Trước cổng chính Ang Kor Thom |
Nằm ở
trong khu phức hợp quần thể Angkor Thom, Bayon được xem là ngôi đền trung tâm
của khu phức hợp Angkor Thom - hay còn gọi là thành Yaxodarapura.
Angkor
Thom, có nghĩa là "Kinh thành lớn", là thành phố kinh đô lâu dài nhất
và cũng là cuối cùng của Vương quốc Khmer được vua Jayavarman VII xây dựng vào
cuối thế kỷ thứ 12. Sau khi vua Suryavarman
II là người xây dựng Angkor Wat băng hà vào khoảng năm 1150, Campuchia rơi
vào tình trạng rối ren, vô chính phủ. Quân Chiêm
Thành nhiều lần tấn công và cuối cùng cưỡng chiếm Angkor Wat. Jayavarman
VII lúc sinh thời vốn là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần,
ông thờ ơ với mọi biến động trong đời sống. Đến 50 tuổi, thấy đất nước quá tang
thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm dày xéo, ông thấy không còn con đường nào
khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy
khốn. Năm 1181, ông dấy binh khởi nghĩa, sau ròng rã bốn năm chiến đấu, ông
đánh đuổi được Chiêm Thành ra khỏi đất nước mình, khôi phục lại thanh bình và
xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.
Nụ cười Ang Kor |
Để
thực hiện sự nghiệp giải phóng đất nước, trước khi lên ngôi Jayavarman VII bắt
đầu xây dựng lại quân đội, rồi tiến hành nhiều cuộc phản công, trong đó có một
trận hải chiến oanh liệu miêu tả trên bức tường đá chạm nổi ở các đền Bayon và Bantay Chrma. Sau khi hoà bình
được lập lại Jayavarman VII lên ngôi, lúc này ông khoảng 50 tuổi. Ông liền bắt
tay vào việc khôi phục lại kinh đô và cho xây dựng ở đây một khu thành mới gọi
là thành Yaxôdarapura.
"Buổi lễ đăng quang của vua Jayaraman VII tổ chức
năm 1181, bốn năm sau ngày thất thủ kinh đô, kinh thành Yaxodarapura giống như
một cô thiếu nữ hiền hậu, xứng dôi vừa lứa với người yêu của mình, nhiệt tình
và say đắm, được trang trí bằng một toà lâu đài dát vàng ngọc với những dãy
thành quách bao bọc như một dãi lụa che thân: cô thiếu nữ đó được nhà vua cưới để
tạo ra hạnh phúc cho muôn loài trong một buổi lễ huy hoàng, dưới đài vinh quang
sáng chói ".
Bản văn bia ghi lại lễ đăng
quang của nhà vua
Khu
đền Bayon nằm ở trung tâm Angkor Thom, cách cổng thành khoảng 1 cây số rưởi.
Bayon là khu đền súc tích với những trang trí chạm khắc bằng đá đẹp đẽ. Được
xây dựng trong khoảng cuối thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ thứ 13 như là đền chính
thức của vua Jayavarman VII, tin theo Phật giáo Đại thừa khác với tín ngưỡng Ân Độ giáo như các vua trước
nhưng vẫn theo truyền thống vua thần (devaraja). Vua Jayavarman VII cải
giáo sang Đại thừa vì các vua đời trước nối nghiệp vua Suryavarman II theo Ấn
Độ giáo, người xây dựng Angkor Wat đã để quân Chiêm Thành đánh bại. Sau khi
Jayavarman VII chết, những vua nối tiếp với tín ngưỡng khác nhau như Ấn Độ
giáo, Phật giáo Nguyên thủy, đã xây thêm cho ngôi đền dựa theo
tín ngưỡng của mình.
Điện thờ trong Bayon |
"...Đặc biệt vào những đêm trăng, người ta có cảm
tưởng như đang viếng một ngôi đền thuộc một thế giới khác ... Người ta cảm giác
như mình đang sống trở lại với một thời đại của những chuyện thần tiên, lúc mà thần Indra xây dựng một đền thờ
dành cho đám cưới của con trai mình lấy con gái của vua rắn Nagas nhiều
đầu".
Cấu
trúc của Bayon gồm ba tầng mà cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn
ngang khắp nơi. Hai tầng dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù
điêu trên tường. Tầng ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt
đá có hình khuôn mặt. Dãy hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với
11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên tường đá chạy dài 1200 mét, một tổng hợp
liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu tả cảnh diễn hành của vua và
hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman VII với Chiêm Thành bằng cả thủy
lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền văn
minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường công trình vẫn còn dở
dang, chỉ còn để lại nét phát họa. Có lẽ bị bỏ dở khi vua Jayavarman VII qua
đời. Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm
bằng đá tảng, chạm khắc thành 2, 3 và chung chung là 4 khuôn mặt nhìn bốn
hướng. Kiến trúc của Bayon được xem như có phong cách của trường phái baroque, trong
khi Angkor thuộc phái cổ điển. Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở
trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến
nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua. Người khác
thì cho là của Quán Âm Bồ Tát (Avalokitesvara hay Lokesvara). Nhà học giả
chuyên về Angkor học Coedes thì lý luận rằng Jayavarman
VII theo truyền thống của các vua Khmer tự cho mình là vua thần (devaraja),
khác với các vua trước theo Ấn Độ giáo tự cho mình là hình ảnh của thần Shiva, trong khi
Jayavarman VII là một Phật tử nên cho hình ảnh Phật và Bồ tát
là chính mình. Có tất cả 37 tháp đền đá tạc hình nhiều khuôn mặt nhìn xuống và
nhìn đi bốn hướng như thể quan sát chúng sanh và che chở cho đất nước. Bên
trong đền có hai dãy hành lang đồng tâm ở tầng dưới, và một dãy ở tầng trên.
Tất cả nằm dồn lại với nhau trong một không gian hạn hẹp bề 140 m và bề 160 m,
trong khi phần chính của ngôi đền nằm ở tầng trên lại còn hẹp hơn với kích
thước 70 m × 80 m; khác với Angkor Wat, người ta phải trầm trồ với qui mô to lớn và
thoáng rộng của nó. Từ xa nhìn vào Bayon rải dài theo chiều ngang như một đống
đá lổn chổn muốn vươn lên trời cao. Các tháp có kích cỡ cao thấp khác nhau, có
tháp thật thấp khiến khuôn mặt như nhìn thắng vào mắt của du khách. Đi theo
những lối đi quanh co, người ta có cảm giác như đi lạc vào một mê trận. Bất cứ
rẽ vào lối nào du khách cũng trực diện với những đôi mắt đang chăm chú nhìn
mình. Trong số hằng trăm ngôi đền nơi quần thể Angkor, Bayon khiến cho các nhà
khảo cổ thắc mắc nhiều nhất. Bayon hiện vẫn bao trùm nhiều bí ẩn mà lời giải
đáp vẫn đang còn được tranh cãi: nó được xây với biểu tượng gì, để thờ ai? Có
lẽ thích hợp với lời giải thích nhất vẫn là khuôn mặt với nụ cười hết sức bí ẩn
nằm ở tháp trung tâm. Một số dân Khmer cho rằng Bayon được xây dựng vào thời
vương quốc này được chia thành 54 tỉnh, những đôi mắt của những bức tượng này
nhìn về phía muôn dân trong các tỉnh đó để cứu độ (dưới hình ảnh Quán Âm bồ
tát), để che chở (dưới hình ảnh của vua Jayavarman VII). Thoạt đầu vào năm
1929, Robert J. Casey trong cuốn
sách về Angkor nhan đề In Fact cho rằng những khuôn mặt đá là những
khuôn mặt của thần Siva thuộc Ấn Độ giáo. Thế rồi trong thập niên 1930, các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ khám phá ra rằng cái
mô-típ ấy thuộc bên Phật giáo Đại thừa mà những hình ảnh bốn mặt đó là của Quán Thế Âm (Avalokitesvara). Họ lý luận rằng theo Đại
thừa, bồ tát là người đã hoàn toàn giác ngộ để đạt thành Phật. Thay vì nhập Niết
bàn, họ chọn ở lại trần gian để cứu độ những kẻ đang bị trầm luân trong khổ
ải. Qua nụ cười bí ẩn của các khuôn mặt, vị bồ tát mà dân Campuchia gọi là
Lokesvara đang tỏ lòng thương cảm trước nỗi đau của chúng sinh. Đồng thời có
thuyết cho rằng vua Jayavarman VII tự cho mình hiển thị qua hình ảnh của
Lokesvara, một vị Phật sống qua vai trò của một vị vua thần. Nhìn ngược về lịch
sử, chiến thắng bất ngờ của vua Jayavarman VII dành lại độc lập cho xứ sở từ
Chiêm Thành đã chiếm được trái tim của mọi con dân Khmer. Sau khi đánh bại quân
Chiêm Thành, ông thôn tính luôn nước Chiêm Thành và mở rộng lãnh thổ trải dài
khắp vùng Đông Nam Á. Những tháp với bốn khuôn mặt nhìn ra bốn
hướng có lẽ để làm e dè những kẻ đến chiêm bái ở đền Bayon. Nhìn đâu họ cũng
thấy những đôi mắt của vị vua thần đang chằm chằm nhìn họ. Đồng thời những kẻ
sùng bái thần phục lòng thương yêu của vị vua dành cho họ qua những hình ảnh
trên những bức phù điêu mô tả đời sống thường nhật của dân chúng. Ngoài ra còn
những bức miêu tả công lao đánh đuổi ngoại xâm Chiêm Thành nhắc nhở với thần
dân rằng họ mang ơn vô vàn đối với vị vua thần đầy nhân ái, kẻ đã xả thân lưu
lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Jayavarman VII còn có công xây dựng vô
số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.
"....Ngài cảm nhận được nỗi khổ của tha nhân
hơn của chính mình bởi nỗi khổ của kẻ khác tức là nỗi khổ của ngài, sự đau khổ
của thần dân còn lớn hơn nỗi khổ của chính ngài nữa. Chính là vì muốn giải
thoát loài người ra biển khổ mà trẫm có ý định trở thành Phật ".
Cột chỉ cầu may |
Nhiều
đền chùa khác được xây dựng ở các tỉnh xa xôi: đền Wat Norko ở Kompong Cham, đền Ta Prom ở Bati và rất nhiều đền khác tại Lopburi, Ratburi, Phetchaburi,
Muong Sen... tất cả đền nằm trên
đất Thái
Lan ngày nay. Trong những công trình kiến trúc quy mô đó, tập trung nhiều
nhất ở kinh thành Angkor Thom và vùng phụ cận. Đó là một kinh thành với những
bức tường thành dài 12 km, những hào sâu bao bọc, những cổng lớn hướng về
bốn phương trời và đền Bayon ở trung tâm; đó là đền Banteay
Kdei, đền Ta Prhom, đền Neak Pean,
đền Preah
Khan, được coi là những viên ngọc của nghệ thuật kiến trúc Khmer. Ở đây người ta không thờ vua-thần
với những tượng linga
bằng vàng như dưới các đời vua trước, mà người ta thờ pho tượng Jayavarman VII
khổng lồ bằng đá dưới dạng Quan Âm Bồ Tát. Phía Đông Angkor Thom còn có các đền
Banteay
Kdei bên cạnh hồ Sras Srang, đền Ta Prom thờ tượng bà hoàng thái hậu,
tượng vị cao tăng thầy học của nhà vua cùng với trên 260 pho tượng khác. Ở phía
bắc Angkor Thom có đền Prei Khan thờ tượng vua chúa,
trong đó người ta tìm thấy bia đã nói trên đây tường thuật lại buổi lễ đang
quang cũng như những công trình xây dựng đường sá và bệnh viện của nhà vua.
·
54 cột cao thể hiện 54 tỉnh của Campuchia lúc
bấy giờ - và chỉ còn 24 tỉnh ngày nay. Điêu khắc mỗi cột là tượng bồ tát 4 mặt,
như vậy có đến 214 khuôn mặt tất cả trong đền Bayon
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét