Nguyễn Lam Thủy - Vietinfo.eu
Tất cả cứ phai mờ theo năm tháng, riêng tôi - tuổi thơ, quê
hương - tuổi càng già càng nhớ - một nỗi nhớ về cội nguồn, nó đã thành máu thịt
trong tôi đi theo suốt cả cuộc đời. Tôi nhớ mãi mùa hè năm 1965, lúc đó chiến
tranh phá hoại miền Bắc của Đế quốc Mỹ càng trở nên ác liệt.
Mẹ tôi gửi tôi, em gái và 3 cô cháu gái cùng
bà giúp việc về quê ngoại Tiên Điền, ở nhà anh con cậu. Nhà anh nghèo lắm, nằm
cạnh rìa làng, có nhiều cây ăn quả, nhiều nhất là hồng. Nhà cách sông Lam chưa
đầy 500m, cách biển chừng hai cây số, những đêm biển động nghe sóng vỗ ầm ầm.
Có lẽ anh là người đầu tiên ý thức cho tôi về họ hàng. Vào những đêm trăng
sáng, ngồi giữa sân, anh kể cho tôi dòng họ Nguyễn Tiên Điền xưa vốn là người ở
trấn Nam Sơn, Thanh Hóa. Dưới thời nhà Mạc, Nguyễn Thiến đỗ trạng Nguyên vào
năm 1532, nhưng ông lại làm quan cho nhà Lê dưới chức Thượng thư bộ lại. Hai
người con của ông là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn âm mưu tạo phản nhà Lê. Việc bại
lộ, cả nhà bị giết. Riêng Nguyễn Nhiệm là con của Nguyễn Miễn trốn được vào
làng Tiên Điền mai danh ẩn tích. Ông Nguyễn Nhiệm được coi là ông Tổ của họ
Nguyễn ở Tiên Điền.
Từ đời ông đến Nguyễn Nghiễm là sáu đời.
Nguyễn Nghiễm làm tể tướng cho triều đình nhà Lê, ông có 8 vợ và 20 người con,
trong đó có Nguyễn Du. Ông ngoại tôi là Nguyễn Sỹ, cháu 5 đời của Nguyễn
Nghiễm, ông có 3 vợ và 13 người con. Ông ngoại tôi làm nghề thuốc nổi tiếng một
thời. Bà ngoại tôi có 2 người con: mẹ tôi và một cậu. Có lần ông ngoại tôi vào
Huế chữa bệnh, ở nhà cậu tôi bị đau bụng tiêu chảy, bà ngoại tôi không biết gì
về thuốc, cho cậu uống thuốc phiện quá liều, sau vài tiếng cậu tôi tắt thở trên
tay bà. Lúc đó cậu chưa tròn mười tuổi. Chẳng bao lâu bà ngoại tôi buồn phiền,
ngã bệnh và mất sớm.
Tôi nhớ rõ những đêm khuya uống rượu xong,
ngồi trong buồng vẽ tranh để bán (vì sợ máy bay phát hiện ánh đèn), anh thường
vịnh Kiều cho chúng tôi nghe, giọng nghe vừa buồn, vừa thảm thiết… Có lần anh
kể cho tôi nghe hồi cải cách ruộng đất, đội cải cách đem một gian đầy sách của
Nguyễn Du để lại chất thành đống ở sân rồi đốt, vì cho đó là tàn dư của Đế quốc
Phong kiến. Sau này mỗi lần nhớ lại tôi thấy tiếc vô cùng, vì biết đâu trong số
đó có bài của Nguyễn Du chưa được biết thì sao?
Từ nhà anh sang nhà thờ họ Nguyễn và đền Voi
Ngựa (chúng tôi thường gọi vậy vì có nhiều tượng voi ngựa, thực ra đây là đền
thờ tể tướng Nguyễn Nghiễm) không xa lắm. Cả một thời kỳ rất dài mấy chục năm,
chẳng riêng gì Tiên Điền mà cả miền Bắc chẳng ai thờ cúng, cũng chẳng có ai
thăm nom, săn sóc nên cả hai nhà thờ trở nên hoang vu, chỉ có những cây đại
già, dù nắng gió quanh năm vẫn lặng lẽ đơm hoa trắng, hoa vàng. Mấy cây thị già
mấy trăm tuổi ở nhà thờ họ Nguyễn, khi nào cũng có vài ba tổ quạ. Cũng may có
ai đó thông minh đã tung ra những chuyện hoang đường: nào là trong nhà thờ có
rắn hai đầu, ma quỉ, tinh quái… nên cả hai nhà thờ không bị phá phách. Riêng
đền thờ Voi ngựa, một tượng voi và một tượng ngựa bị ngã sõng xoài vì ô tô đi
lại quá nhiều, đường bị lún. Còn mộ của Nguyễn Du hồi đó nằm ở một nghĩa địa
bình thường, được đắp cao hơn một chút, không xây, không bia, chỉ có bốn cây
khuynh diệp trồng bốn hướng. Sau này chết hai cây do những đứa trẻ chăn bò
thường bẻ cây làm củi.
Một hôm anh đi họp về mặt thiểu não, buồn rầu
gần như khóc, anh nói cả nhà anh phải chuyển vào chân núi Hồng Lĩnh để thành
lập xã mới. Loại như anh được liệt vào diện tiểu tư sản nông thôn, phải đi đầu
tiên. Hai năm sau vợ chồng anh mang về những củ sắn, vài ký gạo nếp do chính
nhà anh trồng biếu mẹ tôi. Sau đó không bao lâu nghe tin anh thổ huyết, không
kịp một lời trăng trối, đi luôn trong đêm giao thừa, lúc chưa đầy 50 tuổi.
Mùa hè năm đó, sau khi gia đình anh chuyển đi,
chúng tôi phải chuyển về một xóm khác cách đó không xa. Con sáo biết nói anh
tặng tôi trước lúc đi, tôi quý vô cùng, suốt ngày bắt cào cào, châu chấu cho
chim ăn. Có hôm đi đâu về không nghe chim nói như mọi lần, tôi hoảng quá chạy
đến bên chuồng chim, thì chim đã chết, tôi khóc thét lên, đưa chim ra xem thấy
miệng đầy vôi. Tôi biết chắc thằng Tân nhà bên cạnh cũng nuôi sáo, nhưng con
sáo của nó không biết nói, nên nó ghen đã giết chết con chim sáo của tôi. Hơn
một tuần sau, một đêm máy bay Mỹ ném bom, cả làng thành một chảo lửa, những
tàn lửa theo gió bay cao, tiếng kêu tìm mẹ, tìm con, tiếng kêu cứu thất
thanh…cả xóm chết mười mấy người, trong đó có Tân. Nó bị một mảnh bom to bằng
quả ổi xuyên từ trước ngực ra sau lưng, một mảnh khác phạt lìa cánh tay. Sáng
hôm đó tôi giúp các anh chị dân quân múc nước giếng rửa thân thể đầy máu. Tân
được quấn trong 2 mét ni-lông chôn ngay ở đầu làng cùng mấy người khác. Lúc đó
tôi đã khóc nức nở vì thương Tân, thương mọi người và căm thù bọn giặc Mỹ quá
chừng.
Cũng mùa hè năm đó, vào một buổi sáng rất đẹp,
chúng tôi chơi bi ở sân gạch, thấy bà cố Dực là con dâu ông Nguyễn Công Trứ (
Nguyễn Công Trứ có 20
người vợ và rất nhiều thê thiếp, ông cố Dực
được bà vợ thứ 18 sinh ra lúc Nguyễn Công Trứ 80 tuổi. Ông cố Dực lúc 87 tuổi
mới lấy bà cố Dực 23 tuổi) nằm sóng soài ở sân, máu ở đầu chảy ra lai láng đọng
thành vũng. Lúc này người lớn đi làm hết, mấy đứa chúng tôi đứa thì đi gọi
người lớn, đứa thì chạy đi xin thuốc lào và cuối cùng không có thuốc lào tôi đã
lấy bồ hóng trên trần bếp đắp lên vết thương cho bà. Sau này, mấy năm sau bà
mất lúc nào tôi cũng không hay. Khi lớn lên tôi lấy làm tiếc cho các nhà sử
học: nhân chứng sống về Nguyễn Công Trứ mà không ai khai thác.
Năm ngoái, sau nhiều năm xa cách, hai anh em
tôi trở về thăm quê ngoại Tiên Điền. Gần 35 năm trôi qua Tiên Điền vẫn thế, vẫn
là một làng quê nghèo, dù ở đâu, lúc nào, trong lòng tôi luôn nhớ thương da diết.
Chúng tôi thăm đền thờ Voi ngựa, nhà thờ họ Nguyễn, bây giờ chỉ còn miếu nhỏ
để đươm hương hoa, những cây thị già ghi vào ký ức của tuổi thơ tôi cũng
không còn nữa, Đền thăm va chụp ảnh lưu niệm ở mộ cụ Nguyễn Du-khu mộ lúc này
được xây rất đẹp và trang nghiêm, có nhiều hoa, cây cảnh...
Chúng tôi ghé thăm người chị họ xa, chị đã gần
70 tuổi, tóc bạc phơ, hom hem ốm yếu, vẫn ở trong ngôi nhà tranh vách đất ngày
nào, trong nhà không có gì đáng giá. Chị ôm hai em tôi vừa khóc vừa kể: Cháu
trai đầu mất ở biên giới phía Bắc năm 79, hồi chiến tranh với Trung Quốc. Anh
chồng chị mất cách đây vài ba năm do đau ốm lâu ngày không có thuốc men. Cháu
trai sau, đói quá không có cái mà ăn, đi ăn cắp bị công an bắt, cũng chết trong
tù. Tôi không cầm nổi nước mắt trước hoàn cảnh của chị. Chị rót nước chè ( nói
là nước chè, nhưng nước trong veo), gió Lào thổi, bụi mù mịt, trên bát nước một
màng bụi bám đầy. Tôi nhắm mắt cố uống cho chị an lòng và biếu chị 200 ngàn
đồng. Anh em tôi ghé thăm nhà bác Tuân, cũng trong cánh họ Nguyễn, đúng lúc
trên vai bác là gánh lá thông đầy mới đi cào ở núi Hồng Lĩnh về để làm củi.
Mười mấy năm làm Phó Chủ tịch, Chủ tịch huyện, lương hưu làm sao đủ sống. Bác
mừng lắm khi gặp hai anh em tôi với bao nhiêu chuyện vui buồn.Tôi cười nhắc lại
với bác:
Dưới cầu nước chảy
trong veo
Trên cầu tơ liễu,
bóng viền thướt tha.
Những năm 60 lúc bác còn là cán bộ tuyên giáo,
nói sẽ xây dựng quê hương Tiên Điền như Nguyễn Du đã viết.
Cách hơn đây 300 năm về trước vào triều Lê đã
có câu ca dao nói về dòng họ Nguyễn Tiên Điền:
Bao giờ ngàn Hống
( núi Hồng Lĩnh) hết cây
Sông Rum (sông
Lam) hết nước, họ này hết quan.
Có thể nói, một dòng họ đại quí tộc bậc nhất
một thời, mà bây giờ cả dòng họ Nguyễn Tiên Điền là thế đấy, đang lụi tàn
theo thời gian! Hay ông trời đã công bằng cho muôn họ - dòng họ nào cũng có lúc
thịnh lúc suy.
Bất tri tam bách
dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân
khấp Tố Như
( Ba trăm năm nữa
ta đâu biết
Thiên hạ ai người
khóc Tố Như).
Cụ Nguyễn Du ơi, dòng đời cứ chảy, đã bước
sang thế kỷ 21 rồi, con không khóc Cụ mà khóc cho số phận của con đang sống nơi
đất khách quê người, khóc cho cả dòng họ Nguyễn Tiên Điền, chỉ mong sống một
đời như Cụ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét