40 năm thống nhất đất nước, trên hành trình đổi mới, hội nhập và phát triển, Việt Nam đã khẳng định bản lĩnh và trí tuệ, vượt qua khó khăn, đạt những thành quả kinh tế to lớn. Nhân dịp này, báo Tin Tức trân trọng giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Minh Phong.
Quy mô và cơ cấu nền kinh tế không ngừng cải thiện
Năm 2014, Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch đã nâng xếp hạng nhà phát hành nợ nội tệ và ngoại tệ dài hạn của Việt Nam từ B+ lên BB-. Nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) cũng được tăng bậc xếp hạng cả theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Đây là kết quả hội tụ và cộng hưởng bởi Việt Nam ngày càng cải thiện các quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, có sự ổn định chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô; ngày càng chủ động giảm thuế và điều kiện tín dụng, thủ tục hành chính, quỹ đất, nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng dịch vụ công; mở rộng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nới “room” và tăng tự do hóa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân…
Kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ sau 40 năm ngày thống nhất đất nước. Những công trình giao thông mang dấu ấn thời đại liên tiếp mọc lên.
Nền tảng pháp lý cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng nền kinh tế thị trường, hiện đại và hội nhập, có sự quản lý của Nhà nước ngày càng đồng bộ và vững chắc, thông thoáng, tuân thủ nghiêm túc các cam kết hội nhập, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng và sở hữu tài sản hợp pháp, tạo thuận lợi kinh doanh cao nhất cho doanh nghiệp trong các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; từng bước hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, đồng thời có sự gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế.
Nhà nước ngày càng hạn chế can thiệp hành chính trực tiếp, thay bằng các công cụ pháp luật và kinh tế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; giám sát và giảm thiểu tác động tiêu cực của thị trường; thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và tuân thủ các cam kết hội nhập. Cải cách hành chính ngày càng quyết liệt, đi vào chiều sâu, thực chất hơn nên gánh nặng về chi phí tài chính và lãi suất của DN ngày càng giảm.
Nhờ vậy, tăng trưởng GDP bình quân từ 4,4%/năm ở giai đoạn 1986-1990 đã nâng lên mức trên 7,34%/năm trong giai đoạn 1991-2005 và khoảng 6%/năm trong 10 năm qua. Đặc biệt, từ năm 2010, đất nước với 90 triệu dân đã chính thức ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, với cơ cấu kinh tế ngày càng cân đối: Năm 2014, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 18,12%, công nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%, dịch vụ chiếm 43,38%; so với năm 1986 tỷ lệ tương ứng là: 38,06%-28,88%-33,06%.
Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển nhanh, hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 90% số việc làm và 39% tổng đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn 2008-2013, đã có 457.000 DN được thành lập mới, tăng 30% so với cả giai đoạn 1991-2007.
Hệ thống các DNNN được sắp xếp lại và ngày càng hoạt động bình đẳng với các khu vực kinh tế khác, thu hẹp những lĩnh vực độc quyền nhà nước. Hiện nay, còn 949 DN 100% sở hữu nhà nước (so với trên 12.000 những năm 1990), tổ chức dưới dạng công ty TNHH một thành viên; 32 tỉnh không còn DNNN kinh doanh thuần túy.
Ngoài ra, có trên 90% đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. 13.000 hợp tác xã được đổi mới, phù hợp hơn với cơ chế thị trường và các nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Một số hợp tác xã hoạt động hiệu quả, tạo lòng tin, mang lại lợi ích cho xã viên, góp phần giải quyết việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động.
Hệ thống ngân hàng từ một cấp đã chuyển thành hai cấp từ năm 1988, từng bước được tái cơ cấu toàn diện, lành mạnh hóa và hiện đại hóa, với 1 ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 NHTM Nhà nước sở hữu 100% vốn hoặc cổ phần chi phối, 37 NHTM cổ phần, 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 17 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính, 1 NHTM Hợp tác xã, hơn 1.080 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và 2 tổ chức tài chính vi mô… Chính sách tiền tệ ngày càng chủ động, linh hoạt và góp phần củng cố niềm tin vào đồng nội tệ; tăng dự trữ ngoại tệ; giảm lạm phát và lãi suất, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.
Kinh tế đối ngoại phát triển cả bề rộng và bề sâu
Việt Nam hiện đã có quan hệ ngoại giao với 170 nước (13 nước là đối tác chiến lược); đã ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế; có quan hệ thương mại với trên 230 nước và vùng lãnh thổ; có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; đã ký 8 Hiệp định thương mại tự do (FTA); kết thúc đàm phán 2 FTA và đang đàm phán 6 FTA khác. Hiện đã có 45 nước công nhận Việt Nam có quy chế kinh tế thị trường.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có nhiều tiến bộ. Với ưu thế ổn định chính trị, lao động, vị thế địa kinh tế và môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, Việt Nam đang đứng trước cơ hội đón làn sóng FDI chuyển dịch các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ từ các nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu ngành đầu tư ngày càng phù hợp với mục tiêu thu hút FDI.
Năm 2014, cả nước có 1.843 dự án FDI mới, với tổng vốn đăng ký là 16,5 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2013. Lũy kế đến hết tháng 7/2014, cả nước có gần 17.000 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký trên 240 tỷ USD, lượng vốn thực hiện khoảng 110 tỷ USD. Hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư tại Việt Nam; trong đó có 16 nước và vùng lãnh thổ có vốn đăng ký (còn hiệu lực) đạt trên 1 tỷ USD (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Nga, Đức, Pháp, Australia…). Tất cả 63 tỉnh thành của cả nước đều có vốn FDI, trong đó có 27 tỉnh thành có số vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD.
Khu vực FDI hiện đã chiếm trên 18% GDP và 46,3% giá trị sản xuất công nghiệp, 66,2% kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm trực tiếp cho trên 1,7 triệu lao động. Hiện có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD. Tổng vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ năm 1993 đến nay đạt trên 78 tỷ USD vốn cam kết, trên 40 tỷ USD giải ngân. Việt Nam nằm trong top 10 nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới và tăng đều qua các năm, với trên 12 tỷ USD năm 2014.
Từ nước nhận đầu tư một chiều, gần đây, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cũng tăng nhanh. Tính đến 31/12/2014, đã có 930 dự án của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, với tổng vốn đăng ký là 14,85 tỷ USD. Cùng với đó, 92 dự án đăng ký tăng vốn thêm là 4,93 tỷ USD, nâng tổng vốn đầu tư đăng ký (cả cấp mới và tăng thêm) là 19,78 tỷ USD. Riêng năm 2014, tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài (gồm cấp mới và tăng vốn) là trên 1,786 tỷ USD.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Tốc độ tăng xuất khẩu gần như liên tục đạt 2 chữ số. Kim ngạch xuất khẩu năm 2014 cao gấp 187 lần năm 1985, đạt 150 tỷ USD. Quy mô xuất khẩu bình quân đầu người năm 2014 gấp 125 lần năm 1985. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP năm 1985 mới đạt 5%, năm 2013 đạt trên 75%, cao hơn tỷ lệ của Đông Nam Á, cao gấp ba lần tỷ lệ của châu Á, đứng thứ 5 trên thế giới.
Việt Nam có trên 20 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD và đứng thứ hạng cao trên thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, điện thoại di động, máy vi tính, sản phẩm điện tử, máy ảnh… Từ năm 2012, Việt Nam đã chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu, từ 284 triệu USD năm 2012, lên 863 triệu USD năm 2013 và khoảng 2 tỷ USD trong năm 2014.
Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong.
(Theo Tin Tức)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét