Lê Mai
Phần 1
“Bằng
cách nào cũng phải chiếm lại Hoàng Sa” – câu nói của Lê Duẩn qua lời bà Bảy
Vân, phu nhân của ông, trong một cuộc trả lời phỏng vấn Đài BBC. Cho đến nay,
chưa có bất cứ lãnh đạo nào của VN thể hiện quan điểm và quyết tâm sắt đá lấy
lại Hoàng Sa như Lê Duẩn. Tầm nhìn sâu sắc của Lê Duẩn về các mưu đồ đen tối
của TQ đối với VN đã được lịch sử chứng minh đầy thuyết phục.
Cố Tổng bí thư Lê Duẩn |
Trong
khi Hồ Chí Minh với tài ngoại giao kiệt xuất của mình đã cân bằng mối quan hệ
tam giác phức tạp giữa VN, TQ và LX, làm cả hai nước “đàn anh XHCN” đều trợ
giúp VN trong cuộc chiến với người Mỹ thì Lê Duẩn – không ít trường hợp, không
ngần ngại bày tỏ sự không hài lòng của ông đối với các nhà lãnh đạo TQ. Ông
giao thiệp với Mao một cách bình đẳng, nhận ra lối chơi chữ của Mao rất nhanh.
Một lần Mao hỏi Lê Duẩn: “Có phải Việt Nam đã đánh thắng quân Nguyên và quân
Thanh không?”. Lê Duẩn đáp: “Đúng, còn đánh thắng cả quân Minh nữa” – quân Minh
là người Hán, dân tộc đa số của TQ. Ý của Lê Duẩn là chúng tôi đã và sẽ đánh
thắng các ông, chúng tôi không sợ các ông đâu.
Trong
một lần gặp khác, chẳng biết Mao có ý gì khi nói với Lê Duẩn rằng hiện ở nông
thôn TQ thì địa chủ trở lại thống trị, còn ở thành thị thì giai cấp tư sản
thống trị, vì rằng các Chủ nhiệm hợp tác xã đều lấy vợ là con của địa chủ, các
giám đốc Xí nghiệp đều cưới con của tư bản làm vợ? Mao rất đểu, nói theo kiểu
bóng gió, ám chỉ…? Lê Duẩn rất bực, nói với Trần Quỳnh, “Cha này lý luận
lang bang, lấy vợ địa chủ trở thành giai cấp địa chủ” (theo hồi ký Trần Quỳnh).
Sử dụng từ “cha này” để chỉ Mao, điều đó có nghĩa là Lê Duẩn không hề coi Mao
là “thần thánh” hay “lãnh tụ” gì cả. Khác với Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, Bí thư
Trung ương Cục miền Nam, khi nói chuyện với Mao, thường gọi Mao là “Bác Mao”
(Uncle Mao) – Thưa bác Mao! Đúng vậy, bác Mao. Như bác Mao nói…
Đối
với Mao như thế, thì đối với Chu Ân Lai hay Đặng Tiểu Bình, có gì đáng ngại?
Lê
Duẩn đã trách cứ Chu về việc ép VN ký Hiệp nghị Geneve, chia cắt hai miền Nam –
Bắc, Chu đã phải tỏ ý xin lỗi ông. Đến năm 1972, Chu sang Hà Nội thông báo về
cuộc đi thăm TQ của Nixon, Chu lại bị Lê Duẩn chất vấn, rằng TQ đưa VN ra đổi
chác và Chu – lần thứ hai, lại phải xin lỗi ông. Khi Chu trở về nước, Lê Duẩn
thậm chí không tiễn ông ta theo phong cách ngoại giao! Nhớ lại những năm năm
mươi thế kỷ trước, Lê Duẩn hoạt động bí mật ở miền Nam, thường lánh sang
Cambodia. Tại Phnôm Pênh, có những khi ông lặng lẽ quan sát dòng người vô tận
Cambodia vẫy cờ hoa đón Chu Ân Lai – khi đó Chu thật nổi danh trên toàn thế
giới. Thế nhưng giờ đây, ông đang đối mặt ngang hàng với Chu, kiên quyết bảo vệ
lợi ích của VN.
Còn
Đặng – một con người ghê gớm, đã không thể nào thuyết phục nổi Lê Duẩn đi với
TQ để chống LX, dù ông ta hứa cho không VN 2 tỷ nhân dân tệ. Cú đụng đầu lịch
sử giữa TQ và VN vào tháng 2 năm 1979, cũng có thể coi là giữa Đặng và Lê Duẩn,
kết thúc với thất bại thảm hại của Đặng.
Lê
Duẩn – tất nhiên, không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp, song ý kiến của ông
trong nhiều chiến dịch rất sắc sảo. Ông đã trực tiếp viết một bức điện gửi Văn
Tiến Dũng, đại diện A.75, trong trận Buôn Ma Thuột: “Hai ngày nay tôi không ngủ
được vì các anh đánh phân tán – Ba”. Nhưng thế nào là “đánh phân tán” thì ông
không chỉ ra.
Sau
trận Buôn Ma Thuột, tình hình phát triển quá nhanh làm các nhà lãnh đạo Bắc VN
quyết định chiếm miền Nam trước mùa mưa. Thấy đã chắc ăn, Lê Đức Thọ bèn xin Lê
Duẩn vào Nam và được Lê Duẩn đồng ý với lời dặn dò: lần này vào, nếu có gì trắc
trở, hãy ở lại, giải phóng miền Nam xong rồi mới về.
Ngày
28.3.1975, Lê Đức Thọ đến Buôn Ma Thuột. Các lực lượng tại đấy nhận lệnh gấp
rút chuẩn bị cuộc đón tiếp. Một địa điểm được chọn là căn cứ Trung đoàn 45 ở
phía Đông thị xã, vừa đảm bảo an toàn, vừa đảm bảo bí mật và khang trang hơn
nơi khác. Gần trưa, mọi công tác chuẩn bị đón tiếp tạm xong thì một tiếng nổ
long trời vang lên, làm rung chuyển các cánh cửa chớp rồi xen kẽ là các tiếng
nổ khác. Hóa ra, một kho đạn súng bộ binh nằm ngay cạnh phòng khách phát nổ.
Thế là lại phải chạy nháo nhào tìm một địa điểm khác đón Lê Đức Thọ.
Đây
không phải là lần đầu tiên Lê Đức Thọ vào Nam. Năm 1949, ông là Phó bí thư Xứ
ủy Nam Bộ mà Bí thư là Lê Duẩn. Năm 1955, ông tập kết ra Bắc và cuối năm đó,
ông được bầu bổ sung vào Bộ chính trị. Trong cuộc tổng tấn công năm 1968, ông
cũng vào Nam chỉ đạo nhưng đến tháng Năm, tình hình gần như không còn chút hy
vọng gì vào một chiến thắng quân sự nữa, ông được gọi trở về Bắc để làm Cố vấn
đặc biệt cho Đoàn đại biểu VNDCCH tại cuộc đàm phán Pari về VN. Ông có mặt ở
nhiều sự kiện nổi bật của lịch sử VN, song hãy nghe Lê Duẩn nhận xét, “anh lạ
thật… Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Pari, rồi đi miền Nam
khi sắp giành chiến thắng…”.
Và
giờ đây, Lê Đức Thọ – người được giải thưởng Nobel Hòa bình với Kissinger, đang
tiếp tục di chuyển vào Nam Bộ theo đường 14 với mục tiêu “giải phóng miền Nam”.
Công binh được lệnh phải rà phá kỹ bom mìn, lại phải đưa nhiều xe tải chở đầy
gạo chạy trước mở đường, tất cả tuyệt đối không đi chệch khỏi vệt bánh xe, khi
nghỉ chỉ đứng giữa đường. Từ trạm đón tiếp của Trung ương Cục, một chiếc Honđa
chở Lê Đức Thọ tới nơi làm việc của Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng đang nóng lòng đón
đợi.
Phần 2
Tại
rừng Lộc Ninh, Trung ương Cục, Quân ủy Miền với sự chỉ dẫn chi tiết từ Bộ chính
trị và Quân ủy Trung ương, đang gấp rút vạch kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn. Trời
mưa, đường sá lầy lội, ông Thọ lo lắng tốc độ hành quân bị chậm lại trong những
vần thơ:
Nghe chim tu hú gọi
Rừng Lộc Ninh sáng rồi
Suốt đêm qua không ngủ
Nằm đếm tiếng mưa rơi
Lo cho anh bộ đội
Lầy lội quãng đường dài
Lê Đức Thọ( Phan Đình Khải) |
Xem
ra, qua thơ ca, Lê Đức Thọ “lo cho anh bộ đội” không chỉ một lần. Nhân chuyến
thăm biên giới phía Bắc, Tết năm 1983, Lê Đức Thọ có bài thơ nổi tiếng Điểm tựa:
Hàn thử biểu chỉ độ không
Đêm nay trời rét lắm
Cái rét biên thuỳ lạnh buốt thịt da
Cả núi rừng chìm đắm dưới sương khuya
Gió vi vút rít qua khe cửa nhỏ
Trằn trọc mãi thâu đêm chẳng ngủ
Thương anh nhiều anh chiến sĩ của tôi ơi
Những
người lính VN nơi biên giới gần như “phát khóc”, bởi họ thấy cấp trên thấu hiểu
cặn kẽ cuộc sống và chiến đấu của mình đến thế. Nếu “cụ” Thọ hiểu hoàn cảnh của
mình nghĩa là Đảng sẽ hiểu. Và một khi Đảng đã hiểu thì Đảng sẽ có cách giải
quyết – họ luôn tin tưởng điều đó.
Đây
là cuộc sống của người lính:
Gạo sấy khoai mỳ, “bát canh toàn quốc”
Và “nước chấm đại dương” đỡ lúc đói lòng
Cũng có khi “thịt ấm chân răng”
Nhưng có bữa cơm toàn muối trắng
Hãy
đọc thêm hai câu:
Đời chiến sỹ còn nhiều khổ cực
Quần áo mong manh, cơm có bữa chưa no
Hai
câu thơ thật đơn giản, cũng chẳng có nhiều chất thơ lắm. Nhà thơ Vũ Quần Phương
bình luận: hai câu thơ ấy “đủ lay động tâm hồn toàn quân và toàn dân ta. Cái
hay của thơ ở đây không để rung đùi mà để dẫn tới hành động…đó là cái hay ở một
cách nhìn, một thái độ đối với hiện thực, đó là cách nhìn tôn trọng hiện thực,
tôn trọng hiện thực vì yêu thương con người”!
Dù
sao phải thừa nhận, Điểm tựa là một hiện tượng thời ấy, người ta
thảo luận, bàn tán, khen ngợi rất sôi nổi. Nếu không phải tác giả của nó là Lê
Đức Thọ, người khác viết như thế là “chết liền” – vào thời điểm ấy. Có lẽ, cái
đặc sắc nhất là ở chỗ nó nói lên được sự gian khổ của người lính nơi biên giới.
Năm
sau, đón xuân ở Minh Hải, mảnh đất cuối cùng của đất nước, trong cảnh nắng ấm,
nhà thơ lại nhớ về “anh bộ đội” đang chịu cảnh rét mướt ở biên thùy phía Bắc:
Đường lên biên giới đâu xa lắm
Nhưng khó thăm anh lại một lần
Mở đài nghe báo tin thời tiết
Đợt rét mùa này rét rét thêm
Tôi ở miền Nam tràn nắng ấm
Ước gì nắng ấm cả vùng biên
Ba
từ “rét” của đoạn thơ ở đây cũng khá hay đấy chứ. Ý tưởng của tác giả, xem ra
vẫn là “gửi nắng ra ngoài ấy”…
Thời
ấy, các nhà lãnh đạo Bắc VN, phải vào sinh ra tử, không có điều kiện học hành
bài bản, song họ am hiểu rất nhiều lĩnh vực. Và nhiều nhà lãnh đạo còn làm thơ,
thích làm thơ. Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy và tất nhiên –
Tố Hữu, thường làm thơ và có không ít những vần thơ khá hay. Còn Lê Duẩn thì
sao? Thật thú vị khi biết ông đã đọc bài thơ của mình tặng bà Bảy Vân (Nguyễn
Thụy Nga) trong đám cưới của họ năm 1948 mà Lê Đức Thọ làm ông mai, Phạm Hùng
làm chủ hôn:
Hỡi cô con gái Đồng Nai
Năm nay là mấy năm rồi cô yêu?
Hôm qua gió lạnh đìu hiu
Lòng cô man mác trăm chiều nhớ thương
Hôm nay trời tạnh mây quang
Gió xuân đầm ấm mùi hương đậm đà
Tự tình ta lại với ta
Say sưa bao xiết là ta với mình
Cho hay là giống hữu tình
Đố ai cắt được tơ mành làm đôi
Phải
chăng đây là bài thơ duy nhất của Lê Duẩn? Nghe như thơ của Nguyễn Bính vậy.
Hình như Lê Duẩn thích thơ Nguyễn Bính. Trong một lần Pháp càn vùng Đồng Tháp
Mười, cơ quan phải di chuyển. Trần Bạch Đằng và Lê Duẩn cùng đi trên một chiếc
xuồng ba lá, ông Đằng bơi lái, ông Duẩn bơi mũi, xuôi theo kinh Dương Văn Dương
ra sông Vàm Cỏ Tây. Đường xa, bơi đêm, để quên mệt, ông Trần Bạch Đằng đọc bài
“Lỡ bước sang ngang” của Nguyễn Bính. Ông Lê Duẩn bảo đọc to lên một chút. Ông
vừa bơi vừa nghe, thỉnh thoảng bình: hay. Gần sáng, đến nơi an toàn, ông bảo
Trần Bạch Đằng đọc lại lần nữa và ông gật gù: Tay Nguyễn Bính này giỏi thật.
Lê
Duẩn cũng rất am hiểu các vấn đề văn hóa. Một hôm, Trần Độ, bấy giờ là Trưởng
ban Văn hóa – Văn nghệ Trung ương được gọi lên báo cáo với Tổng bí thư về vấn
đề văn hóa để chuẩn bị cho Đại hội V. Ông hy vọng đây là dịp tốt để có thể
trình bày với Tổng bí thư toàn bộ quan điểm đổi mới về văn hóa theo kinh nghiệm
của LX. Thế nhưng, Trần Độ mới trình bày được mươi phút thì Lê Duẩn đã ngắt lời
và nói luôn một mạch cho đến hết buổi sáng. Nói về văn hóa nhưng cách diễn đạt
của Lê Duẩn đượm màu sắc triết học làm Trần Độ hết sức ngạc nhiên và thích thú.
Và như thế, suốt cả buổi sáng, Trần Độ không nói thêm được một câu nào. Ông
Duẩn hẹn chiều làm việc tiếp trong sự phấn khích. Trần Độ hy vọng buổi chiều sẽ
tìm cách trình bày cho được ý kiến của mình. Nhưng vừa ngồi xuống ghế, chưa
uống hết ly nước, ông Duẩn đã bắt đầu nói một mạch hơn cả tiếng đồng hồ. Nhân
lúc ông Duẩn dừng lại uống nước, ông Độ chen vào nói, nhưng cũng chỉ được mươi
phút, khi ông Độ dừng lại nhìn vào sổ tay, ông Duẩn “chiếm lại diễn đàn” và cứ
thế nói cho đến hết cả buổi chiều.
Mặc
dù không trình bày được ý tưởng của mình, song Trần Độ rất thán phục sự am hiểu
về văn hóa của Lê Duẩn.
Phần 3
Con
người ta khác nhau là ở phong cách. Người nào không có phong cách riêng, phải
thấy rằng người đó không có gì hết. Nếu như phong cách của Trường Chinh là từ
tốn, nghiêm trang, nói năng cân nhắc thận trọng, ít khi ngắt lời người khác thì
phong cách của Lê Duẩn lại sôi nổi, mạnh mẽ, quyết đoán. Một khi ông đã định
làm gì là làm ngay hoặc cho phép làm ngay.
Lê
Duẩn có một cái đầu luôn luôn suy nghĩ, sáng tạo, ông đánh giá sự vật, hiện
tượng một cách sắc sảo, có tầm nhìn xa.
Tháng
8 năm 1975, phát biểu tại cuộc họp trù bị của Hội nghị Trung ương lần thứ 24,
Lê Duẩn đã có cái nhìn rất thoáng đối với nền kinh tế miền Nam:
“Xưa
nay ở miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi sai quy luật.
Nếu chúng ta đi sai quy luật mà đưa vào miền Nam thì càng sai lầm. Vì vậy, nay
có được miền Nam là để chúng ta thấy lại cho rõ hơn. Tại sao chúng nó là tư
bản, chúng nó bóc lột người ta dữ mà năng suất lao động vẫn cao”.
“Tại
sao người thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong kia? Mình trả lời làm
sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh không được bằng trong kia, anh trả
lời làm sao?” “Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa ngay
lập tức…Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy. Miền Nam bây giờ anh
không để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, mà nông dân thì phần nào hóa tư sản
rồi, anh mà làm sai đi thì công nông không liên minh được đâu. Phải có tư sản,
phải cho nó phát triển phần nào đã”.
Tiếc
rằng, những tư tưởng đó không được phát triển, có thể bị chìm đi trong không
khí say sưa vì thắng lợi và mười năm sau đó, dưới sự lãnh đạo của ông, kinh tế
VN xuống dốc thê thảm, lâm vào khủng hoảng chưa từng có. Những sai lầm, khuyết
điểm đó, “anh Ba là người chủ trì có trách nhiệm lớn” – Võ Nguyên Giáp.
Có
thể nhận xét, Lê Duẩn là “nhà cách mạng thành công, người xây dựng thất bại”
hay không?
Lê Đức Anh |
Tư
tưởng về chiến tranh của Lê Duẩn bao giờ cũng sâu sắc. Một lần, Lê Duẩn gọi Lê
Trọng Tấn và Lê Đức Anh lên chỉ thị, cố gắng giải phóng xong Cambodia sớm rồi
rút quân về Nam Bộ làm ruộng. Lúc bấy giờ, trong Trung ương cũng có nhiều ý
kiến khác nhau về chiến lược tại Cambodia. Nhưng rồi trên thực tế, VN đã ở lại
Cambodia hơn mười năm với 200 ngàn quân, 4 Ủy viên Bộ chính trị, 9 Ủy viên
Trung ương, 2 Phó thủ tướng, 30 Thứ trưởng, 54 Thường trực tỉnh ủy đã từng có
mặt và trực tiếp làm nhiệm vụ tại Cambodia (theo Huỳnh Anh Dũng, cựu Đại sứ VN
tại Cambodia).
Ngày
25.12.1978, VN sử dụng một lực lượng hùng hậu gồm bộ binh, hải quân, không
quân, xe tăng, thiết giáp….tổng tấn công Cambodia. Tướng Lê Trọng Tấn là Tư
lệnh chiến dịch. Còn Lê Đức Thọ, đại diện của Bộ chính trị, giám sát tổng quát
cuộc hành quân, trực tiếp chỉ đạo toàn bộ việc giải quyết cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam.
Với
sức mạnh quân sự tuyệt đối của VN, Cambodia nhanh chóng sụp đổ.
Sau
khi giải phóng Cambodia, Lê Đức Thọ là “Toàn quyền” Cambodia, Lê Đức Anh là Tư
lệnh quân tình nguyện VN và Lê Khả Phiêu là Phó Tư lệnh chính trị quân tình
nguyện. Ba ông họ Lê đóng vai trò quan trọng nhất tại Cambodia, tất nhiên, dưới
sự chỉ đạo tối cao của một ông họ Lê khác từ Hà Nội – Lê Duẩn.
Hơn
mười năm quân đội VN ở Cambodia là một trong những giai đoạn khó khăn, phức tạp
nhất trong lịch sử VN hiện đại, để lại nhiều vấn đề mà cho đến nay cũng chưa
thể đánh giá hết được.
Chúng
ta đều biết, trong thời gian tướng Lê Đức Anh chỉ huy quân tình nguyện VN đã
xẩy ra sự kiện Xiêm Riệp, phản ánh sự ấu trĩ không thể tin nổi của quân báo VN
tại Cambodia. Bọn Pol Pot, được các cố vấn TQ bày mưu, bèn cho một tên Trung
đoàn phó ra trá hàng nhằm đánh phá từ bên trong. Đáng ngạc nhiên là quân báo VN
lại mắc mưu trá hàng của tên này một cách dễ dàng. Hàng loạt cán bộ bị bắt. Xe
của bộ đội VN đi đến đâu là ở đó khiếp sợ. Cho đến khi một cán bộ cao cấp của
Cambodia tự sát để phản đối, VN mới nhận ra sai lầm.
Tướng
Lê Đức Anh cho rằng, khi xẩy ra vụ Xiêm Riệp, ông ta đang chữa mắt ở Liên Xô,
Lê Đức Thọ điện gọi về gấp. Bộ chính trị họp xét vụ này, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ
cán bộ chủ chốt của Bộ tư lệnh mặt trận 479 và 719 có liên quan đến vụ việc.
Sau khi bàn bạc, Bộ chính trị giao cho Lê Đức Anh xử lý. Vấn đề là có chuyện
tướng Hồ Quang Hóa đã ra Hà Nội báo cáo “cấp trên”. Vậy “cấp trên” đó là ai? Lê
Đức Anh đã khéo léo đề nghị chỉ xin xử lý “những việc cụ thể” và “những con
người cụ thể”, Bộ chính trị đồng ý. Rốt cuộc, chỉ có tướng Hồ Quang Hóa và Tư
Thanh bị kỷ luật, mỗi người bị hạ một cấp và cho về nước. Bộ chính trị lại cử
Chu Huy Mân sang xin lỗi đảng Cambodia.
Việc
tướng Lê Đức Anh cho xây dựng tuyến tuần tra biên giới, biệt danh là K5, dài
tới 800 cây số, cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Một số ý kiến cho rằng K5
tốn kém và không cần thiết.
Tướng
Lê Đức Anh là người khá sáng tạo khi chấp hành lệnh của cấp trên. Sau Hiệp định
Pari, lệnh của trên là lui quân về vùng U Minh để củng cố, bấy giờ ông là Tư
lệnh Quân khu IX cho rằng, nếu lui là mất đất, mất dân và ra lệnh cho Tham mưu
trưởng cho quân ở yên, không có lui gì hết. Tại Cambodia, ông không chấp nhận
bỏ chế độ Đảng ủy trong quân đội, dù Đại tướng cố vấn Liên Xô nói, đồng chí
không chấp hành là không mácxít. Ông đáp, đồng chí hãy chỉ cho tôi, cả bản
tiếng Nga và bản tiếng Việt, chỗ nào Mác nói trong quân đội không cần chế độ
đảng ủy thì tôi nhận là sai và xin chấp hành. Bộ chính trị sau đó họp ở Sài Gòn
nhất trí với ý kiến của ông.
Năm
1974, Lê Đức Anh được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng, đến năm 1984,
ông đã là Đại tướng. Sau khi hai Đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn mất
đột ngột, Lê Đức Anh lên làm Bộ trưởng Quốc phòng. Trước Đại hội VII, ngày
24.6.1991, Lê Đức Anh gửi thư cho “anh Linh, anh Tô, Bộ chính trị, Ban bí thư”:
“Xin Đảng cho phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh
nghiệm chiến tranh…và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ chính trị Trung
ương khóa VII”. Thế nhưng, Lê Đức Anh vẫn trúng cử Trung ương, Bộ chính trị và
năm 1992, Quốc hội đã bầu Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước.
Đạo
đức cộng sản như vậy, chớ đâu phải như đạo đức phong kiến.
Trước
mắt tôi là cuốn Tam Quốc chí, kể chuyện Tào Phi (con cả Tào Tháo) phế bỏ vua
Hiến Đế. Các “cố vấn” của Phi ép vua Hiến Đế phải thảo chiếu nhường ngôi cho
Phi. Tào Phi nghe xong chiếu, muốn nhận ngay. Song, Tư Mã Ý can rằng, chớ nên
nhận vội, điện hạ hãy dâng biểu nói nhún mà từ đi, để bịt miệng thiên hạ dèm
chê. Phi nghe lời, sai làm bài biểu, nói nhún rằng đức mình mỏng lắm, xin cầu
người đại hiền khác để nối vào ngôi trời. Vua xem xong, trong bụng nghi hoặc,
hỏi quần thần, Ngụy Vương khiêm tốn không chịu nhận, thì làm thế nào? Hoa Hâm
tâu, bệ hạ phải giáng chiếu lần nữa, Ngụy Vương tất phải nghe. Phi tiếp được tờ
chiếu, mừng rỡ lắm, bảo Giả Hủ, tuy rằng hai lần có chiếu, nhưng vẫn còn ngại
đời sau chê cười ta thoán thiết, thì làm thế nào? Hủ thưa, việc ấy cực dễ, hãy
sai Hoa Hâm nói với vua làm một cái đền thụ thiện, chọn ngày lành tháng tốt,
hội cả công khanh lớn nhỏ đến hết ở dưới đền, để thiên tử nhường ngôi cho điện
hạ, như thế thì không còn ai nghi việc gì, mà bịt được mồm thiên hạ. Tào Phi
lên ngôi vua như thế đấy.
Năm
1997, Lê Đức Anh thôi chức Chủ tịch nước và cùng năm đó, một ông họ Lê khác trở
thành Tổng Bí thư trong một Hội nghị Trung ương chứ không phải Đại hội Đảng –
Lê Khả Phiêu.
Phần 4
Lê Khả Phiêu |
Trong khi các cánh quân đang buộc phải rút lui khỏi Huế
trong Mậu Thân 68 thì Trung đoàn 9 chủ lực do Lê Khả Phiêu làm Chính ủy lại
được tăng cường vào chiến trường. Gạo hết, tất cả đều rất khó khăn, dựa vào dân
cũng có hạn, vì dân đâu có nhiều gạo mà san sẻ cho bộ đội. Theo tự truyện của
nhà sử học Nguyễn Đắc Xuân, ông Trần Anh Liên, Chính ủy cánh Bắc ra lệnh cho
Đội công tác thanh niên đi quyên góp lương thực cung cấp cho Trung đoàn 9. Có
người kêu lên:
- Trời ơi, người ta đã rút ra rồi mà các ông còn vào
chiến trường nữa, khổ đến thế này!
Vẫn theo tự truyện nêu trên, năm 1997, ông Nguyễn Đắc
Xuân đến giúp ông Trần Anh Liên biên tập cuốn hồi ký, nhân xem truyền hình,
được biết Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) vừa bầu
Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư.
Ông Trần Anh Liên hỏi ông Nguyễn Đắc Xuân:
- Anh có nhớ Trung đoàn 9 vào chiến trường nhằm lúc có
lệnh rút lui, không chiến đấu được lại thiếu gạo nhờ anh em mình chạy gạo cho
họ hồi Tết Mậu Thân không?
- Dạ nhớ chứ! Em bị các bạn thanh niên Huế thắc mắc vì
sao đơn vị đang thiếu gạo mà lại đem gạo chia cho bộ đội chủ lực.
Ông Liên cười khặc khặc:
- Đúng rồi, đúng rồi. Ông Chính ủy đơn vị thiếu gạo ấy là
Lê Khả Phiêu vừa được bầu làm Tổng bí thư đấy. Ông ta tiến bộ nhanh thật.
Trước đó, tháng 1.1994, Lê Khả Phiêu được bầu vào Bộ
chính trị. Như vậy, việc ông ta vào Bộ chính trị hay lên Tổng bí thư đều không
phải diễn ra trong Đại hội Đảng toàn quốc, mà là Đại hội giữa nhiệm kỳ và Hội
nghị Trung ương.
Rời Cambodia, ông Lê Đức Anh trở về nước năm 1986, làm
Tổng tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Quốc phòng. Sau khi quân VN rút khỏi
Cambodia, ông Lê Khả Phiêu cũng trở về nước với chức vụ Phó Chủ nhiệm rồi Chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị. Con đường thăng tiến đến đỉnh cao quyền lực của ông
Phiêu diễn ra khá nhanh chóng.
Cũng là gặp Giang Trạch Dân, nhưng hai ông họ Lê mỗi
người có một cách ứng xử khác nhau. Ta biết, TQ luôn luôn tìm mọi cách tác động
vào nội bộ VN và họ sử dụng rất nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Để bình thường
hóa quan hệ Việt – Trung, tháng 8.1991, với tư cách “đặc phái viên của Bộ chính
trị”, ông Lê Đức Anh sang thăm nội bộ TQ. Trước khi vào hội đàm, có ít phút trò
chuyện, Giang nói với Lê Đức Anh: “Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng bí thư.
Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết Trường Sa là của TQ”.
Ông Lê Đức Anh đáp: “Tôi cũng giống như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về.
Khi về Trung ương có dịp nghiên cứu về lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy rõ,
Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ VN”. Nghe vậy, Giang không nói gì nữa,
chỉ cười. Rõ ràng, đây là một cú nắn gân của Giang.
Khi Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư, Giang lại đề nghị cuộc
gặp với ông Phiêu để bàn về biên giới và biển Đông. Đáng chú ý là trong những
người cùng đi có Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Chánh Văn phòng Trung
ương Đảng Trần Đình Hoan bị phía TQ ngăn lại, không cho vào hội đàm. Sự việc
này đã gây nên nhiều phiền phức cho Lê Khả Phiêu sau này. Vào ngày cuối cùng
của năm 1999, truyền hình đột ngột loan tin về việc ký Hiệp ước biên giới trên
đất liền giữa VN và TQ – một Hiệp ước có rất nhiều tranh cãi cho đến nay.
Dường như Lê Khả Phiêu muốn tạo ra một sự khác biệt so
với những người tiền nhiệm và có vẻ ông đã làm được điều đó, chí ít là ở bề
nổi. Cuộc họp báo quốc tế do Tổng bí thư chủ trì sau khi nhận chức không lâu
với gần 200 phóng viên trong nước và quốc tế tham dự quả là một sự kiện đặc
biệt. Ngồi “rỉ tai, mách nước” bên cạnh Lê Khả Phiêu là Nguyễn Mạnh Cầm, Bộ
trưởng Ngoại giao. Cũng có đôi câu hỏi tương đối khó từ phóng viên phương Tây,
nhưng ông ta trả lời khá trôi chảy. Các ngài đổi mới, chấp nhận kinh tế thị
trường, vậy tại sao Thủ tướng Phan Văn Khải mới đây lại tuyên bố không đi theo
chủ nghĩa tư bản? Ngài xuất thân từ quân đội, liệu ngài có hiểu biết về kinh tế
hay không? Theo ông Phiêu, Phan Văn Khải trả lời như vậy là đúng. Còn nói tôi
xuất thân từ quân đội, thì nhiều người tiền nhiệm của tôi như Nguyễn Văn Linh,
Đỗ Mười cũng vậy. Dĩ nhiên, chúng tôi nắm vững các vấn đề về kinh tế…
Về lĩnh vực chống tham nhũng, ông Lê Khả Phiêu cũng nổi
lên rất ấn tượng, mà đầu tiên là vụ cắt chức Ngô Xuân Lộc, Phó Thủ tướng. Sau
khi thôi chức Tổng bí thư, phát biểu của ông về xây dựng, chính đốn Đảng, về
chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân ngày càng mạnh mẽ.
“Cống ở xã tôi cũng bị xơi một nửa” – câu nói rất hay của
ông Lê Khả Phiêu nhân trả lời phỏng vấn tờ Tuổi trẻ năm
2005:
“Ngay ở xã tôi, làm cái cống cũng bị xơi hơn một nửa. Tôi
về thì bà con bảo: hai trăm triệu mà xơi tới trăm hai, còn có tám chục. Đấy mới
chỉ là công trình nhỏ thôi đấy”. Ở đây, “xơi” là một từ được ông dùng rất
“đắt”.
Đó là chuyện ở xã ông Lê Khả Phiêu. Còn với bản thân ông
thì sao?
- “Tôi nói thật có chuyện họ đến biếu tiền, năm nghìn,
mười nghìn chứ không ít đâu”.
- “Năm, mười nghìn đô?”.
- “Đô chứ. Lúc tôi còn thường trực Bộ Chính trị đã có
rồi, lúc làm Tổng bí thư càng có”.
Thật khó mà tin được một ông Tổng bí thư bộc lộ vấn đề
chống tham nhũng một cách thẳng thắn đến thế. Năm 2009, trang mạng BBC có loan
truyền hình ảnh đến thăm nhà cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. Người ta thấy, trong
nhà ông có từ cặp ngà voi đến một chiếc lư được bảo quản cận thận trong hộp
kính, chiếc trống đồng, còn trên sân thượng là vườn sau rạch – những hình ảnh
chẳng biết hư thực ra sao.
Thời gian gần đây, người ta ít khi thấy ông Lê Khả Phiêu
lên tiếng, kể cả việc triển khai Nghị quyết 4 về phê bình và tự phê bình mới
đây, trong khi ông đi thăm đây đó lại khá nhiều. Cũng có ý kiến cho rằng, việc
ông thường xuất hiện với một ông “quan to” Chính phủ gây nên sự “phản cảm” – vì
uy tín ông “quan to” ấy rất thấp và ngày càng xuống thấp. Nhưng, trong chính
trị, người ta hiểu rằng, thông điệp mà ông phát ra, có lẽ, chính là ở sự “sát
cánh” ấy.
Bốn ông họ Lê – thực ra chỉ có ba ông họ Lê thôi, còn một
ông họ Phan (Phan Đình Khải – Lê Đức Thọ). Những chức danh quan trọng nhất
trong thiết chế chính trị VN, bốn ông họ Lê đều đã từng nắm giữ: Tổng bí thư,
Bí thư thứ nhất, Chủ tịch nước, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Quân ủy
Trung ương, Tổng tham mưu trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục
chính trị, Thượng tướng, Đại tướng…
Có những sự trùng hợp kỳ lạ: Lê Duẩn và Lê Đức Thọ là một
“cặp bài trùng” nổi tiếng, cộng tác chặt chẽ với nhau từ những ngày chống Pháp,
ấy thế mà thời gian cuối đời hai ông lại có những ngã rẽ đáng kinh ngạc. Còn
ông Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu, có thể nói điều gì tương tự? Việc ông Lê Khả
Phiêu lên Tổng bí thư, tất nhiên ảnh hưởng của ông Lê Đức Anh rất lớn; ngược
lại, cũng từ ảnh hưởng của ông Lê Đức Anh và hai ông có vấn khác mà ông Phiêu
bị hạ bệ. Thời tiết chính trị, thật chẳng bao giờ có thể dự đoán chính xác
được.
Bốn ông họ Lê đều nổi danh trong lịch sử VN hiện đại và
chúng ta tin rằng rồi đây lịch sử sẽ dành cho họ những hàng chữ nét đậm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét