Một buổi sáng đầu tháng 2 năm 2006, tại Hội trường tầng 8 nhà E
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ngợp trời hoa. Người mới bước vào
hội trường dễ nhầm đây là một cuộc giao lưu do Đài truyền hình tổ chức vì trên
sân khấu có một chiếc bàn và một chiếc ghế mây có lưng dựa được dành cho cử
toạ. Trên ghế là một vị khách khá xa lạ với lớp trẻ nhưng lại quen thuộc với
lớp cán bộ từ tầm trung niên trở lên. Ông ăn mặc giản dị: bộ com lê đã cũ.
Chiếc áo trắng bên trong cũng ngả màu. Trước ông là một cây ba toong bằng song
ngả vào đùi. Bàn tay trái ông cầm điếu thuốc đưa lên miệng rít liên tục, còn
bàn tay phải ông thỉnh thoảng lại che lên ngang tai như cố nghe xem người đang
diễn thuyết trên bục phía bên kia sân khấu nói gì. Có lẽ ông đã nghễnh ngãng
nên thỉnh thoảng lại nghênh mặt lên để đón nhận những lời chúc tụng nồng nhiệt
bay ra trên loa phóng thanh. Hôm nay là ngày người ta tổ chức mừng thọ ông 80
tuổi. Chắc ông không nghĩ có một ngày long trọng như vậy.
Sau bài diễn văn chúc mừng ông, đại diện
cho các thế hệ cán bộ và sinh viên lên phát biểu cảm tưởng. Ông được ca ngợi
như một nhân vật tiêu biểu trong số các giáo sư đầu ngành của trường. Trong các
bài phát biểu đó, người ta không rụt rè nhắc đến người bạn đời của ông. Đó là
điều mà cách đây vài chục năm không phải chỉ có những người khác mà chính ông
cũng rất ái ngại.
Ông chính là giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.
Ngồi trong Hội trường rộn ràng tiếng cười
nói và ngan ngát hoa tươi, tôi bỗng nhớ lại một kỷ niệm cách đây gần ba mươi
năm. Hôm đó vào ngày lễ kỷ niệm Quốc tế Hiến chương các nhà giáo 20-11, theo sự
phân công của chi đoàn cán bộ giảng dạy, một cán bộ trẻ tổ Hán Nôm là anh
Nguyễn Duy Chính ( hiện nay đã mất) nhận nhiệm vụ viết về giáo sư Nguyễn Tài
Cẩn. Do quá vô tư, anh đã hồn nhiên ca ngợi mối tình của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
với người bạn đời người Nga của ông. Thế là, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đang ngồi ở
một căn phòng trong ký túc, nghe anh Chính thao thao nói về mối tình của mình
qua loa phóng thanh, liền nhăn mặt bảo: “ Ông Chính ông ấy đang bôi bác gì tôi
ngoài Hội trường?”...
Vào những năm đó, việc nhắc đến tên Phó
giáo sư Nô na Xtankêvich trong các cuộc họp lớn được xem là một việc tế nhị.
Lại càng không nên nhắc đến mối tình của bà và giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Tất cả
những chuyện liên quan đến hai người chỉ được xì xầm qua tai người này hay
người kia. Trong sinh viên, những chuyện đó được khúc xạ nhiều chiều và đôi khi
nhuốm màu huyện bí như một thứ thâm cung bí sử. Kỳ thực nó cũng chỉ là một câu
chuyện tình như rất nhiều người. Một tình yêu của nhà khoa học, giống như mọi
cuộc tình, cũng lãng mạn, đắm say, cũng mang đầy yếu tố của cuộc đời thường
nhật, chỉ có điều gian truân hơn, phức tạp hơn. Cũng chính vì thế, sau bao cuộc
thăng trầm của lịch sử, của những cuộc thay đổi quan niệm, nay nhìn lại càng thấy
nó đẹp hơn và lý tưởng hơn. Đó là cuộc tình vượt lên trước thời gian với một
sức mạnh và sự kiên trì hiếm có.
Chắc hẳn đã suy nghĩ tưới điều này cho nên
khi đến lượt mình phát biểu, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn chỉ tập trung vào ba điều.
Trong đó, một điều ông dành để nói về điều bí ẩn trong mối tình của ông. Ông
bảo, bây giờ ông cần nói vì tuổi đã cao, nếu không nói thì chẳng may sẽ có lúc
muốn nói mà không nói được. Khi đó. đem theo cả những điều bí ẩn sang thế giới
bên kia thì tiếc lắm. Ông nhấn mạnh, trước đây ít tháng, có nhà báo đã gặp ông
ngỏ ý về chuyện này. Theo ông, đó không phải là họ quan tâm tới ông mà họ muốn
“moi tin”. Có tin, báo sẽ bán chạy.
Tôi rất hồi hộp vì sau bao nhiêu năm sống
gần với giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, hôm nay bỗng thấy ông lại công nhiên cho thiên
hạ biết về chuyện riêng của mình. Biết bao nhiêu thế hệ học trò tò mò muốn biết
về cuộc tình sử của ông. Hôm nay, chuyện đó mới được công khai.
Theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì thời đó,
những người trực tiếp tác thành cho ông và bà Nô na Xtankêvích gồm các nhân vật
như: Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, Thứ trưởng Nguyễn Khánh Toàn, ông Tôn Quang
Phiệt, ông Tôn Gia Ngân. Còn ở nước ngoài có I li a Ê ren bua. Sở dĩ có sự tham
kiến của I li a Ê ren bua là vì khi tình hình diễn biến căng quá, Nô na Xtan kê
vích đã viết thư xin ý kiến. Sau đó, Nô na Xtan kê vích nhận được thư trả lời
của Ê ren bua với sự ủng hộ hoàn toàn.
Hẳn là các thế hệ sau này đến đây đã rõ vì
sao mối tình của Nguyễn Tài Cẩn lại có sự góp mặt của nhiều nhân vật quan trọng
đến như vậy? Và, vì sao khi anh Nguyễn Duy Chính nhắc đến chuyện này thì lúc đó
chính giáo sư lại coi đó là một sự bôi bác?
Thời đó, việc lấy vợ Tây là một chuyện to
lớn lắm. Lại càng to lớn hơn với một người làm giáo viên và đã từng có vợ rồi.
Nó không phải là chuyện của cá nhân mà là chuyện của quốc gia.
Bởi thế, ngày Nguyễn Tài Cẩn mới từ Liên xô
về nước, ông đã nổi tiếng vì có vợ Nga. Khi chúng tôi còn học phổ thông thì câu
chuyện tình của ông đã được kể gần như huyền thoại. Đến khi vào đại học, thế
nào tôi lại học đúng cái khoa mà có con người mình đã từng nghe danh.Thú thực,
ngày đó, chúng tôi rất háo hức muốn biết mặt cô Nô na xtan kê vích. Nhưng mãi
tới năm cuối mới được học cô. Sau này ở lại làm cán bộ giảng dạy cùng bộ môn,
nhiều năm giữ chức “mõ’ thư ký công đoàn tổ, tôi thường xuyên qua lại đưa lương
cho vợ chồng giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và càng thêm hiểu tình cảm của hai người.
Càng hiểu, tôi càng kính phục sâu sắc người phụ nữ Nga đã một đời cống hiến cho
ngành Việt ngữ học ở Việt Nam và là cái cầu nối quan trọng cho sự giao lưu văn
hoá giữa hai dân tộc Việt Nam và Liên xô( nay là Nga) trong những năm tháng đất
nước ta trải qua những cuộc chiến khốc liệt nhất. Bà không chỉ là người bạn đời
mà còn là một đồng nghiệp, một trợ thủ đắc lực cho giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong
cuộc đời hoạt động khoa học của mình.
Theo giáo sư Lê Văn Quán, giáo sư Nguyễn
Tài Cẩn đã nổi tiếng từ khi còn công tác ở trường Cao đẳng Sư phạm khu Bốn thời
kháng Pháp. Ông được kết nạp Đảng từ năm 1949, từng làm trợ lý đại học rồi làm
trưởng phòng giáo dục từ những năm miền Bắc chưa giải phóng. Sau Hoà bình ông
được Nhà nước cử đi làm chuyên gia dạy tiếng Việt ở Lê nin grát ( nay đổi lại
tên cũ là Xanh Pê téc bua). Tại đây, ông làm quen và yêu cô sinh viên người Nga
rất thích thú học và nghiên cứu tiếng Việt. Đó là cô nữ sinh Nô na Xtankêvích,
sau này là một trong các nữ phó tiến sĩ đầu tiên về Ngôn ngữ học của Việt Nam
và là một chuyên gia đầu ngành về môn Loại hình học.
Phó giáo sư Nô na Xtankêvích là một
người phụ nữ Nga tuyệt vời. Ngay từ những năm sơ tán, sự xuất hiện của bà trên
vùng rừng núi Đại Từ Thái Nguyên đã gây ra bao nhiêu sự ngạc nhiên và kính
trọng của dân vùng sở tại. Không quản hy sinh, gian khó, cả hai đợt hành quân
sơ tán từ thủ đô về vùng núi rừng phía Bắc, bà luôn đội mũ sắt, khoác ba lô
cùng lăn lộn với giáo viên và sinh viên Văn khoa đi khắp mọi miền, hoà đồng
cùng nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Bao
nhiêu thế hệ cán bộ và sinh viên đến nay vẫn còn nhớ hình ảnh một người phụ nữ
Nga tận tuỵ, buổi sáng cắp giáo án lên lớp giảng bài, buổi chiều mặc quần thâm,
đội nón, lội xuống ruộng đài khoai dưới chân đồi cắt rau về nuôi lợn. Giữa khu
sơ tán, bà nổi bật lên như một biểu tượng của tình hữu nghị Xô-Việt, của sự
chia sẻ chân tình nhất của tình bạn, tình yêu, tình đồng nghiệp, tình đồng chí.
KHắp cả một vùng đông quê, đâu đâu cũng ngợi khen, kính phục bà. Không kính
phục sao được, khi bà từ một đất nước xa xôi vạn dặm, sống trong cuộc sống của
một nước văn minh công nghiệp lại có thể chịu đựng được những ngày khốc liệt
nhất của cuộc chiến ở xứ xở lạc hậu đói nghèo. Đã đói nghèo lại chiến tranh,
bom đạn. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Hết ăn sắn, ăn khoai lại ăn bo bo,
mì luộc...nhưng bà không hề hé răng kêu khổ. Bà vẫn vui lòng nhận một suất tem
phiếu cán bộ thời bao cấp như tất cả mọi cán bộ giảng dạy đại học Việt Nam.
Trong khi, nhiều phụ nữ Âu châu khác cũng lấy chồng Việt Nam đã không chịu nổi
khó khăn gian khổ, lấy cớ đưa con về phép rồi không bao giờ quay trở lại Việt
Nam nữa. Bà Nô na vẫn một lòng một dạ, thuỷ chung son sắt với đất nước Việt
Nam, với người chồng mà bà yêu quí. Điều đó thực là một sự phi thường.
Từ vùng miền núi hoang vu, tên tuổi vợ
chồng giáo sư Nguyễn Tài Cẩn như một huyền thoại. Người ta thấy lạ, thấy nể một
người con gái Nga dịu dàng, duyên dáng mà lại rất trí tuệ. Những ngày đó, người
dân địa phương thấy một cán bộ giảng dạy đại học mà lội bùn, cắt đài khoai nuôi
lợn đã là việc rất đặc biệt rồi. Nay người phụ nữ đó lại tóc vàng, mắt xanh,
nói tiếng Việt rất chuẩn mà cũng làm đủ mọi việc từ A đến Z như một người nông
dân Việt Nam thực thụ thì ai chẳng bái phục. Bái phục bà đã đành. Người ta càng
bái phục Nguyễn Tài Cẩn. Không biết từ con người ông có ma lực gì mà lại có sức
cảm hoá tài tình đến vậy?
Về chuyện tình yêu của ông có nhiều tình
tiết mà người đời thêm bớt theo thời gian đến mức trở thành các huyền
thoại. Khi chúng tôi tựu trường cũng được nghe không ít những chuyện ly kỳ về
vợ chồng giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Nhưng có một chuyện tôi được nghe ông trực
tiếp kể là, ngày cụ Nguyễn Tài Đức thân phụ ông mới ra Hà Nội. Vì mặc cảm với
người con dâu “Tây”, cụ đã làm một việc rất khinh suất. Một buổi tối sáng
trăng, cụ ra đầu hè vạch quần tè ngay một bãi cố ý để xem cô con dâu phản ứng
thế nào. Liệu cô có thể khinh bố chồng là người quê cệch và thiếu văn hoá
không? Thấy vậy, Nguyễn Tài Cẩn nhanh trí chạy ra đầu hè và cũng làm một việc
giống hệt cha. Sau đó ông giải thích, tiểu tiện đầu hè là một thói quen của cư
dân nông nghiệp có truyền thống văn minh lúa nước. Nghe xong, bà gật gù, tỏ ra
tâm đắc và coi cái việc đã xảy ra là một việc bình thường.
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn được coi là loại đa
mưu túc trí vào bậc nhất nhì trường Đại học Tổng hợp trước đây. Cách đây vài
năm, anh Thành Hưng có viết một câu chuyện vui kể việc giáo sư đi Nhật Tân sắm
đào tết trên từ Bản tin ĐHQG HN. Anh kể, khi đi mua đào, giáo sư đi xe đạp và
đèo thêm một cái cưa. Chở đào về dọc đường, gặp khách mua, được giá ông liền
dừng xe cắt luôn nhánh đào mà khách yêu thích bán lấy tiền gốc...câu chuyện này
đọc vui, tếu táo, nhưng tôi không cho là thật mà là một giai thoại. Vậy mà có
những chuyện mà người đời cho là giai thoại thì lại là chuyện thật một trăm
phần trăm. Chẳng hạn chuyện tình yêu của ông. Nghe nói ngày ông mới về nước,
ông phải nằm dài trên Bộ hàng tuần để viết kiểm điểm. Rồi thì chuyện báo chí
đăng tin, phản ứng về mối tình của hai người...Ngày nay, các thế hệ sau sẽ hỏi:
“Chuyện ta lấy Tây có gì mà ầm ỹ thế? Ngày nào trên ti vi chẳng có những hình
ảnh như vậy? Nhất là cái tết gần đây, người ta còn lăng xê một loạt các đôi vợ
chồng “vợ ta chồng Tây” để quảng cáo cho sứac hấp dẫn của văn hoá Việt đối với
người nước ngoài’. Nhưng xin nói ngay rằng, thời đó, chuyện lấy vợ Tây, chuyện
vợ chồng chia tay được nhìn nhận bằng con mắt hoàn toàn khác. Bởi thế, giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn đã gặp không ít khó khăn, thử thách không những chỉ với dư luận
xã hội bên ngoài mà ngay cả trong nội bộ nữa. Nhưng ông đã vượt qua tất cả, và
chiến thắng tất cả, bảo vệ mối tình trong sáng của mình cho tới trọn đời.
Tất nhiên,
để có được kết quả này, sự đóng góp của bà Nô na Xtan kê vích quả là không nhỏ.
Tất cả những ai gặp bà đều có một cảm nhận giống nhau. Bà là một người phụ nữ
đôn hậu nhưng trí tuệ và lịch lãm. Không những bà là hiện thân của một tính cách Nga mà còn là một phụ nữ thấm nhuần mọi
đạo lý, thuần phong mỹ tục của văn hoá Việt. Chính con người bà, tính cách và
phẩm chất của bà đã cảm hoá được người cha chồng là một cụ đồ nho Nguyễn Tài
Đức. Lúc vợ chồng Nguyễn Tài Cẩn mới về nước, cụ Nguyễn Tài Đức phản đối rất
quyết liệt. Mặc dù chỉ có Nguyễn Tài Cẩn là con trai duy nhất nhưng cụ nhất
định không chịu rời Nghệ An ra Hà Nội sống với vợ chồng người con trai mà cụ
yêu quí. Nhưng dần dà, nghe bà con họ mạc kể lại, nghe đồng nghiệp của con miêu
tả, ông đã đồng ý ra sống với vợ chồng giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và đã cùng vợ
chồng ông sơ tán lên Bắc Thái.
Ngày mừng thọ giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tuổi
80, lúc trở về khoa Ngôn ngữ học chúc rượu, ông hứng chí kể lại, sau này cụ
Nguyễn Tài Đức rất quí cô con dâu người nước ngoài. Bởi vậy, khi đứa con trai
đầu lòng của bà Nô na Xtan kê vích và Nguyễn Tài Cẩn ra đời có một cụ đồ nho
vốn là bạn với cụ Nguyễn Tài Đức đem đến một bài thơ chúc mừng. Cụ Đức nhân đó
đã hoạ lại bằng một bài thơ đầy ngụ ý nói rõ việc xì xào bàn tán bên ngoài nay
không còn ý nghĩa gì cả. Bài thơ đại ý có những câu:
Ngoài cuộc xin đừng liên lẹo
Tan sòng mới biết ai được bài
Muôn năm hữu nghị tình Xô-Việt
Con cháu đầy nhà chút chít lai..
( Đoạn thơ này chúng tôi thoáng nghe giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn đọc có một lần nên có thể có đôi từ chưa thật chính xác))
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và bà Nô na Xtan kê
vích có được hai người con trai, đều tốt nghiệp đại học tại Liên xô (cũ) và lập
nghiệp ở đó. Lúc về hưu, bà Nô na quyết định trở về nước sống với các con. Giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn đành rời quê hương yêu dấu của ông để sống ở trời Âu
những năm tháng tuổi già. Điều đó cũng hợp với lẽ đời. Cả thời tuổi trẻ, bà Nô
na đã hy sinh tận tuỵ vì sự nghiệp của chồng, không sợ gian khổ, chẳng ngại đạn
bom. Nay đất nước hoà bình, đời sống toàn dân sung sướng, bà chọn con đường trở
về nước để được sống gần gũi các con lẽ nào giáo sư Nguyễn Tài Cẩn không ủng hộ
? Đành rằng, trong một góc thầm kín của con tim, Nguyễn Tài Cẩn còn có một tâm
hồn nhà nho không dễ gì xa gốc rễ, cội nguồn. Nhưng vì tình yêu, vì con cái,
ông phải chấp nhận cái cảnh sống ở xứ người lúc về già. Đó là nỗi buồn riêng
thăm thẳm trong ông. Theo anh Nguyễn Huy Hoàng ( nguyên cán bộ giảng dạy khoa
Văn) kể lại, dạo ông còn ở Xanh Pê téc bua, một lần anh Hoàng và mấy người bạn
Việt Nam đến thăm. Ông mừng quá, không kịp mặc quần áo rét chạy ra hiên đón,
Hấp tấp thế nào ông trượt chân trên tuyết bị ngã sưng cả gối khiến ai cũng rất
thương.
Mấy năm gần đây, gia đình giáo sư Nguyễn
Tài Cẩn chuyển về Matxcơva nên có điều kiện gặp gỡ giao lưu với người Việt
nhiều hơn. Nhưng vốn tính ham làm việc, những năm tháng tuổi già, ông vẫn không
hề nghỉ ngơi, trái lại còn làm việc nhiều hơn trước. Có đến một nửa số đầu sách
và những công trình quan trọng khiến ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh đã được ông viết trong giai đoạn này.
Có thể nói,
giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trải qua gần như cả một cuộc đời lận đận để đạt tới vinh
quang. Ông là một số phận của lịch sử trong sự thay đổi và phát triển những
quan niệm. Nếu nói đến công lao của ông, trước hết cần nói tới tư tưởng táo bạo
mà ông đã khởi xướng trong nghiên cứu ngôn ngữ. Đó là sự chống lại cái tư tưởng
cố hữu “dĩ Âu vi trung” được hình thành trong nhiều thế kỷ nghiên cứu ngôn ngữ
học ở châu Âu. Bằng những cứ liệu sinh động trong tiếng Việt, một ngôn ngữ tiêu
biểu của loại hình ngôn ngữ đơn lập, ông đã chứng minh rằng, nhiều vấn đề lý
thuyết ngôn ngữ học hiện đại cần được điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với
tình hình thực tiễn về sự tồn tại và phát triển của các ngôn ngữ thế giới.
Rằng, bức tranh về ngôn ngữ thế giới cần được định vị lại trong nhiều mối quan
hệ tương tác của một loạt các vấn đề như: hiện tượng phổ niệm ( phổ quát), vấn
đề xác định ranh giới giữa hình vị, từ, âm tiết,...Sự đóng góp tiêu biểu của
ông được thể hiện rõ nhất trong nghiên cứu tiếng Việt là việc xây dựng thành
công mô hình tổng quát nhất về đoản ngữ. Với ông, đơn vị quan trọng nhất của
ngữ pháp tiếng Việt là đơn vị được ông gọi là Tiếng một. Đây
là một lý thuyết quan trọng có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ nghiên cứu Việt ngữ
và cũng là một sơ sở khoa học giúp cho việc giải quyết những hiện tượng phức
tạp trong tiếng Việt như : từ ghép, từ láy...
Không ai
nghi ngờ gì những thành công quan trọng của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có sự đóng
góp rất tích cực và hiệu quả của Phó giáo sư Nô na Xtan kê vích. Bà không
chỉ là một người vợ mà còn là một đồng nghiệp, một bạn tri âm của ông trong
nhiều vấn đề chuyên môn. Đọc cuốn “Một số chứng tích về ngôn ngữ,
văn tự và văn hoá “cũng như một số công trình khoa học khác mà ông công
bố, độc giả có thể nhận thấy bóng dáng của bà Nô na Xtan kê vích thấp thoáng ẩn
hiện sau mỗi trang viết của vị giáo sư đầu ngành này với cương vị là một
phụ tá và là một người tâm giao với ông. Sự phối hợp trong nghiên cứu khoa học
giữa hai người còn có thể thấy cả trong hơi văn của cuốn “Loại hình học các
ngôn ngữ” do bà Nô na Xtan kê vích là tác giả. Đúng như câu thơ của cụ Nguyễn
Tài Đức, nếu đọc và quan sát kỹ tất cả những bài viết, công trình của Nguyễn
Tài Cẩn, người đọc nhận thấy ngay một giọng điệu rất riêng của một liểu văn
phong khoa học mang đậm chất “văn phong khoa học Nga”, với những câu đơn mở
rộng bổ ngữ, với cách phất triển định ngữ khá dài. Ngược lại, trong các bài
viết hay công trình của Phó giáo sư Nô na Xtan kê vích, người đọc cũng nhận
thấy một phong cách hành văn khoa học “rất Việt” ở cách lập luận, cách so sánh
hoặc cách sử dụng các câu ghép. Có kết quả ấy chính vì có một thời giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn là chuyên gia dạy tiếng tại Lê nin grát. Ông là
thầy cùa bà Nô na Xtan kê vích về nhiều mặt nhưng cũng lại là người học trò của
bà về tiếng Nga. Cuộc gặp ngẫu nhiên về số phận đã tạo nên sự giao lưu ngôn ngữ
và văn hoá sâu sắc giữa hai con người, hai mảnh đời trong cái nôi chung của
khoa học về ngôn ngữ.
Học trò nhiều thế hệ nhớ tời giáo sư Nô na
là nhớ tới một người dong dỏng cao, tóc màu bạch kim và đôi mắt xanh biếc. Bà
Nô na không giống các phụ nữ Nga khác là sau khi sinh con và luống tuổi thì to
béo, nặng nề. Trái lại, bà vẫn giữ được dáng người thanh thoát, kiều diễm cho
đến lúc về già. Với chất giọng xứ Nghệ ( ảnh hưởng trực tiếp của người thầy
đồng thời là chồng), mỗi khi phát âm, giọng nói của bà có một sự cuốn hút rất
riêng biệt. Khi còn làm cán bộ giảng dạy ở khoa Văn, bà phụ trách dạy môn Loại
hình học các ngôn ngữ cho sinh viên năm thứ tư ngành Ngữ. Mặc dù là người nước
ngoài, nhưng cách truyền đạt của bà bao giờ cũng dễ hiểu nhờ phương pháp tư duy
khoa học chặt chẽ và lối tiếp cận vấn đề rất thông minh. Có thể nói, bà là một
nhà khoa học nữ thuộc loại hiếm hoi trong ngành Việt ngữ học. Không phải chỉ
làm công việc giảng dạy thuần tuý mà bà còn là một người có vai trò đắc lực
trong việc tạo ra cái cầu nối văn hoá giữa Việt Nam và các nước Đông Âu. Bởi ai
cũng biết rằng, khi khối Xã hội Chủ nghĩa còn tồn tại, Liên xô được coi như là
cánh cửa bản lề để đi vào các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu khác. Mặt khác, mọi
cuộc tiếp xúc văn hoá từ các nước này tới Việt Nam cũng phải qua Liên xô. Có
một thời, đội ngũ trí thức được đào tạo tại Liên xô được coi là át chủ bài, là
lực lượng nòng cốt trong tổ chức và phát triển các trung tâm giảng dạy và
nghiên cứu khoa học tại Việt Nam. Nhiều nhà trí thức lỗi lạc trở thành những
cánh chim đầu đàn của khoa học hiện đại, thậm chí có một số người đã trở thành
các lãnh tụ tối cao của Đảng và Nhà nước cũng đã được đào tạo từ đất nước này.
Thời chúng tôi mới vào trường, có nhiều câu
chuyện huyền thoại xung quanh giáo sư Nô na. Có tin đồn, bà là con một vị thứ
trưởng Bộ quốc phòng Liên xô, người có vai trò quan trọng trong việc điều phối
viện trợ vũ khí quân sự của Liên xô cho Việt Nam trong những năm chống
Mỹ. Vì thế, vợ chồng bà rất được chính phủ Việt Nam vì nể. Lúc sinh thời,
nhiều lần thủ tướng Phạm Văn Đồng xuống tận nhà vợ chồng giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
ở Chợ Giời, gần phố Huế để chúc tết. Chính vì thế mà sau này giáo sư Nguyễn Tài
Cẩn mới được “giải thoát” khỏi nỗi ám ảnh của con ma “chuyên môn thuần tuý”
luôn rượt đuổi ông. Đây là một câu chuyện khá dài trong trường đời khúc khuỷu
của một vị giáo sư mà “tăm tiếng” cũng nhiều, “tai tiếng” cũng không ít trong
quá trình hình thành các tư tưởng khoa học. Số là khi mới về nước, Nguyễn Tài
Cẩn vốn rất được trọng vọng vì ông là một phó tiến sĩ được đào tạo tại Nga xô.
Thời đó, phó tiến sĩ còn hiếm tới mức có thể đem khắc tên vào Văn Miếu Quốc tử
Giám cũng không đến nỗi lo bị làm mất không gian hay tốn đá. Khác hẳn thời nay
khoa học phát triển tới mức ra cổng có thể gặp ngay một lúc mấy vị tiến sĩ rồi.
Nếu đem khắc tên vào đá e nuôt hết cả dãy núi Tam đảo và núi Ba Vì cũng chưa
đủ.
Trong bối cảnh như thế, Nguyễn Tài Cẩn là người có một vị thế khá cao ở trường.
Là một đảng viên được kết nạp từ năm 1949, lại kinh qua nhiều công tác ở khu
Bốn thời chống Pháp, ông trở thành một điểm sáng được nhiều người chú ý. Về
nước chưa bao lâu, ông đảm nhiệm chức tổ trưởng bộ môn Ngôn ngữ học, rồi vào
Thường vụ Đảng uỷ Trường. Thời ấy, Đảng lãnh đạo mọi mặt và toàn diện nên vai
trò của các Uỷ viên Thường vụ to lớn lắm. Tiếng tăm cũng vang lừng chứ không
thu hẹp phạm vi công tác như bây giờ. Cứ đằng thằng theo con đường đó, chắc
Nguyễn Tài Cẩn sẽ trở thành một vị thứ trưởng hay bộ trưởng trong tương lai chứ
không phải thành nhà khoa học như sau này.
Xét cho cùng đó là số phận. Nếu theo như
những bài viết mà anh Đỗ Minh Tuấn ( nhà đạo diễn, nhà thơ, kiêm hoạ sĩ) cựu
sinh viên công bố thì, khi anh Tuấn có quan hệ gần gũi với Thủ tướng Phạm Văn
Đồng và Trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng, anh đã chính thức kiến nghị đề cử
giáo sư Nguyễn Tài Cẩn lên làm phó Thủ tướng phụ trách Văn xã, giáo sư Nguyễn
Văn Hượu lên làm chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội. Nhưng kiến nghị đó của anh
không được chấp thuận. Tổ chức chỉ chấp nhận 2 người khác trong danh sách tiến
cử của anh. Bản thân giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng có mấy lần được đề bạt,
nhưng cả mấy lần ông đều khéo léo từ chối để được yên phận với chuyên môn.
Cũng chỉ vì say mê chuyên môn, nhận thức rõ
tầm quan trọng của chuyên môn trong sự nghiệp phát triển của đất nước, ngày đó
Nguyễn Tài Cẩn cùng một số vị giáo sư nổi tiếng như Lê Văn Thiêm, Hoàng Phương.
Nguyễn Bạt Tuỵ...nêu ra chủ thuyết đi sâu vào nghiên cứu khoa học, coi
việc nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ hàng đầu của cán bộ và sinh viên. Lập tức
ông cùng các giáo sư nói trên bị qui vào cái gọi là “tư tưởng chuyên môn thuần
tuý” bỏ mất nhiệm vụ chính trị quan trọng trong chiến lược đào tạo cán bộ theo
đường lối của Đảng là “vừa hồng vừa chuyên”. Giữa lúc bối cảnh chính trị
quốc tế có nhiều vấn đề, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội không tránh được những
ngọn gió cuồng phong từ phương xa thổi tới, cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ
các nhà đại trí thức của trường càng trở nên quyết liệt. Nhóm cán bộ theo tư
tưởng “chuyên môn thuần tuý” bị phê phán mạnh mẽ trong nhiều cuộc họp. Bản thân
Nguyễn Tài Cẩn cũng “bị kiểm điểm” liên tục. Thậm chí có người còn khép ông vào
cái tội “lũng đoạn Ban Thường vụ”. Ông rất buồn, nhưng biết ngỏ cùng ai? Con
người đi trước thời đại đã không tìm kiếm được sự ủng hộ của trên với mình,
đành âm thầm chịu đựng những trận phong ba bão tố cốt sao trụ vững được mà
không bị bật khỏi khoa, khỏi trường. Quân tử nuôi chí mười năm! Ông lui về một
làng quê nơi sơ tán ở vùng núi Đại Từ sớm khuya chong đèn đọc sách. Thời gian
đó ông trở thành một ông già ẩn dật, rất ít giao tiếp với mọi người. Đồng
nghiệp cũng có người tránh ông, không muốn thân mật vì sợ bị “vạ lây”. Cái
chuyện lấy vợ người Nga năm xưa tưởng đã ngủ êm đềm trong ký ức nay lại có cơ
trỗi dậy thành một câu chuyện luận bàn. Ông sống thắc thỏm trong nỗi ám ảnh với
tâm trạng của người thất trận. Ông thất trận là phải. Bởi vì ông và các vị giáo
sư cùng chí hướng thời đó làm sao chống lại được những ông như Trần Tống, Trần
Quang Huy...những con người kiên trì tư tưởng “vừa hồng vừa chuyên”. Đề cao
“chuyên” như ông có nghĩa là hạ thấp “hồng”, là lệch lạc, là phải uốn nắn.
Theo giáo sư Lê Văn Quán kể lại, những năm
tháng đó, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn sống trong tâm trạng rất u uất. Ông bị đưa ra
khỏi Thường vụ Đảng uỷ, bị kiểm thảo nhiều lần. Nghe tin này, Lê Văn Quán đã
đến chia sẻ với ông.
Một buổi chiều mùa đông u ám, trong căn nhà
người nông dân khu sơ tán, PTS Nguyễn Tài Cẩn đang ngồi suy tư trước cửa
sổ thì chợt thấy một người gầy gò bước vào sân. Ông vừa ngẩng lên thì nhận ra
đó là Lê Văn Quán, giáo viên tổ Trung Văn, là người quen biết cũ từ thời còn
công tác ở khu Bốn. Nguyễn Tài Cẩn thốt lên một câu hỏi vẻn vẹn có hai từ:
·
Hà cố?
Theo nghĩa từ Hán-Việt, câu hỏi này mang
tính cật vất “ Vì sao anh lại đến thăm tôi?”. Biết được tâm trạng của ông, Lê
Văn Quán lựa lời nói rằng lâu lắm rồi anh em không gặp nhau nên hôm nay qua
thăm để biết tin tức. Nguyễn Tài Cẩn gật gù nhìn người quen cũ như có ý
hỏi:”Anh không sợ bị liên luỵ với tôi ư?”. Lê Văn Quán mỉm cười. Nụ cười ngụ
ý:”Nếu tôi sợ tôi đã không tới”.
Nhờ cuộc viếng thăm này, Nguyễn Tài Cẩn trở
nên rất quí Lê Văn Quán. Sau này ông nhiều phen ra tay giúp đỡ Lê Văn Quán để
tạo cho cuộc đời Lê Văn Quán những bước ngoặt quan trọng.
Nay lại nói về giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Sau
bước loạng choạng gần như sắp gục ngã, ông vẫn cố sức đứng dậy. Lại thêm quan
hệ hữu nghị Xô-Việt mỗi ngày một thêm thắm thiết và với vị thế của thân
phụ bà Nô na Xtan kê vích, ông lại dần dần củng cố được tầm vóc của mình. Những
cuộc viếng thăm, những lá thư chúc mừng các ngày tết hay đại lễ của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng tới gia đình ông vô hình trung lại là cái bùa phép thần kỳ. Nhiều
người bắt đầu thấy nể rồi sợ ông. Họ đồn nhau, Nguyễn Tài Cẩn là một vị đạo
diễn tài ba nấp trong bóng tối. Ông không xuất hiện trên sân khấu chính trị
những mọi cuộc xếp đặt nhân sự đều có bàn tay ông nhúng vào. Hư thực thế nào,
chắc chỉ có giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là rõ hơn cả. Nhưng khi tôi ở lại trường làm
cán bộ giảng dạy thì những tin đồn đại loại như vậy gần như công khai. Nó được
nhiều người tin vì sau đó, người ta thấy Nguyễn Tài Cẩn được phong giáo sư. Ông
được trọng dụng làm chủ tịch nhiều Hội đồng xét phong quan trọng. Chỉ có điều,
khi vị thế của ông lên cao thì xung đột Văn-Ngữ càng trở nên gay gắt. Một lần
nữa, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn lại trở thành một trong những điểm nóng của những
xung đột. Nhiều cuộc bầu bán, ông bị mất phiếu nghiêm trọng. Mặc dù là con chim
đầu đàn của ngành Ngữ học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và cũng là con chim
đầu đàn của ngành Ngữ học Việt Nam, nhưng đến khi về hưu ông không hề được một
danh hiệu cao quí nào. Thậm chí cả danh hiệu Nhà giáo ưu tú cũng không. Trong
khi đó những người cùng tầm cỡ ông của ngành khác như giáo sư Phan Huy Lê, Đinh
Xuân Lâm... thì đều được phong tặng Nhà giáo Nhân dân cả rồi. Có lẽ giáo sư
Nguyễn Tài cẫn cũng chẳng bao giờ quan tâm tới việc mình được phong tặng cái
gì. Cho nên, khi tách khoa, tình cờ tôi được chứng kiến một cảnh tượng rất ấn
tượng. Hôm đó, vì tổ bộ môn Ngôn ngữ học được trên cho phép thành lập khoa, nên
“ra ở riêng” với một số trang thiết bị khiêm tốn. Tôi và mấy bạn đồng nghiệp
dọn một chiếc tủ tư liệu ra thì thấy một đống bằng khen vứt lỏng chỏng dưới đáy
một chiếc tủ gỗ đã mọt. Tôi cầm một tấm bằng khen đóng trong khung kính lên xem
thì đó là tấm bằng khen Thủ tướng chính phủ tặng cho giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.
Vậy mà ông không hề biết. Tổ bộ môn cũng không hề biết. Và cả khoa Văn, trừ người
đi nhận về, cũng không ai biết.
Với cương vị là chủ tịch Hội đồng học hàm,
đương nhiên giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có những quyền lực khá cao, dẫu không phải
là người quyết định tất cả. Những kết quả của những cuộc xét phong đã tạo nên
nhiều dư luận bất lợi cho ông, trong đó có cả những lời oán thán cay nghiệt.
Cuối cùng, ông, một con người bề ngoài thì uy thế lẫy lừng, nhưng trong khoa
lại mất đi nhiều sự ấm áp cần có, nói cho đúng là mất đi một cái giá tình cảm
vô bờ. Một lần nữa ông lại rơi vào trận thế cô đơn. Ngoài một số môn đệ thân
tín, ít người gần gũi ông. Từ trong lòng khoa Văn, cuộc xung đột giữa ông và
một số người đứng đầu ngành Văn đã tạo ra bờ vực xa cách giữa hai ngành
Văn-Ngữ. Trong các cuộc họp, người ta vẫn nhấn mạnh đến sự đoàn kết, nhưng thực
chất thì nỗi mặc cảm ngày càng gia tăng. Khi thành lập trường Đại học Khoa học
Xã hội & Nhân văn, câu chuyện tách khoa trở thành một vấn đề gay cấn. Những
người vô tư thì cho là việc tách đôi thành hai khoa Văn-Ngữ là một điều rất dở.
Những người bị cuốn vào mối xung đột dai dẳng nhiều năm thì phấn chấn ra mặt,
tuyên bố thẳng thừng ”đây là cơ hội ngàn năm có một” để không phải dội trên đầu
một mái nhà chung. Những người hài hoà hơn thì bảo: hai anh em ruột sống chung
với nhau mãi rồi, nay đều khôn lớn nên tách ra ở riếng để có cơ hội cùng phát
triển. Riêng vị chủ nhiệm khoa Văn đương kim lúc đó đang đi công tác Hàn Quốc
là PTS Phạm Quang Long thì tỏ ra bất bình với chuyện này. Khi về Hà Nội, một
hôm tình cờ anh nhăn nhó cáu với tôi:
- Sao ông ở nhà mà lại để cho người ta tách
khoa. Các ông thật vô trách nhiệm.
Tôi cả cười nói với Phạm Quang Long:
- Tôi nào có vai trò gì. Cũng phát biểu.
Cũng phân tích. Đủ cả rồi.Ngay cả như Phó giáo sư Bùi Duy Tân cũng đã nhiều lần
phản ứng, nhưng chẳng có kết quả. Thậm chí trên báo Văn hoá Nghệ thuật có phóng
viên còn đăng bài phỏng vấn tôi và giáo sư Nguyễn Kim Đính, mượn tôi và giáo sư
Đính để khẳng định việc tách khoa là sai lầm. Sau sự kiện bài báo, tôi
được hân hạnh nhận lời nhắc nhở của Hiệu trưởng Phùng Hữu Phú nữa.
Tuy phản ứng như vậy, nhưng khi lên làm Hiệu trưởng trường ĐHKHXH&NV, rồi
Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội, Phạm Quang Long cũng chẳng làm được gì để nhập lại
cái khoa mà anh cho là không nên phá vỡ.
Nay lại nói về giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Có thể nói lòng ông nặng trĩu một nỗi
buồn cho đến lúc về hưu. Cũng may, sau thời kỳ Đổi mới, con người cũng trở nên
cởi mở hơn với nhau trong nhiều vấn đề, nên công trạng của ông đã được nhìn
nhận khách quan hơn. Ông nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh vì sự nghiệp khoa
học. Đó là niềm an ủi lớn, trả giá cho lòng kiên trì tột bậc của ông trên con
đường theo đuổi sự nghiệp khoa học.
Ông là người mà về già có nhiều niềm vui nhờ những vinh quang tột đỉnh. Chẳng
những đạt được giải thưởng cao quí, ông lại được Trời ban cho một tuổi thọ
thuộc loại quí hiếm trong đội ngũ những người làm khoa học. Ngày mừng thọ 80,
miệng ông nhả khói như mây và cử chỉ khoáng hoạt lạ thường. Nên mới có thơ
rằng:
Miệng thời nhả khói như mây
Mà sao tuổi thọ vẫn ngày ngày tăng.
Phúc cao Trời bể đãi đằng
Muốn cầm cho dứt lại giằng chẳng ra.
Ngữ Văn nghiệp ấy đâu già
Tám mươi mà vẫn nghĩ là đương
trai.(*)
Quả là 80 tuổi mà vẫn còn ăn nói sinh động như ông, ở đời này rất hiếm. Cái cô
sinh viên khi nghe ông nói chuyện ở Hội trường tầng 8 nhà E thốt lên: “Thầy 80
tuổi mà còn nghịch quá. Nghịch hơn cả thanh niên” quả là đã quan sát rất kỹ
ông. Lúc ông về Khoa, giáo sư Nguyễn Thiện Giáp nhắc lại câu này, ông hồn nhiên
cả cười:
- Ờ tính mình nghịch lắm. Xưa nay vẫn thế mà. Đến già vẫn không thay đổi.
Để chứng minh cho câu nói của mình, ông kể chuyện cho chúng tôi nghe. Lần trước
ông về Hà Nội, nhân ngồi chuyện trò với một số đồng hương về việc “Mở cửa” ở
Nghệ An, giáo sư Võ Quí bảo:
- Vừa rồi có người ra vế đối về Nghệ An thời “Mở cửa”, anh Cẩn thử đối lại xem.
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn chăm chú lắng nghe, giáo sư Võ Quí đọc:
- Nghệ An mở cửa, cầu cấm, cổng rào, cửa chốt.
Nguyễn Tài Cẩn gật gù một lát rồi đọc ngay:
- Hà Nội thanh bình, Hồ Gươm, Đống Mác, Hàng Hòm.
Nghe ông đọc xong, tôi ghé tai ông nói nhỏ:
- Vừa rồi em mới viết một bài về thầy, nhưng muốn khi nào in thành sách mới
tặng để thầy đọc.
Ông nhìn tôi mỉm cười:
- Cảm ơn. Năm ngoái tôi tặng ông một quyển sách, ông đã nhận được chưa?
Tôi nói, nhận được tồi. Ông vui vẻ tiếp:
- Tôi không bao giờ quên ông.
Lòng tôi lúc đó tự nhiên rưng rưng.
Tôi nhìn ông và chợt nhớ đến lời của một đồng nghiệp. Nhân chuyện xét
phong chức danh của tôi gặp rắc rối, (mặc dù tôi có số điểm vượt xa mức điểm
qui định cho một giáo sư, nhưng khi bỏ phiếu tôi vẫn bị một phần ba phiếu
chống) người bạn này mới hỏi tôi:
- Nghe nói việc xét phong của ông gặp khó khăn là có sự chỉ đạo từ bên kia về
của Nguyễn Tài Cẩn, đúng không?
Tôi ngớ người ra. Quả thật, với tôi, đó là
một câu hỏi rất bất ngờ. Tôi không tin, không bao giờ tin lại có chuyện như
vậy. Mặc dù câu hỏi đó cũng có những căn nguyên chứ hoàn toàn không phải ngẫu
nhiên. Đó là vì, cách đây chục năm, tôi có cho xuất bản cuốn tiểu thuyết” Phía
sau giảng đường”. Đây là một cuốn sách phê phán những mặt trái, những mặt tiêu
cực trong đào tạo và giáo dục đại học. Trong đó có hai nhân vật chính là đạo
diễn Nam Vân và giáo sư Nguyên. Khi cuốn sách vừa ra đời, nó đã gây ra xôn xao
nhiều ý kiến. Có người nói, giáo sư Nguyên trong cuốn tiểu thuyết này chính là
giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Thậm chí có một giáo sư trong ngành còn nói với một anh
bạn cùng lớp với tôi rằng: “ Ông Đạt lại viết cả một cuốn sách chửi thầy mình”.
Còn một vị phó giáo sư ở K 18 thì trong một cuộc họp khoá đã công nhiên tuyên
bố:
·
Không ngờ anh Đạt bây giờ lại viết sách chửi thầy Cẩn.
Khỏi nói về trình độ văn chương của các bậc
giáo sư như thế. Rất may, hôm đó có mặt giáo sư Trần Trí Dõi ( lúc đó là phó
giáo sư). Anh đã cười nhạt lắc đầu:
- Ông đúng là ngớ ngẩn. Tốt nhất hãy về đọc
lại các sách về lý luận văn học từ A,B,C đi.
Nghe được tin đó, tôi cũng thoáng buồn. Tôi
không dám chắc giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã đọc cuốn tiểu thuyết này chưa, nhưng
tôi tin, dù có đọc ông cũng không đến nỗi ngây thơ tin rằng tôi viết cuốn sách
nhằm bôi bác ông. Bởi vì, ông là một người khá sành về Ngữ văn, lại có khá
nhiều bài viết về ngôn ngữ văn học. Trong đó có những bài bàn về bài “Nam quốc
sơn hà”, bàn về thơ lục bát, thơ Nguyễn Trung Ngạn, thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thiệu Trị...Một người am hiểu văn học như thế làm sao lại
lẫn lộn giữa cuộc đời với văn chương? Mặt khác, trên thực tế, giữa tôi và
giáo sư Nguyễn Tài Cẩn không hề có oán thù gì. Ngược lại, vợ chồng ông còn rất
quí mến tôi. Ngày tôi mới ra trường, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, ông
động viên tôi đi vào nghiên cứu ngữ pháp theo ông . Nhưng số phận đã đưa đẩy
làm tôi chuyển sang nghiên cứu và giảng dạy từ vựng học. Được ít năm, do mảng
phong cách học bị bỏ trống vì Nguyễn Văn Cảnh xin chuyển về quê, bộ môn phân
công tôi sang tiếp nhận môn học này. Trong một số lần đi dạy ở trường Đại học
Ngoại ngữ- Thanh Xuân Hà Nội, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thường khen ngợi tôi và
coi tôi là một học trò xuất sắc mà ông quí mến. Tôi tình cờ biết được chuyện
đó, nhân chuyến đi công tác ở Phnômpênh, được nghe chị Môn giáo viên tiếng
Trung và một số người kể lại. Như thế, chẳng có lý gì tôi lại bôi bác ông. Chỉ
có điều, có thể do gần gũi với ông mà khi sáng tạo hình tượng giáo sư Nguyên,
nhân vật này có đôi nét nào đó phảng phất bóng dáng bề ngoài của ông chăng? Tuy
nhiên, khi cuốn sách được anh Hùng( cán bộ gỉang dạy trường Đại học sư phạm đã
về hưu) mượn về cho vợ đọc thì tôi lại nhận được một cách tri giác văn bản hoàn
toàn khác. Chị nói, nhân vật giáo sư Nguyên sao mà giống với mấy vị trong cơ
quan của chị quá. Tôi thở phào. Hoá ra mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống nó
tinh tế nhưng cũng phức tạp là vậy. Tuy thế, tôi không khỏi băn khoăn. Đến khi
một vài bạn đồng nghiệp ngành Sử nói với tôi, ở ngành đó cũng có khá nhiều giáo
sư Nguyên thì tôi mới thấy thanh thản hoàn toàn. Nhưng để cẩn thận hơn, một lần
tôi đánh bạo đem cuốn tiểu thuyết cho giáo sư Nguyễn Cao Đàm và nói:
- Thầy thử đọc cuốn sách này và nói thật
cho em biết, nhân vật giáo sư trong cuốn sách có phải là một ai đó ở ngoài đời.
Giáo sư Nguyễn Cao Đàm ( khi đó còn là phó
giáo sư) cầm cuốn sách chừng mươi ngày. Ông đọc rất kỹ, sau đó cười nói với
tôi:
- Thực ra trước khi cậu đưa sách cho mình,
mình cũng nghe vài người nói là cậu viết về ông Cẩn. Nhưng đọc xong mình thấy
giáo Nguyên ở đây không phải là ông Cẩn. Mình sống với ông Cẩn nhiều năm, mình
biết.
Giáo sư Nguyễn Cao Đàm là người chân tình,
thẳng thắn, ông chẳng việc gì phải nói xã giao cho tôi vui lòng. Ông không ghét
tôi, cũng không sợ tôi. Ý kiến của ông thực sự khách quan.
Nhưng dù sao thì sự kiện trên cũng làm cho
tôi nhiều đêm nằm hay nghĩ tới môí quan hệ giữa tôi với vợ chồng giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn. Có thể trong một số quan hệ khác, ông đã tạo ra những ấn tượng
không thật bình thường. Nhưng trong tôi hình ảnh ông là hình ảnh của một người
thầy làm cho tôi thấy thực sự vì nể. Tôi kính trọng sự lao động và tính kiên
trì tới mức phi thường của ông, đồng thời cũng có với ông những kỷ niệm đậm đà
tình nghĩa thầy trò. Có thể bây giờ lâu ngày ông không còn nhớ, nhưng tôi thì
nhớ mãi. Năm đó, chuẩn bị đón tết Mậu Ngọ, thằng con trai lớn của tôi mới ra
đời. Tuy rất bận rộn, nhưng là anh “mõ” tổ ( thư ký công đoàn), ngày giáp tết
tôi vẫn phải lọc xọc đi chiếc xe đạp tàng ra tận 32 Chợ Giời để đưa lương cho
vợ chồng giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Sau lúc chúc tết xong, tôi bỗng thấy giáo sư
Nô na Xtan kê vích đưa cho tôi một chiếc bánh chưng vuông khá to mừng tuổi cho
cháu. Tôi đang còn vô cùng ái ngại thì giáo sư Nguyễn Tài Cẩn lấy tặng tôi 4
chiếc lá dong lành lặn, rất to và 8 chiếc lạt bánh rất đẹp. Thời bây giờ no đủ,
nghĩ chuyện đó thường quá, nhưng ngày đó là thời bao cấp, chuyện đó là một tấm
lòng, là một sự quan tâm sâu sắc. Các thế hệ sau sẽ nói với tôi: “Đúng là nhà
văn có khác. Chuyện một cái bánh chưng và 4 cái lá bánh thì có gì quan trọng?”.
Nhưng nếu ai phải lo bánh tết trong những năm đó thì mới thấy chuyện này ý
nghĩa biết nhường nào. Theo phiếu cung cấp, ngày tết mỗi gia đình được mua một
bó lá dong gói bánh. Chỉ có những người thân quen hoặc là người nhà của các
nhân viên bán hàng thì mới mua nổi loại lá dong tươi, lành lặn. Còn lại đa phần
cán bộ chỉ mua được loại lá dong đã héo. Mỗi bó chỉ khoảng hai chục chiếc lá
hoặc hơn một chút, nhưng phải bỏ đi đến một nửa vì bên trong nhiều chiếc
vừa rách vừa úa. Còn gạo nếp thì mỗi cán bộ được mua nửa kg, đủ để gói một
chiếc bánh to. Đi mua gạo ngoài cửa hàng đã khó, đi mua thịt để gói bánh càng
khó hơn. Tôi nhớ, đêm 29 tết, tôi và cô Lý Hoài Thu khoa Văn học cùng chị Điểu
( cán bộ phòng hành chính), chị Huê ( giáo viên khoa Triết ) và một số cán bộ
trong khu tập thể từ 3 giờ sáng đã đạp xe ra tận cửa hàng thịt khu Kim Liên
(đây là cửa hàng có sức bán nhiều nhất) để xếp hàng mua thịt. Vậy mà đến nơi,
quầy nào cũng đã có người đến trước cả rồi. Nhiều người cẩn thận khi đi còn thủ
trong túi quần đôi, ba viên gạch chỉ, để ra đặt chỗ cho chắc. Hàng người rồng
rắn, xô đẩy nhau như sóng lượn. Mỗi đợt các nhân viên đem thịt ra là ai cũng
háo hức chờ đến lượt mình. Nhưng chỉ chừng 40 phút hay 1 tiếng là niềm tin lại
vụt tắt vì thịt chỉ bán một lúc là hết. Lại chờ đợi. Lại hy vọng. Rồi lại tắt
ngấm niềm tin. Rồi lại bừng lên niềm rạo rực phấn khích vì tưởng như sắp đến
lượt mình. Phía trước chỉ có chừng vài chục người mà đến lượt mình lâu quá.
Tưởng như phải qua chặng đường dài mấy cây số. Bởi còn bao nhiêu vé ưu tiên
chen qua. Ưu tiên người nhà, khách quen. Ưu tiên thương binh, gia đình chính
sách. Ưu tiên nhân viên bảo vệ, người quen của nhân viên bảo vệ. Ưu tiên cho
thông gia của cửa hàng trưởng...Cán bộ giảng dạy ra cái chốn này xếp hàng thì
đúng như thầy Nguyễn Văn Khoả phong cho mấy chữ tắt CBGD (cán bộ giảng dạy) là:
chó, bò, gà dê.
Mỗi lần có đợt thịt mới về, những khuôn mặt
buồn thiu, mắt đỏ ngầu vì mất ngủ lại bừng sáng như rọi vào đó ngọn đèn 500w
của Nguyễn Đức Thuận. Một trận sóng người tràn lên. Ôm nghiến. Ghì chặt. Có lúc
tôi thấy nghẹt thở. Ngoảnh lại thấy cô Lý Hoài Thu đang cố dùng hai cánh tay
xiết chặt vào sườn tôi như người chết đuối sợ mình sắp chết chìm. Đám người
phía sau chồi lền, giằng giựt. Tôi chỉ thấy đôi bàn tay người bạn đồng nghiệp,
cùng xóm chới với rồi bật khỏi vạt áo tôi với tiếng kêu thất thanh” Ối, ông Đạt
ơi...”. Nhưng tôi hoàn toàn bất lực nhìn người bạn gái loạng choạng như sắp ngã
xuống đống bùn nước lét nhét tanh tưởi ngay bên cạnh. Cuối cùng, đến ba giờ
chiều ngày ba mươi tết, tôi cũng đem được nụ cười hình thoi trên khuôn mắt
nguếch ngoác bùn đất và 5 lạng thịt về nhà chuẩn bị đón xuân. Mười tiếng đồng
hồ từ ba giờ sáng đến 3giờ chiều, không ăn sáng, không ăn trưa, chen lấn qua
bao vòng vây của trận tiền mới mua được 5 lạng thịt cung cấp. Mua được mấy cái
lá dong hay nửa cân gạo nếp cũng phải xếp hàng đến cả ngày...Vậy mà, trong một
lúc tôi được giáo sư Nô na tặng cho hẳn một chiéc bánh, được giáo sư Nguyễn Tài
Cẩn tặng cho 4 chiếc lá và lạt đủ gói hai chiếc bánh khác. Việc đó thật có ý
nghĩa vô cùng. Người nào vô tâm có thể quên. Riêng tôi thì nhớ mãi. Chẳng
những nhớ mà tôi còn kể lại cho những người thân trong gia đình nghe mỗi dịp
tết đến như một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất của thời bao cấp, của tình cảm
thầy trò , tình đồng nghiệp. Mỗi lần nghe xong, ai cũng tấm tắc:” Sao lại có
một người đàn bà Nga tâm lý thế nhỉ, tình cảm thế nhỉ? Cứ bảo người Tây họ ít
tình cảm vậy mà bà ấy lại biết cho chiếc bánh để mừng tuổi một đứa trẻ người
Việt thì quí hoá biết chừng nào!”.
Thiết tưởng, chỉ cần nghe một câu bàn luận
đó, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng thấy mình hạnh phúc biết nhường nào. Đối với
ông, bà vừa là người vợ. Vừa là người tri âm, tri kỷ. Trong cả mấy thứ tình ấy,
không phải cặp vợ chồng cũng có được.
Tất cả những ai đã từng tiếp xúc với giáo
sư Nô na Xtan kê vích đều thấy kính trọng bà không chỉ vì bà là một người mực
thước, lịch lãm, có học vấn cao mà còn tỏ rõ là người rất nhuần nhị, am hiểu
sâu sắc văn hoá Việt Nam, đồng thời cũng có những ứng xử “rất Việt Nam”. Còn
nhớ, vào khoảng năm 1993, khi gia đình giáo sư Nguyễn Tài Cẩn còn ngụ ở Xanh Pê
téc bua, một lần tôi gọi điện thoại lên thăm ông. Xa quê hương, sống trong thư
phòng đầy sách vở mà bên ngoài thì đầy tuyết trắng, mới nghe giọng người Việt
nam là ông đã mừng rỡ. Khi biết người đang nói là học trò cũ của mình thì ông
càng phấn khích đến cao độ. Ông nói với tôi đủ mọi thứ chuyện về nghiên cứu rồi
cả chuyện gần đây ông còn sáng tác thơ ca.Thế mới rõ thật là:
Bao năm tháng ẩn mình nơi xứ tuyết
Lưu luyến quê hương nặng chữ tình
80 tuổi vẫn hỳ hục viết
Cây bút già thắp sáng những bình minh.
Tôi nghe ông đọc liền một lúc cả gần chục
bài thơ mà muốn rơi nước mắt. Một người xa quê nghe thơ của một người xa quê nó
như thấu đến cả cõi lòng. Cái hồn Á Đông, cái suy tư của một trí thức hiện đại
chưa thoát hẳn tâm sự của bậc nho gia trong thơ ông làm tôi bỗng nhớ đến cha
tôi vô cùng. Ông cũng là một nhà nho. Cuộc đời ông, con người ông chứa đầy nỗi
niềm thế sự. Nghe thơ Nguyễn Tài Cẩn, tôi chạnh lòng nhớ về một quá khứ xa xăm.
Thơ Nguyễn Tài Cẩn đã thổi lên trong hồn tôi ngọn lửa, khơi lại bao kỷ niệm
thời dĩ vãng tưởng đã thành đống tro tàn.
Cuộc nói chuyện say sưa chẳng mấy lúc đã
nuốt trôi 45 phút rồi một tiếng đồng hồ. Thấy tình hình câu chuyện không có
chiều chấm dứt mà còn có xu hướng tiếp tục mở ra, giáo sư Nô na Xtan kê vích
liền ý nhị đến bên máy đề nghị cho nói chuyện với tôi. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
bị bất ngờ liền nói:
- Bây giờ cô Nô na muốn nói chuyện với ông một chút, ông cầm máy
nhé.
Giáo sư Nô na cầm máy, hỏi thăm tôi vài câu
rồi thân tình bảo:
- Anh thông cảm với thầy nhé! Thầy xa nước lâu, gặp anh thì thích quá, nói
chuyện dứt không ra.Cứ thế này thầy có thể nói liền đến chiều. Mà điện thoại
đường dài thì tốn kém lắm. Đã một tiếng đồng hồ rồi còn gì. Hôm nay anh phải
mất rất nhiều tiền rồi. Chuyện thơ của thầy thì không thể bàn qua điện thoại
được đâu. Khi nào anh rỗi, mời anh lên chơi với thầy thì tha hồ bàn luận.
Vẫn chất giọng Nghệ, chuẩn mực về ngữ pháp
như lúc giảng bài về Loại hình học các ngôn ngữ, giáo sư Nô na chào tạm biệt và
chúc tôi sức khoẻ. Lúc đó tôi rất cảm động. Cũng trong hoàn cảnh xa quê hương,
gia đình, nghe bà nói, tôi không có chút gì cảm giác nghe người nước ngoài mà
là nghe một cô giáo Việt Nam một trăm phần trăm đang nói với tôi. Đặt máy
xuống, mà tôi lại thấy hiện lên trước mắt đôi bàn tay trắng trẻo của bà đưa cho
tôi chiếc bánh chưng mừng tuổi con mình năm nào. Tôi nhớ mãi nụ cười đôn hậu,
ánh mắt trìu mến của bà với tư cách là một cô giáo mà mình đã từng được học và
sau được vinh dự làm đồng nghiệp. Tôi nhớ mãi cả lời khuyên của bà khi bước
chân vào nghiên cứu chuyên môn. Bà nhủ tôi: Nghiên cứu ngôn ngữ hiện có nhiều
quan điểm. Muốn thành nhà nghiên cứu thực sự thì đừng tham đọc nhiều theo kiểu
chạy theo người nay rồi chạy theo người kia. Nên đọc ít, đọc tập trung và xác
định theo một quan điểm, một trường phái nhất định rồi đi sâu theo cách của mình
mới có đóng góp.
Mấy chục năm sau, qua thực tế, tôi càng
thấy thấm thía lời khuyên của bà là rất chí tình.
Với tôi, văn
chương và cuộc đời là hai chuyện tách bạch, là đường biên giới khá rõ ràng.
Nhưng khi cầm bút, sự thẩm thấu của cuộc ssống đời thường và hình bóng những
người quen vào tác phẩm là chuyện khó mà tránh khỏi. Điều này, không chỉ riêng
tôi nếm trải. Trong làng văn, thời mới giải phóng miền Nam, cũng có chuyện xôn
xao. Thời đó, đất nước vừa thống nhất, nhà văn Nguyễn Khải cho công bố vở kịch “Cách
mạng” của ông. Vở kịch khi công diễn được người xem đón nhận nồng nhiệt. Nhưng
nhà văn Nguyễn Khải phải trả giá rất đắt. Ông bị người mẹ kế và các em từ bỏ,
không nhìn mặt vì hiểu lầm là đã viết xấu về gia đình...Vậy những dư luận
xung quanh cuốn tiểu thuyết của tôi và giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng là chuyện
rất thường. Chỉ có điều, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn lại không nghĩ như một số người
xăm xái “cầm đèn chạy trước ô tô”. Ông vẫn quí và nhớ tôi. Năm 2002, sau khi
cho xuất bản cuốn sách “Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá”( Nxb ĐHQG HN.2001) từ nước
Nga xa xôi, ông đã gửi tặng tôi. Tôi đã đọc rất kỹ cuốn sách này, sau đó viết
một bài về công trình này. Bài viết đăng xong, rất nhiều người đọc và tâm đắc.
Giáo sư Hoàng Trọng Phiến bắt tay tôi nói rất nồng nhiệt:
- Chú mày khá lắm, viết bài về Nguyễn Tài
Cẩn rất hay. Thế mới xứng là học trò của ổng.
Sau đó một
năm ông lại gửi tặng tôi cuốn “Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh thị 1872”
(Nxb ĐHQG HN.2001). Đây là cuốn sách nghiên cứu rất công phu của ông về
các văn bản truyện Kiều dưới con mắt của nhà ngôn ngữ học. Tôi rất thích nó nên
đọc rồi, thỉnh thoảng tôi vẫn giở ra đọc lại để tìm hiểu kỹ thêm các phương
pháp luận và thao tác nghiên cứu của ông. Có thể nói, do những hoàn cảnh riêng,
tôi không tình nguyện làm “đệ tự ruột” của ông, nhưng mãi mãi tôi vẫn là một
học trò của ông. Tôi không phải là người được ông quí nhất trong các môn đệ,
nhưng vẫn là người mà ông thỉnh thoảng muốn dốc bầu tâm sự, ít nhất là trong
lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Mặt khác, ông và tôi là khoảng cách của hai thế
hệ khá xa, không có va chạm về quyền lợi, không có xung đột gì trong cuộc sống.
Chẳng lý gì tôi đem bụng dạ mà viết xấu về ông. Những gì tôi thường nghĩ
về ông, ấy chính là trong bài viết trực diện về con người và sự nghiệp của ông
đã được đăng tải trên báo. Còn như vấn đề tiểu thuyết...đó là cái sự rắc rối
muôn đời. Trong cuộc đời cầm bút của tôi, đâu chỉ có cuốn “Phía sau giảng
đường” mà còn nhiều sự kiện khác cũng xảy ra muôn vàn rắc rối nữa. Chẳng hạn,
năm 1991, tôi cho xuất bản cuốn tiểu thuyết “ Hai đầu của bức thư tình”. Cuốn
này được hai tác giả viết bài giới thiệu ở Pháp và Mỹ thì ngay sau đó Bộ Ngoại
giao Liên xô (cũ) đã có công hàm phản đối sang Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ Việt
Nam ( thời đó chính là Bộ Công an) và tôi suýt bị trục xuất khỏi nước Nga. Ở
trong nước, cuốn sách này được trưng bày trong Triển lãm sách tổ chức tại Vân
Hồ năm 1991 trên gian sách có cái tít “Loại sách có vấn đề”. Từ năm 2001 đến
2004, tôi lại cho in một loạt các bài báo khiến cho nhiều giới chức đau đầu,
bức bối. Đó là một kiểu phong cách cầm bút cá nhân. Những chuyện đó rắc rối thế
nào, phải xem các hồi sau mới rõ.
Nay lại nói về thực chất của mối quan hệ
giữa giáo sư Nguyễn Tài Cẩn và các học trò của mình và với văn chương. Đó là câu
chuyện tinh tế, không thẻ chỉ ít dòng là có thể cắt nghĩa cho thật thấu đáo. Để
có thể thêm một góc độ nhìn nhận kỹ lại những chuyện này, xin độc giả hãy đọc
lại bài viết chúng tôi đã công bố cách đây mấy năm.
NHỮNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN
TÀI CẨN
trong “ Một số chứng tích về ngôn ngữ,
văn tự và văn hoá”
Công trình
khoa học Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn
hoá của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một công
trình khá đồ sộ được nhà xuất bản ĐHQG HN tập hợp xuất bản năm 2001.
Là một nhà nghiên cứu tài ba, có uy tín lớn
trong giới ngôn ngữ học nước ta được quốc tế biết đến, ngoài 7 công trình khoa
học có giá trị to lớn ảnh hưởng đến các khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ học ở
Việt Nam đã được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
còn cho công bố nhiều bài viết quan tâm đến ngữ văn, đến lịch sử phát triển của
tiếng Việt. Những bài viết này là những tìm kiếm và phát hiện khoa học, dù đã
được công nhận hay đang còn là vấn đề cần tiếp tục thảo luận hay phát triển thêm,
đều là những ý tưởng khoa học được hình thành từ một lối tư duy sắc sảo và từ
cách làm việc cẩn trọng, tỷ mỉ. Nó chẳng những có ích đối với các nhà nghiên
cứu, với các tầng lớp sinh viên, nghiên cứu sinh mà còn có ý nghĩa quan trọng
đối với tất cả những ai quan tâm đến sự phát triển của ngôn ngữ, văn tự và văn
hoá nước nhà.
Đặc điểm nổi
bật nhất của công trình vừa kể trên chính là sự phong phú về đề tài và tính đa
dạng trong cách viết, trong cách thể hiện. Đây cũng chính là một chứng tích nói
về phẩm chất của một nhà khoa học xã hội vừa tâm huyết với nghề, vừa có ý thức
rất rõ về tinh thần dân tộc và luôn mong đem trí tuệ khoa học để phục vụ tinh
thần ấy. Công trình là sự triển khai các mảng đề tài trong thế vừa đa dạng vừa
có những liên kết rất chặt chẽ với nhau, chứng tỏ những nỗ lực rất cao của giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn. Ông luôn đặt các vấn đề khoa học theo hướng mở và cố gắng
tìm kiếm các giải pháp để trình bày các ý tưởng của mình. Ở phương diện này,
người đọc thấy cách viết của ông luôn biến hoá, năng động chứ không máy móc,
cứng nhắc. Đây là một phương pháp tư duy khoa học sớm được hình thành ở ông.
Cho nên, ngay từ những năm 1960 ông đã luôn trăn trở và rồi trở thành một trong
các nhà ngôn ngữ học đầu tiên ở Việt Nam dám vượt qua bức tường khổng lồ của tư
tương “dĩ Âu vi trung” vốn thịnh hành khá lâu trong nghiên cứu ngữ học để
nghiên cứu tiếng Việt. Một số chứng tích về ngôn ngữ,
văn tự và văn hoá tuy là một công trình khoa học nghiêm
túc, người đọc vẫn tìm thấy sự hấp dẫn riêng, một phong cách riêng của Nguyễn
Tài Cẩn. Phong cách ấy là sự kết hợp hài hoà, hợp lý giữa tư duy khoa học có
tính hệ thống lô gích chặt chẽ với từ duy văn chương có phần khoáng đạt trong
cách trình bày. Có nghĩa là, trong quá trình bộc lộ ý tưởng khoa học, giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn luôn gắng sức tìm các cách viết, cách diễn đạt dễ hiểu nhất để
trình bày các vấn đề khoa học tưởng như khó nhất. Tiêu biểu cho cách viết này
là kiểu phong cách trình bày và luận giải vấn đề thể hiện qua các bài như: Về
tên gọi con rồng của người Việt, Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm,
Bàn thêm về vấn đề chữ Phạn trong các chùa chiền miền Bắc Việt Nam, Về một số
ván in đầu thời Lê sơ( 1434-1443) vừa phát hiện được ở Linh Tiên quán, Thử phân
định thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm,Niên đại và giá trị của bản
in Đại Việt sử ký toàn thư do GS Demiéville còn giữ lại được ở Paris,Thử
tìm hiểu thêm về bài Vũ trúngơn thuỷ của Thiệu Trị… Mặc dù đọc những bài
này, đôi khi người ta vẫn tìm thấy những câu văn có vẻ “Tây tây”, nhưng là lối
văn Tây đã được Việt hoá theo kiểu riêng của Nguyễn Tài Cẩn với những từ xuất
hiện có vẻ như là những “nét rườm” mà lại tạo ra một dấu ấn đậm đà về cá tính
của một nhà nghiên cứu lão luyện. Giọng văn nghiên cứu của ông, vì thế, không
xa rời chuẩn mực của phong cách khoa học, mà lại uyển chuyển, không đơn điệu,
khô khan hay buồn tẻ. Nói cho công bằng, không phải mấy nhà khoa học đã chọn
được lối viết dễ hiểu như ông để trình bày những vấn đề hóc búa, phức tạp. Trái
lại có không ít nhà ngữ học thường đưa người đọc vào những bát quái trận đồ của
những con chữ vốn được hình thành từ kiểu tư duy máy móc, đầy chất kinh viện
tới mức chẳng còn giữ được các chuẩn mực thông thường, chưa nói nó còn vi phạm
vào những qui tắc nghiêm ngặt của tư duy lô gích. Kết quả là, những vấn đề vốn
đơn giản, qua nhào nặn của họ, lại trở nên rắc rối khó hiểu vô cùng.
Có thể nói, sự kết hợp năng động trong
phương pháp tư duy của Nguyễn Tài Cẩn đã đem lại nhiều thành công rất độc đáo ở
ông. Nổi bật nhất về sự kết hợp này là cuộc khảo sát đầy công phu đối với một
văn bản nghệ thuật thơ ca được in dưới dạng hình tròn bát quái của Thiệu Trị.
Đó là bài “Vũ trung sơn thuỷ”. Bài thơ chứa đựng những “trò chơi kỹ sảo” tinh
vi, với số lượng từ ngữ có hạn nhưng lại tạo ra vô vàn cách kết hợp khác nhau tuỳ
theo việc người ta phát hiện ra những mối quan hệ bên trong của các từ ngữ đó
như thế nào. Nhờ sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại kết
hợp với phương pháp truyền thống, giáo sư Nguyễn Tài Cẫn đã đưa ra một giải
thuyết vừa có tính lý thuyết vừa có tính thực tế về các khả năng tối đa để đọc,
đúng hơn là, để từ một bài thơ được xếp theo hình bát quái của Thiệu Trị có thể
tạo ra 128 bài thơ khác nhau. Cụ thể, theo ông, khả năng tối đa có thể có là
đọc thành thất ngôn, ngũ ngôn đều gồm 64 bài: 32 thất ngôn bát cú, 32 thất ngôn
tứ tuyệt, 32 ngũ ngôn bát cú, 32 ngũ ngôn tứ tuyệt.
Những kết quả nghiên cứu công phu của giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn về bài thơ nói trên cũng như ngôn ngữ thơ ca cổ đại nói chung
( như thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…) cho phép coi ông không chỉ là một
nhà ngữ pháp thuần tuý mà còn là một nhà thi pháp học thực thụ, ít nhất
là trong lĩnh vực thi pháp ngôn ngữ của thơ ca cổ- trung đại Việt Nam.
Mặc dù các bài nghiên cứu của giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn rất đa dạng nhưng bao giờ ông cũng tập trung vào những cụm đề
tài nhất định và xoay quanh các vấn đề ngữ văn theo cách nhìn của một nhà ngôn
ngữ học có trình độ uyên thâm về chữ Hán. Các nghiên cứu này có loại đi sâu về
lịch sử, về ngữ âm tiếng Việt, về từ nguyên…có loại nghiêng về giải quyết các
hiện trạng còn đang phức tạp, gây ra nhiều tranh cãi. Đó là các hiện trạng
không chỉ của riêng địa hạt nào, đòi hỏi phải có cách nhìn liên ngành mới có
thể đi đến những kết luận hay những nhận định có tính khả quan. Cái mới về mặt
khoa học được thể hiện trong các bài viết được tập hợp ở công trình này
chính là việc xem xét, phân loại các hiện tượng hay thể loại văn học đều dựa
trên thực tế văn bản, trong đó ngôn ngữ là yếu tố được xem xét hàng đầu.
Người làm khoa học vừa phải có sự cần cù,
tỉ mỉ, lại vừa phải biết phát huy năng lực tư duy trừu tượng để từ các cứ liệu
tưởng chừng như đơn lẻ, rời rạc, có thể phát hiện tìm kiếm ra cái chung mang
tính qui luật phổ biến. Đọc các công trình của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, người
đọc không chỉ khâm phục mà còn học được ở ông cách thức làm việc của một nhà
khoa học thực thụ. Trong hệ thống nghiên cứu của ông, bên cạnh những bài nghiên
cứu có tầm cỡ chiến lược như: Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt, Văn
hoá chữ Hán và ngôn ngữ Việt Nam, Vai trò của các yếu tố gốc Hán trong tiếng
Việt hiện đại, Về chữ Nôm thời Quốc âm thi tập …người đọc còn
gặp cả những bài viết đi vào các vấn đề rất cụ thể, chi tiết. Đó là các bài: Về
việc dùng hai động từ “vào”, “ra” để chỉ sự di chuyển đến một địa điểm ở phía
nam hay phía bắc, Cách đọc tước hiệu “Bố cái Đại vương”. Bốn câu thơ đáng chú ý
trong tập thơ đi xứ xưa nhất hiện biết…
Những bài viết đi sâu khảo cứu văn tự ( chữ
viêt) thể hiện rất rõ tri thức, sự uyên bác về khả năng học vấn của giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn. Đây là một mảng nghiên cứu có rất nhiều phát hiện khoa học rất
đáng trân trọng của ông. Bài: Bàn thêm về vấn đề chữ Phạn trong các chùa chiền
miền Bắc Việt Nam không chỉ có ý nghĩa đối với nghiên cứu lịch sử ngữ âm
tiếng Việt mà còn gợi mở cho chúng ta biết một số vấn đề về lịch sử Phật giáo ở
Việt Nam, về giao lưu văn hoá, về bản lĩnh và áp lực của cấu trúc tiếng Việt
trong quá trình tiếp nhận các yếu tố của văn tự, văn hoá nước ngoài. Cũng
như vậy, bài: "Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm" không
chỉ thuần tuý là việc miêu tả văn tự của một ngôn ngữ ( ở đây là tiếng Việt) mà
là sự vươn xa hơn trong cách nhìn, đặt chữ Nôm trong bối cảnh của sự ra đời và
phát triển các kiểu chữ viết trên thế giới và khu vực. Ông mạnh dạn nêu lên
quan niệm cho rằng, muốn khảo sát chữ Nôm thì cần phải đặt nó bên cạnh chữ cổ
Ai Cập, chữ Hán, chữ cố Xê-mi-tích, chữ Mai-a, chữ cổ Mê-dô-pô-ta-mi. Trong khi
lý giải con đường phát triển của văn tự Nôm, ông không quên so sánh nó với một
số kiểu chữ khối vuông ở châu Á cùng nằm trong địa bàn chịu ảnh hưởng của tiếng
Hán như tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật, tiếng Choang…Để có được các bảng biểu
công phu như vậy ông phải làm cả những công việc tưởng như rất đơn giản mà lại
vô cùng quan trọng. Đó là việc đếm. Ông đếm từ một đến mười, rồi từ mười đếm
một trăm, cứ như thế trong tương quan của các con số ông lần tìm dấu vết của
những qui luật đã bị phủ mờ sau tháng năm lịch sử.
Như vậy, đọc công trình khoa học của giáo
sư Nguyễn Tài Cẩn, người đọc có thể ngược dòng thời gian trở về cội nguồn dân
tộc không phải bằng cảm giác trực quan mà bằng nhận thức khoa học trên nền tảng
của lý luận ngữ văn truyền thống kết hợp với phương pháp luận hiện đại trong
nghiên cứu ngôn ngữ. Ngoài ra, phần tư liệu khoa học với những văn bản được sưu
tầm công phu được trình bày trong cuốn sách cũng là những tài liệu rất quí. Sẽ
là thiếu sót, nếu như không nhắc đến vai trò tích cực của giao sư N.N.
Stankêvich, người đồng nghiệp thân cận và là người bạn đời của ông. Bà không
chỉ là một chuyên gia rất giỏi về tiếng Việt mà còn là một người dành cho tiếng
Việt một tình yêu thiêng liêng khiến người đọc không thể không cảm động và trân
trọng.
Về cuộc đời giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, chỉ có
lịch sử mới là người phân giải được đầy đủ và đúng đắn. Những diễn biến trong
cuộc đời cùng những vinh quang mà ông đạt được luôn gắn liền với biến cố tư
tưởng của thời đại. Nhưng dù có thế nào ông vẫn là một tấm gương sáng với tư
cách là một nhà khoa học trong tinh thần lao động nghiêm túc và bền bỉ. Ông
cũng là một người yêu nước Nga Xã hội Chủ nghĩa một cách thành tâm. Bởi thế,
luận về cuộc đời ông, đời sau mới có thơ rằng:
Một thời say đắm nước Nga
Đến lúc về già sang sống trời Âu
Tóc sương đã nhuộm kín đầu
Ai thay ông nối nhịp cầu Việt-Xô?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét