27 tháng 4, 2016

Nghĩa vụ trả nợ công lên tới 418.000 tỉ đồng năm 2015

Tác giả: Tư Hoàng 
KD: Không biết, có người dân nào nghe tin này mà… thanh thản được không nhỉ? 
 
Thi công nhà ga ngầm của tuyến metro số 1 TPHCM. Ảnh TL 
Nghĩa vụ trả nợ công của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng trong vài năm gần đây, và lên đến hơn 418.000 tỉ đồng năm 2015, theo Báo cáo kinh tế vĩ mô Quý 1 năm 2016 của của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. 
Báo cáo này sẽ được công bố cuối tuần này, và thuộc dự án tái cơ cấu kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh do Úc tài trợ. 
Nợ tăng quá nhanh 
Báo cáo cho biết, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng từ 185.800 tỉ đồng năm 2013 lên 296.200 tỉ đồng năm 2015. Nếu tính cả nợ bảo lãnh Chính phủ, nợ chính quyền địa phương, con số nghĩa vụ nợ còn lớn hơn rất nhiều, dự kiến năm 2015 là 418.400 tỉ đồng. 
Do tốc độ tăng nghĩa vụ nợ rất nhanh, tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên thu ngân sách nhà nước (NSNN) cũng tăng nhanh. Báo cáo ước tính, nếu chỉ tính riêng nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ, tỷ lệ này là 22,4% NSNN năm 2013, tăng lên mức 29,9% năm 2015. 
Nguyên nhân là do giai đoạn 2010-2012, Chính phủ vay nợ ngắn hạn nhiều, chủ yếu bằng trái phiếu kỳ hạn 1-2 năm. 
“Đây sẽ là áp lực rất lớn đối với chi NSNN, nếu phát hành trái phiếu chính phủ không đạt mục tiêu đề ra”, báo cáo khẳng định. 
Với một thị trường tài chính non trẻ, thiếu ổn định, phát hành trái phiếu kỳ hạn dài không phải là dễ dàng. Phần lớn nhà đầu tư mua trái phiếu chính phủ là ngân hàng thương mại và họ thường có vốn ngắn hạn là chủ yếu do kỳ hạn tiền người của người dân ngắn. 
Các tổ chức tài chính khác như bảo hiểm hay ngân hàng đầu tư ở Việt Nam vẫn chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu phát hành trái phiếu dài hạn của Chính phủ. 
Từ thực tế đó, báo cáo cho rằng, rủi ro kỳ hạn và mất khả năng thanh toán tạm thời có thể xảy ra. Đó có thể là lý do khiến Bộ Tài chính phải vay Ngân hàng Nhà nước 30.000 tỉ đồng và phát hành 1 tỉ đô la Mỹ trái phiếu riêng cho Vietcombank trong năm 2015. 
Mức vay nợ khổng lồ 
So sánh với một số nước trong khu vực, Việt Nam có mức thâm hụt NSNN (% so với GDP) lớn hơn khá nhiều. 
Cụ thể, theo số liệu của IMF – Triển vọng kinh tế thế giới (WEO), năm 2015, thâm hụt NSNN của Việt Nam là 6,9% GDP, của Thái Lan là 1,2% GDP, của Indonesia là 2,3% GDP, của Philippines là 0,12% GDP và của Campuchia là 2% GDP. 
Theo dự báo của WEO, mặc dù bội chi NSNN của Việt Nam có xu hướng giảm trong những năm tới nhưng đến năm 2020, mức bội chi so với GDP của Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với các nước tương đồng trong ASEAN. 
Theo số liệu của WEO, so với một số nước ASEAN, Việt Nam có tỷ lệ nợ công so với GDP cao hơn hẳn. So với Indonesia, Philippines, Thái Lan, và Campuchia, Việt Nam có mức nợ công/GDP cao hơn hẳn, gấp đôi nhiều nước và gấp rưỡi Thái Lan, nước có mức nợ công/GDP đứng sau Việt Nam. 
Quan trọng hơn, theo dự báo của IMF, trong nhóm nước này Việt Nam là nước duy nhất có nợ công/GDP tiếp tục tăng đến gần 68% GDP năm 2020. 
Chi đầu tư ngày càng teo tóp 
Một điểm đáng lưu ý trong điều hành ngân sách nhà nước (NSNN) của Chính phủ những năm gần đây là chi đầu tư ngày càng giảm, chi thường xuyên và chi khác tăng lên. 
Trong giai đoạn 2007-2013, chi đầu tư chiếm tỷ trọng trung bình trong tổng chi là 27,7%. Tuy nhiên, trong hai năm 2014-2015, chi đầu tư chỉ còn 16,3% và 15,6% tổng chi. 
Là một nền kinh tế ở mức thu nhập trung bình thấp, đầu tư công là rất quan trọng để tạo nền tảng kinh tế – kỹ thuật cho nền kinh tế. Do đó, tỷ lệ chi đầu tư thấp như vậy là một điều đáng lo ngại mặc dù tổng đầu tư toàn xã hội năm 2015 vẫn đạt 32,6% GDP, tăng 12% so với năm 2014, do đầu tư FDI và đầu tư tư nhân trong nước tăng cao.

Không có nhận xét nào:

Trang