trời, phải có tài
sản thế chấp, phải chứng minh hiệu quả kinh doanh, đã thế, lại chỉ
cho vay ngắn hạn, và lãi xuất thỏa thuận lên tới hơn 2%
tháng chưa tính các khoản hoa hồng . Kỳ đành nhắm
mắt vay ngoài, lãi suất 3% tháng. Kỳ tính
làm ăn lớn hơn, theo đà phát triển ổn định , giá trị thặng dư
sẽ tăng lũy tiến , nên dù phải chi thêm khoản lãi suất nóng
kia cũng chấp nhận được.
Nhưng người tính không bằng trời !
Cơn bão suy thoái kinh tế thế giới bỗng nổi lên và
Việt Nam không còn là ốc đảo ,vì đã hòa nhập khá sâu . Có
điều khi dông bão trên thế giới đã tan, thì
bầu trời Việt Namvẫn xám xịt! Hết cấu trúc , lại tái cấu trúc,
“con rồng” vẫn quẫy đạp vô vọng trong vũng lầy !
Tăng trưởng thụt lùi , lạm phát rồi thiểu phát , vốn
ODA giảm, đầu tư công teo lại, bất động sản đóng băng , hàng
tồn , nợ xấu phát sinh, nền kinh tế Việt Nam như chiếc xe mất thắng lao
xuống vực. Lợi dụng đục nước béo cò , các nhóm lợi ich tác oai tác quái
bóp chết doanh nghiệp !
Kỳ kể:
-Trước một chủ đầu tư có vài dự án, giờ một dự án vài chủ đầu
tư! Mật ít ruồi nhiều , giành giựt nhau trầy da tróc vẩy! Đầu tiên
phải góp tiền chạy dự án. Con đường chạy dự án quanh co, lắt
léo, vất vả gian nan như thày trò Đường Tăng đi lấy kinh. Hết
cửa dưới lên cửa trên, hết cửa trước luồn cửa sau bằng
những lối đi lắt léo . Mỗi cửa một phép riêng,
cửa nào cũng phải bôi trơn mới lọt ! Chủ đầu tư bổ đầu doanh
nghiệp góp tiền chạy dự án. Chạy được , chia theo tỷ lệ góp
vốn .
Kỳ nói với tôi:
- Bác đừng tin chuyện đấu thầu đấu thiếc! Cái trò quân xanh quân đỏ ấy
chỉ để che mắt thế gian. Dự án chia chác đâu vào đấy từ khi chưa
được cấp phép, như cái bánh được chia ngay từ khi chưa
luộc!
Phải góp tiền chạy dự án, nhưng khi chạy được lại
phải chung chi cho chủ đầu tư. Khoản lại quả này rất đậm, có nơi lên
tới 10% tổng giá trị phần công trình mình “trúng thầu”.
Đã vậy các ông chủ dự án thời nay lại “nắm chặt đằng chuôi”,
bắt chung chi trọn gói một lần. Một công ty
trúng gói thầu công trình trị giá 100 tỷ, thì đợt
một được giải ngân tối đa 30 tỷ. Trước kia, doanh
nghiệp lại quả cho chủ đầu tư theo tỷ lệ số tiền được giải
ngân đó, còn lại các lần giải ngân sau lại quả tiếp. Bây giờ phải chi
trọn gói tiền lại quả toàn bộ gói thầu ngay lần giải ngân đầu tiên. Có trường
hợp tiền tạm ứng vừa đủ chi phí bôi trơn, không còn vốn
thi công công trình.
Tôi hỏi:
- Sao mấy ông chủ đầu tư cạn tàu ráo máng thế nhỉ?
Kỳ mỉa mai:
- Mấy cha sợ bị mất chức nửa chừng !
Thì ra các quan chức ấy sợ rủi ro, không kịp thu hổi vốn bỏ
ra mua cái ghế của mình, nên phải chụp giật thật nhanh. Chả trách có
những công trình khởi công rồi đắp chiếu để đó , bởi vốn thi công nhà nước cấp
chỉ đủ “bôi trơn” các cửa quan tham.
Kỳ cho tôi biết thêm:
- Tiền chạy dự án và tiền lại quả
chủ đầu tư chiếm trên dưới 15% giá trị công trình, nhưng vẫn chưa thoát
nợ. Từ lúc bổ nhát cuốc đầu tiên đến khi nghiệm thu còn bao
nhiêu khoản chi khác. Từ cô nhân viên văn phòng đến các trưởng phó ban cơ quan
chủ quản , rồi ngành dọc, ngành ngang đều nhòm ngó miếng bánh mà doanh
nghiệp đã phải mua giá đắt. Họ đã để mắt tới mà mình lơ đi là có
chuyện! Cứ phải ngoan ngoãn cúi đầu bôi trơn tiếp, ít thì phong bì vài
ba triệu, nhiều một hai ngàn đô , rải khắp mới yên !
Không kìm nổi sự ấm ức, kỳ nói tiếp:
- Có thằng cầm phong bao rồi còn vòi vĩnh thứ khác! Xuống máy bay
là kêu mình ra đón, đưa đến nhà hàng đặc sản . Hết tăng một
đòi tăng hai tăng ba , đi khách sạn năm sao với gái chân dài
! Mỗi lần như vậy chục triệu ! Doanh nghiệp è cổ thanh toán!
Kỳ cay đắng kết luận:
- Một gói thầu lợi nhuận chỉ khoảng 20%, mà chi phí bôi trơn từ A
đến Z đã hết hơn 15% rồi thì lấy đâu ra trả lãi ngân hàng, và hàng trăm thứ bà
dằn khác? Phải tính toán ăn bớt ăn xén vật tư là chuyện đương nhiên.
Doanh nghiệp còng lưng làm cho quan chức ăn, tội vạ doanh nghiệp gánh!
Bác bảo như vậy có bất công không?
Đúng là bất công rồi! Nhưng sao sự bất công lại có thể tồn tại ở một chế độ
“ngàn lần tốt đẹp hơn chế độ tư bản”? Đó là điều chưa ai giải thích được.
Nhưng có những điều còn trớ trêu hơn cả chuyện bất công, ấy là sự lẫn lộn
trắng đen thật giả. Giữa thời điểm hơn 350.000 doanh nghiệp ,
chiếm hơn 50% tổng số doanh nghiệp cả nước bị phá sản mà, mà theo số liệu
của Tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp năm 2012 có 1,99%, giảm 0,28% so với
năm 2011. Một doanh nghiệp nhỏ cũng thu hút 10 lao động, 350.000 doanh
nghiệp phá sản, ít nhất 3.500.000 người mất việc làm, vậy mà ngành lao
động thương binh xã hội vẫn khẳng định bảo đảm chỉ tiêu đề ra 1,6 triệu
việc làm!
Về vấn đề “Bôi trơn”. Trong khi đối thoại với doanh nghiệp tại thành phố
Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế , thừa
nhận rằng các doanh nghiệp đã phải “bôi trơn”, thì ông
Nguyễn Thế Hùng, Giám đốc Sở xây dựng Hà Nội, khẳng định không có
chuyện đó. Còn ông Vũ Văn Hậu , Giám đốc Sở tài nguyên môi trường
Hà Nội, lại nói nước đôi và đổ lỗi cho doanh nghiệp, khi trao đổi với
phóng viên báo Vn Economy : “ Nếu điều đó có thực thì chính doanh
nghiệp sai sót. Bởi lẽ , doanh nghiệp hơn ai hết phải nắm được khả năng
tài chính của mình, song đã biết mà cố lao vào thì tức là lỗi của doanh nghiệp,
họ phải trách mình trước tiên, chứ không phải đi trách
nhà nước” .
Có lẽ ông ông Vũ Văn Hậu nói đúng. Các doanh nghiệp nhỏ, điều kiện
tài chính mỏng cánh chuồn , không biết lượng sức mình lao , vào cuộc cạnh tranh
khốc liệt ấy chết là phải! Đó cũng là nhận xét xác đáng của Bí thư thành
ủy Hà Nội , ông Phạm Quang Nghị : “ Trong mười người tham gia một dự án, chỉ có
một người người trúng thầu, chín người còn lại “bôi” nhưng không trơn thì phẫn
nộ!”.
Mới đây, ngày 30-05-2013 , Phó chủ nhiệm Uỷ
ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên đưa ra một số liệu khá cụ
thể, năm 2011 có 28% doanh nghiệp phải bôi trơn, nhưng
năm 2012 đã lên tới 41% doanh nghiệp phải đút lót phong bì
cho các cơ quan chính phủ để bôi trơn. Ông nhấn mạnh : “Phải có phong bì
bôi trơn thì công việc mới đạt!”
Khái niệm “Bôi trơn” đã trở thành quen thuộc và đã vang lên ở nghị trường Quốc
hội. Khái niệm đó là kết kinh của một nền kinh tế lấy doanh nghiệp nhà
nước làm chủ đạo, phân biệt đối sử như trong một gia đình có con đẻ con
nuôi, không tạo nên sự cạnh tranh công bằng,mà mang nặng tính áp đặt, cửa
quyền. Nó chẳng những tạo ra “đục nước béo cỏ” dung dưỡng quan
tham, mà còn kéo nền kinh tế Việt Nam đi trệch quy luật
phát triển kinh tế thị trường, xa lạ với nền kinh tế của khu vực và
thế giới.
Ngày 05-06-2013, Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố , sẽ làm tăng thêm mức
thu nhập của người dân nước ông 15.000 đôla trong vòng mười năm tới. Hiện tại
GDP bình quân đầu người ở Nhật là 53.150.000 đôla, mười năm sau sẽ là
68.150.000 đôla. Biện pháp ông Shinzo Abe đề ra là, mở rộng đầu tư trong
nước và nước ngoài, ưu tiên tối đa phát triển doanh nghiệp tư nhân . Ông Shinza
Abe nói : “ Tất cả ưu tiên , từ nguồn vốn đến khoa học kỹ thuật, đặt biệt là sự
hết mình của các quan chức chính phủ lo cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển
và làm ăn phát đạt hơn!”
Hình như có một sự tương đồng nào đó, khi ngày 06-06-2013, tại Diễn
đàn kinh tế Thế giới về Đông Á (WEF Đông Á) tổ chức tại Naypyidaw,
Myan ma, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “Việt Nam xây dựng nền
kinh tế thị trường năng động, cạnh tranh, nơi mà tất cả các thành phần kinh tế
đều có thể phát huy được tốt khả năng của mình, đồng thời luôn chủ động, tích cực
đưa nến kinh tế hội nhập sâu rộng vào nến kinh tế khu vực và thế giới!”.
Xứ ta vốn vậy, nói rất hay. Lạc quan rất trào lộng, tình hình lúc nào cũng thấy
phơi phới. Nhất là tại các diễn đàn quốc tế và tung lên báo, đài. Nhưng, để “các
thành phần kinh tế đều có thể phát huy được tốt khả năng của mình…” chắc
không phải chuyện dễ. Điều này, Thủ tướng nắm chắc nhất, hiểu thấu hết.
Niềm hy vọng mới đã và đang được nhen lên. Cầu mong đây là một cơ hội đề dep
cái nạn “bôi trơn” và các doanh nghiệp Việt Nam hồi sinh?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét