Dùng chữ Văn
hiến Nghi Xuân có thể là hơi lạm. Nhưng quả thực Nghi Xuân đúng là một
miền đất văn hiến. Không chỉ là văn chương, văn hoá, mà là văn hiến thực sự có
lẽ bản thân những con người sống trên mảnh đất ấy cũng không ngờ, dù sao thì ta
cũng có thể điểm qua, trên cơ sở một cái nhìn tổng quan, để khi có điều kiện sẽ
đi sâu vào khảo sát:
1. Theo quan niệm
người xưa, ở nơi nào có truyền thống học hành chữ nghĩa, nơi đó mới đáng trân
trọng để làm biểu trưng cho đất nước quê hương. Truyền thống học hành phải được
thể hiện bằng thực tế: những người đi học phải có năng lực có thể tranh lèo
giật giải, so với các nơi. Được như vậy, ngày xưa gọi là được thành vùng khoa
bảng. Nghi Xuân quả thực là đất khoa bảng, có một thành tích khoa
bảng đáng ngạc nhiên:
Đất
khoa bảng ở nước ta có nhiều. Có nơi có dòng học kế truyền: "họ Ngô một
bồ tiến sĩ". Có nơi: Một làng có đến gần 30 ông tiến sĩ,
cả nước không thể nào theo kịp như làng Mộ Trạch (Hải Dương). Nhưng huyện Nghi
Xuân lại có một thành tựu cũng khá độc đáo:
+
Cả huyện có đủ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Bảng nhãn là ông Trần
Bảo Tín (thế kỷ XV) ở làng Xuân Hải. Thám hoa là ông Ngụy
Khắc Đản (thế kỷ XIX) ở làng Xuân Viên. Còn Trạng nguyên? Có cả hai
cha con ông Hồ Đốn vốn ở Nghệ An di cư sang làng Khải Mông từ
thế kỷ XIII. Nguyên gốc họ Hồ ở làng Quỳnh Lưu, nhưng Hồ Đốn, Hồ Thành cư ngụ
lâu đời ở Nghi Xuân. Trước đây, mỗi khi làm lễ ở Văn thánh hàng huyện, các cụ
đọc văn vẫn phải nhắc đến hai ông Trạng này(1).
+
Còn điều này thì ít có ở nhiều huyện trong cả nước ta. Ấy là thành tích khoa
bảng này được phân bố đều cho cả huyện Nghi Xuân. Trước cách mạng tháng tám,
Nghi Xuân có 36 xã, trang, sau 1945 còn lại 13 xã, thì lạ một điều là xã nào
cũng có người đỗ tiến sĩ. Dọc đường hữu ngạn sông Lam, trên cùng là làng Quả
Phẩm có tiến sĩ Thái Danh Nho, dưới cùng là xã Hội Thống có tiến
sĩ Vũ Thời Mẫn. Phía trong giáp biển, Phan Xá có tiến sĩ Phan
Chính Nghị; Xuân Viên giáp núi có tiến sĩ Ngụy Khắc Tuần.
Còn các xã khác, xã nào cũng có cử nhân, tú tài. Các huyện ở nhiều nơi, thường
chỉ thấy tập trung ở một vài điểm chứ không rải ra như vậy. Gọi Nghi Xuân là
đất khoa bảng, quả là không gượng ép, là sự thực chứ không phải đề cao. Người
Nghi Xuân - và nhất là ngành giáo dục, nhớ đến truyền thống ấy, chắc chắn thầy
trò phải cố gắng dạy tốt, học tốt hơn nữa.
Là
đất khoa bảng, Nghi Xuân còn có thể xem là đất văn hào, đất học giả.
Có thể cho ý kiến này là sự quá lời chăng? Đã văn hào, lại còn học giả! Hình
như tham lam quá! Nhưng sự thật là thế.
-
Đây là đất của những văn hào! Văn hào chứ không phải chỉ là văn gia
hạng văn nhân. Muốn nói gì thì Nguyễn Du vẫn là nhà thơ số 1, vô tiền khoáng
hậu của Việt Nam. Văn chương ả đào (ca trù) vẫn phải nhường Nguyễn Công
Trứ ngồi trên chiếu nhất. Chỉ cần như vậy là đủ vinh dự cho Nghi Xuân rồi. Thơ
văn chữ Hán là điều rất khó đánh giá, nhất là với chúng ta, nho học còn đang lỗ
mỗ. Âu là cứ theo dư luận ngày xưa: Nước Nam có năm nhà thơ trác
tuyệt (An nam ngũ tuyệt) trong đó có hai chú cháu: Nguyễn Du và Nguyễn
Đạm.
-
Còn học giả: Những người quen với lối học xưa đều phải công nhận là trong
số Ngũ Kinh Tứ Thư thì Kinh Dịch là
khó vô cùng. Nước ta có nhiều người giỏi Kinh Dịch (như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê
Quý Đôn). Nhưng họ đều viết sách chữ Hán, chứ ít người (trong các thế kỷ trước)
dám đem Kinh Dịch diễn giải ra tiếng Việt để phổ biến dịch học
cho quần chúng. Vậy mà ở Nghi Xuân đã có Đặng Thái Phương (cũng là Đặng Thái
Bàng, ở làng Uy Viễn) dám soạn cuốn sách Chu Dịch quốc âm ca quyết!
Như vậy mà không phải học giả sao? Đồng thời với ông, Nguyễn Nghiễm (thân sinh
của Nguyễn Du) là một nhà sử học có tài. Cuốn Việt sử bị lãm của
ông rất được các sử gia trân trọng. Nối tiếp con đường này, đến đầu thế kỷ XX
có Trần Trọng Kim (người làng Đan Phổ), cuối thế kỷ XX
có Hà Văn Tấn (người làng Tiên Điền). Không biết có thể cắt
nghĩa bằng một quy luật nào không, chứ thực tế thì đã là như vậy.
2.
Nghi Xuân còn có thể gọi là một vùng nối đời dòng họ phục vụ
cho văn hiến quê hương. Nối đời là vì dòng họ nào cũng có truyền thống học
hành, khoa cử, hoạt động chính sự, kế tiếp nhau, có khi cách quãng đi một thời
gian, nhưng sau đó lại vẫn xuất hiện ở nơi này hay nơi khác. Những trường hợp
này phải tra cứu theo gia phả mới biết được những tên tuổi lẫy lừng chứ kể ra
đây thì không tránh được những ngỡ ngàng, hoặc những câu hỏi chờ giải đáp. Các
họ Trần, họ Hà, họ Lê, họ Phan, họ Đinh .v.v… đều có những người tiêu biểu qua
từng thế kỷ, mà sau đây ta sẽ nhắc đến một vài tên tuổi. Nhưng có những dòng họ
thì đã đường hoàng đi vào lịch sử đất nước. Trường hợp họ Nguyễn Tiên
Điền là một thí dụ rõ ràng nhất. Trước Nguyễn Nghiễm đã
có Lĩnh Nam Công, đồng lứa với ông là tiến sĩ Nguyễn Huê, Nguyễn Trọng. Con ông
là tiến sĩ Nguyễn Khản, là nhà thơ Nguyễn Du, cháu ông là Nguyễn Hành, Nguyễn
Thiện, Nguyễn Cảnh (và nhiều nữa) đều có tên tuổi trong sử sách. Cho đến đầu
thế kỷ XX dòng họ này còn có tiến sĩ Nguyễn Mai (đồng khoa với
cụ Huỳnh Thúc Kháng) làm vinh dự cho đất Nghi Xuân. Họ Ngụy ở Xuân Viên cũng
không kém: Khi vào xứ Nghệ chấm thi, Phạm Quý Thích đã chỉ vào bài văn
của Ngụy Khắc Tuần mà nói: "Khí tốt của núi Hồng đều dồn
cả vào họ Ngụy này"! (theo sách Thối thực ký văn). Thám hoa Ngụy
Khắc Đản vừa là học giả, vừa ở trong phái đoàn Phan Thanh Giản sang
Pháp như ta đã biết. Và chưa rõ sự điều tra chính xác đến mức độ nào, mà vào
khoảng năm 1948, người viết bài này còn được nhà thơ Ngụy Mộng Hiền (tác
phẩm có trích trong sách Thi nhân Việt Nam) đến nhà cụ cử nhân
Ngụy Hiếu Tính để nhận họ! Còn họ Đặng ở làng Uy Viễn lại có nhà học giả Đặng
Thái Phương (ta đã kể trên), có Đặng Sỹ Vinh là bố vợ của Nguyễn
Nghiễm, có Đặng Uyên Túc là bố vợ Nguyễn Công Trứ v.v….Họ Vũ (làng Hội Thống)
có tiến sĩ Vũ Thời Mẫn, cử nhân Vũ Văn Huề đều
nổi tiếng một thời (thế kỷ XIX). Có thể viết dưới kinh nghiệm giáo dục kế
truyền của các dòng họ này, nhưng sẽ là vào một dịp khác.
3. Đất
của những kỳ nhân, giai sự:
Đúng
là ở đất Nghi Xuân, nhìn chung trong phạm vi văn hiến, là có nhiều người lạ (kỳ
nhân) chuyện hay (giai sự). Đây là nhìn chung tổng thể, chứ không
nhìn riêng vào thành tích riêng của một dòng họ, một danh nhân nào. Đối với
nhiều địa phương, ta gặp ở Nghi Xuân khá nhiều hiện tượng (hay sự kiện) văn hoá
khá độc đáo mà lại rất dân dã. Những người, những việc ở đây, đều là sự thực,
đã tham gia vào đời sống văn hoá Nghi Xuân suốt bao đời nay và được người dân
dành nhiều thiện cảm (tất nhiên là đôi khi giai thoại được nâng lên thành huyền
thoại nhưng vẫn không đi quá đà, theo đúng phong cách Nghi Xuân). Có thể điểm
qua vài hiện tượng:
- Tả
Ao: Ông là con người thực, có tên là Vũ Đức Huyền, ở làng Tả Ao,
nay là xã Xuân Giang. Ông được xem là vị thánh địa lý của
nước Nam ta. Chuyện của ông dàn trải khắp các tỉnh thành miền Bắc,
đều là những chuyện để mồ để mả có linh nghiệm một cách lạ lùng. Người ta có
thể còn băn khoăn phong thuỷ là khoa học hay là mê tín dị đoan. Nhưng hầu hết
chuyện để đất của Tả Ao lại là những chuyện phê phán những thói hiếu danh,
những trò trục lợi hoặc những chuyện trân trọng sự tu nhân tích đức của người
dân bình thường. Rất tiếc là giờ đây, dòng họ Tả Ao không còn, mà đền thờ Tả Ao
cũng không có (không rõ có liên quan gì đến họ Vũ ở nhiều nơi không). Sách Tả
Ao truyền lại được ghi là nhiều, song không rõ có đúng là do ông viết?
- Đinh
Lễ: Cũng là người thực, ở làng Cổ Đạm. Ông được tôn là vị tổ của
ngành ca công (các tỉnh từ Thanh Nghệ trở ra đều công nhận xuất xứ này). Những
chuyện của ông lại bị gắn nhiều với huyền thoại. Ông gặp tiên cho cây đàn, dạy
điệu hát, rồi trở thành Thanh Xà đại vương, với vợ là Mãn đào hoa công chúa.
Chuyện thực hư không rõ, nhưng làng Cổ Đạm với truyền thống hát ả đào do ông
khơi mối thì là sự thực hoàn toàn.
- Cố
Ghép: Ông chỉ là một lực điền ở làng Động Gián, nay là xã Cương Gián,
có tên là Cổ Đương. Thấy con đường núi khó đi, vất vả cheo leo, ông
đã tự mình ra phá núi, nhất định làm thành con đường bằng cách gánh đá ghép cho
thành bậc, nối được giao thông giữa hai huyện Nghi Xuân - Can Lộc. Người đời
chê ông là ngu dại (như ông Ngu công dời núi bên Trung Quốc). Họ hàng lo ông
già yếu, ông vẫn kiên trì làm theo ý mình để phục vụ nhân dân. Con đường qua
truông được hoàn thành có tên là Truông Ghép, và ông cũng được tôn là Cố
Ghép người đời sau thấy đây là tấm gương nghị lực thần kỳ.
- Xích
Thanh cuồng sĩ: Ông chính tên là Đinh Văn Thụ, người làng
Đan Hải. Làm nghề thầy đồng, những khi cúng lễ thường hò hét nói toàn những câu
chống Pháp và vua quan. Địch bắt giam ở Huế 7 năm. Lúc trở về ông vẫn có phong
cách "cuồng" như thế. Lập bàn thờ ở nhà tự xung là vua. Viết thư bắt
người nhà đưa vào cho vua Khải Định bảo phải nhường ngôi. Ra lệnh chém những
người làm tay sai cho Pháp (cố nhiên là gia đình phải giữ, không cho ông giao
thiệp với ai). Ông cũng làm thơ. Sách Thơ văn trào phúng Việt Nam của
Vũ Ngọc Khánh (văn học H. 1974. tr. 158) có trích bài của ông.
- Nguyễn
Lưu: Là ông Quận Vui, người làng Mỹ Dương, có tài trị được voi trong
rừng, làm cho làng xóm yên ổn. Nhà vua phải phong ông chức quận công, dân chúng
gọi là Quận Voi. Hàng năm trước đây làng Mỹ Dương tổ chức lễ tế săn
(hiệp tế) phải cúng ông trước, rồi mới cho các nậu tiến quân vào rừng.
- Đậu
Vinh Trường: Tráng sĩ giết thuồng luồng - là chuyện người thực, không
phải chuyện hư cấu. Ông người làng Xuân Viên, gân sức cứng cáp, giết được mãng
xà trong núi. Do nhảy xuống sông giết thuồng luồng cứu được ngựa cho nhà vua,
nên đời Lê Vĩnh Trị (1679) được phong chức Tham đốc.
- Nguyễn
Trí: Nghệ sĩ đá cầu là người làng Uy Viễn. Chính ông đã đứng trên
thuyền chòng chành mà đá cầu chúc thọ vua Lê được đến hàng trăm quả; lại có sức
khoẻ đánh ngã cả voi, đươc tước Trí dũng hầu.
- Phan
Trương Thanh: Nhà danh bút, cũng là người làng Xuân Viên, có trình độ
xuất sắc về nghệ thuật viết chữ và tạo hình. Ông có làm quan đến tri huyện,
nhưng đặc sắc nhất là đã soạn nhiều sách về phép vẽ, phép viết chữ (thư hoạ).
Ông Võ Hồng Huy đã trực tiếp xem những bản thảo của ông cách đây ngót 200 năm
(lưu tại gia đình) và mượn lời Kiều để đánh giá:
Bút
pháp đã tinh
So
vào với thiếp Lan đình nào thua(2)
- Nghệ
sĩ hài Phan Phú Giai: Giờ đây ta mới có thuật ngữ "nghệ sĩ
hài" để khẳng định sự trân trọng. Chứ trước đây, người biết nghệ thuật
hài, cứ được gọi là "làm hề". Ở Hà Tĩnh có thành ngữ :"hề
trong Cổ Đạm". Có nghĩa là ông làng Cổ Đạm, vai đóng hề trong các vở
tuồng chèo là đặc sắc vô cùng. Người đóng hề là Phan Phú Giai, sống vào thời
Gia Long. Cả nhà ông đều giỏi về trào lộng: con ông là Phan Phú Truyền cũng làm
chức cai ty giáo phường. Cần nói thêm là họ Phan làng Phú Lạp, tổng Cổ Đạm có
nhiều người đàn hát nổi danh.
- Hà
Thiềm: Thợ khắc, quê làng Tiên Điền, sống đồng thời với Nguyễn Du. Ông
có tài khắc chữ lên bia đá, mỗi ngày có thể khắc hàng chục chữ, lại có tài làm
thợ mộc khéo léo và tinh xảo. Tể tướng Nguyễn Nghiễm cho ông thi tài với thợ
đá, thợ mộc ở Thanh Hoá, họ đều phải nhường ông. Con cháu ông cũng đều tiềp tục
làm thợ cả ở trong làng và trong huyện.
- Nguyễn
Trọng: Vị thánh y, cũng là người trong họ Nguyễn Tiên Điền, là chú
Nguyễn Du, em Nguyễn Nghiễm. Cùng với cháu là Nguyễn Nghi, ông nổi tiếng về
nghề thuốc, nhân dân xem ông là vị thánh chữa bệnh. Nguyễn Hành gọi ông là bậc tướng
trong các lương y.
Còn
có thể kể thêm nhiều nhân vật nữa, nhưng phải chăng như vậy cũng đủ cho ta thấy
vùng đất này quả có nhiều người lạ, chuyện hay làm sáng tỏ thêm cái chất văn
hiến của một vùng. Mà hình như ở đây, sự việc đều có tính cách giai sự, giai
thoại nhiều hơn huyền thoại, nghĩa là tỷ lệ về cái thực đậm hơn cái hư.
Cũng
trong kho "kỳ nhân, giai sự" này ta còn có thể điểm qua một vài nét
nữa. Thí dụ như những mẩu chuyện về các ông thầy. Từ thế kỷ XVI, Nghi Xuân đã
nổi tiếng về một ngôi truờng. Đó là trường quan bảng - Hiệu trưởng
đồng thời là giáo viên duy nhất ở đây là ông Trần Bảo Tín. Ông
không phục nhà Mạc, quay về ẩn dật, mở trường dạy học trò chỉ có một chữ
“nghĩa” mà thôi. Vì vậy ông còn được tôn là Nghĩa sư. Ông không dạy
ở trong làng, mà đem học trò lên núi, giảng sách làm văn ở đó, nên núi Đôn Lân
(rú Lần) cũng được gọi là rú quan bảng. Trần Bảo Tín
lại có một bà vợ, đã chú ý đến ông từ lúc thiếu thời. Ngày ngày cô đi chợ, gặp
cậu học trò nghèo, nhưng chăm chỉ, tốt nết, cô đã ngầm yêu, và đã tìm cách lén
bỏ vào cái tráp của anh vài ba đồng tiền giúp anh mua củ khoai, cái bút. Cứ như
thế cho đến khi biết rõ sự thực, Trần Bảo Tín rất cảm kích, xin được cưới cô để
làm lễ tiểu đăng khoa sau khi đã đại đăng khoa. Gia phả không chép được tên bà
vợ này, nhưng dân gian Nghi Xuân vẫn truyền tụng chuyện cô gái Kẻ Lách(3) như
một câu chuyện đẹp.
Nhưng
Nghi Xuân đâu chỉ có thầy Trần Bảo Tín. Ngày xưa, ông nhà nho nào cũng làm nghề
thày học, cả khi đã đỗ đại khoa, hoặc đã làm quan to. Nghi Xuân cũng vậy. Rất
tiếc là sách lịch sử giáo dục Việt Nam chưa viết, mới có vài tài liệu
cũng chỉ đề cập sơ sài(4). Hy vọng một ngày nào đó, ta có thể nhắc
đến những ông như:
- Đào
Doãn Cung (người làng Đan Hải) là thày dạy của ông tiến sĩ Vũ Thời
Mẫn, Ngụy Khắc Tuần. Vị thầy này có phong thái rất nghiêm túc, rất tự trọng,
rất ngay thẳng để làm gương cho học trò.
- Lê
Hoằng Chu: (người làng Tiên Bào) không rõ ông có phương pháp dạy như
thế nào mà học trò của ông phần lớn đều trở thành nhân tài của đất nước. Hồi đó
là vào thế kỷ XVIII, dư luận đồn rằng ở Nghệ An có bốn người giỏi (Nghệ An tứ
hổ), thì làng Tiên Bào chiếm mất hai người. Đó là Đậu Minh Dương và Lê
Đăng Truyền. Hai người này đều là học trò của ông.
Các vị thầy ấy
nhiều không kể hết được. Lại còn có các nhà sư tu hành nữa. Nghi Xuân có nhiều
chùa, mà ngôi chùa nổi tiếng nhất là chùa Uyên Trừng (tục gọi là chùa Giăng)
được xem là một trong tám cảnh đẹp của Nghi Xuân. (Nghi Xuân bát cảnh phải
nhắc đến Uyên Phương cổ tự). Chùa này có vị sư đạo hạnh rất cao,
tinh thông giáo lý và là bạn của nhà thơ Nguyễn Du. Ông có hiệu là Huyền Hư
Tử, Nguyễn Du đã nhắc đến ông qua một số bài thơ(5). Nghi
Xuân còn có cả sư bà, cũng đã có tên trong sử sách. Đó là bà Diệu cổ thiền sư(6)…
Nhiều nhà sư khác chắc cũng có bản lĩnh nhất định, song đã bị quên đi.
Có thể nghĩ rằng
khi điểm qua những nét văn hóa trên đây, mà không nhắc đến giới phụ nữ, là một
điều thiếu sót. Phụ nữ Nghi Xuân trong truyền thống không thấy ghi được những
tấm gương nữ tướng như bà Trưng, bà Triệu, song vẫn có những tên tuổi khá tiêu
biểu. Vai trò bà mẹ như bà Phan Thị Minh, sinh ra tể tướng Nguyễn Nghiễm. Người
Trung Quốc sang ta đã tỏ ra kính phục bà mẹ này, vừa là mẹ, vừa là
bà nội của rất nhiều danh nhân (Nguyễn Du, Nguyễn Nễ...). Vai trò người vợ thì
có bà Đặng Thị Minh, vợ của Nguyễn Công Trứ, suốt một thời tần tảo, lo cho
chồng ăn học. Đến khi ông Trứ bay nhảy nhiều nơi, bà vẫn chịu sống bình thường
lặng lẽ, mặc cho ông chồng “lão phu do phiếu ngũ hồ chu”. Cũng phải kể đến một
nhà thơ nữ. Bà Nguyễn Thị Quyên là con gái út của Nguyễn Công Trứ, là vợ tú tài
Trần Văn Ý, một văn thân chống Pháp, ở xã Đan Phổ. Thơ của bà đã làm cho nhiều
ông cử phải kinh sợ, thẹn thùng. Tư tưởng của bà lại rất vững vàng, giữ vững
lòng trung với nước, với chồng.
Thật ra những nét
văn hiến trên đây của vùng quê Nghi Xuân là chưa đầy đủ, còn có thể tìm tòi và
phát hiện thêm nhiều. Và đây cũng là điều mà người dân Nghi Xuân những thế kỷ
xa xưa vẫn tự ý thức được, không phải là do chúng ta suy luận để tưởng tượng
nên. Những câu phương ngôn ở Nghi Xuân vẫn được lưu hành cho thấy người Nghi
Xuân luôn luôn khẳng định quê hương mình là một vùng quê văn hóa. Họ nhìn nhận
rất toàn diện cả về thiên nhiên, đất nước, sản vật, truyền thống và phong cách
từng làng. Chẳng hạn:
- Lúa Xuân
Viên, quan Tiên Điền, tiền Hội Thống, trống Đan Tràng, đục chàng Đan Phổ.
Như vậy là đủ cả:
Làng Xuân Viên nhiều ruộng lắm lúa, làng Hội Thống giàu vì buôn xa, làng Phúc
Châu nhiều thuyền bè, làng Tiên Điền nhiều quan lại, làng Đan Tràng thường mở
hội, trống đánh rộn ràng, làng Đan Phổ quen nghề thợ mộc,làng Cổ Đạm có Ca trù nghề làm nồi đất...
Vài nét về văn hóa Nghi Xuân, dù chưa đủ, song cũng gợi nên một diện mạo đáng
tự hào của di sản văn hóa một vùng quê địa linh nhân kiệt. Nối dòng truyền
thống, phát huy tinh hoa, hạn chế những điều bất cập là vấn đề mà người dân nơi
này không thể không nghĩ đến./.
V.N.K
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét