Sưu tầm viết lại.
Lời “ráo” đầu
Ông anh tôi là đồng chí Trần
Khốt, trước có công tác ở Ban Tuyên ráo Trung ương, thời Hòa thượng Tố Không là
Phương trượng, nên cũng đã thu thập được nhiều chuyên dân gian và đã kể hầu các
bạn trong bài “Tiếu lâm
chính trị (Việt Nam, năm 1980)”. Những chuyện này, theo như anh ấy nói, thì
là nghe qua bác sĩ Lương Nhân. Phần lớn những câu chuyện này có xuất xứ từ Hà Nội,
khi vào đến Sài Gòn có phần nào đã thay đổi ít nhiều. Hôm qua tôi lục tay nải,
tìm thấy một cuốn sổ tay của anh ấy, gián nhấm cũng nhiều chỗ rồi, chữ mất chữ
không.
Bây giờ tôi lại “theo bước
đàn anh ta đi lên”, ráng chép lại hầu chư vị. Truyện nào trùng thì tôi bỏ,
truyện nào có biến thể thì tôi lưu.
Cũng thế
Sinh viên thời ấy, ngoài
chuyện học hành, lên lớp, thỉnh thoảng còn bị lôi cổ đi biểu tình. Biểu tình
chống cái gì? Thì đại khái là biểu tình chống Mỹ, hoặc biểu tình kỷ niệm ngày
Lao động Quốc tế mồng 1 tháng Năm, ngày Quốc khánh mồng 2 tháng 9 v. v…
Thường thường thì mỗi khoa có
một, hai thầy cô đi kèm, sinh viên thì xếp hàng hai đi theo lớp, lớp trưởng
(thường là bí thư chi bộ) thì đi ngoài hàng để hô khẩu hiệu cho anh em hô theo.
Hôm đó, sau khi đi một vòng
từ trường ra đến bến xe điện Cầu Giấy (khoảng hai, ba cây số) rồi quay về, vừa
đi vừa hô khẩu hiệu. Gần về đến trường, anh trưởng lớp hô: “Đảng Lao động Việt
Nam muôn năm!”.
Anh em vừa giơ nắm tay, vừa
hô theo ba lần:
“Muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!”
Anh trưởng lớp hô tiếp: “Hồ
Chủ tịch cũng thế!”
Cả lũ mặt nghệt ra, tình
huống này chưa bao giờ có, không ai biết là phải hô theo như thế nào. Anh này
không biết là vô tình hay cố ý, nhưng chắc chắn là lại có điều gì “bất mãn”
đây, chí ít thì cũng đã uống cả vỉ “thuốc liều”.
Vừa về đến trường, anh em
chuẩn bị giải tán thì đã có xe com-măng-ca đít vuông của bên công an tới đón
trưởng lớp đi.
Chuyện anh Ba
Một hôm có một ông già tới
trước cửa số 6 Hoàng Diệu, gặp cảnh vệ gác cửa xin vào gặp anh Ba. Cảnh vệ hỏi
ông là ai, đến có việc gì? Ông già bảo: “Chú cứ việc vào báo anh Ba, có tôi là
bạn học cũ tới thăm anh ấy”.
Cậu cảnh vệ lúng túng nhưng
rồi cũng bảo: “Thế bác chờ một tí nhé, để cháu gọi thư ký anh Ba ra mời bác
vào.” (Thế là đã đẩy khéo được quả bóng sang sân thằng khác).
Thư ký ra, thấy ông già phúc
hậu, phương phi, đi giầy Tây, mặc bộ đại cán Tôn Trung Sơn, lại nói giọng Quảng
Trị thì vội vàng mời ông vào phòng khách. Mời khách an toạ, chạy đi pha ấm trà
Hồng Đào, bóc gói thuốc Thủ đô, rồi anh thư ký nhẹ nhàng hỏi:
- Dạ, thưa bác, xin phép bác
cho cháu được biết quý danh để cháu vào báo cáo với anh Ba.
- Chú cứ nói với ảnh có tôi
là bạn học cũ hồi xưa là ảnh biết liền.
Thư ký nghĩ bụng, ông già này
chơi khó mình, anh Ba thì bận nhiều việc, lịch dày đặc, đâu có phải lúc nào
cũng bỏ việc ra tiếp khách được đâu, mà không báo thì sau này anh Ba biết, anh
ấy lại tát cho “ù tai”. Giờ anh Ba đã ngoài bẩy mươi, bạn học có còn thì được
mấy người, hẳn là anh Ba quý lắm. Nhưng nếu không phải thì sao? Cũng “bỏ mẹ”!
Thế rồi “cái khó ló cái
khôn”, anh thư ký gọi điện thoại sang Cục Bảo vệ, xin gặp Cục trưởng. Cho gặp
hay không cho gặp thì tội đâu ông này chịu. (Lại đẩy được quả bóng sang sân
khác). Bên Cục Bảo vệ họ nắm vững lý lịch của từng cán bộ, vậy gọi sang
bên ấy thì “chắc ăn như bắp”.
Cục trưởng cầm máy, thư ký
anh Ba báo cáo lại tình hình và xin chỉ thị.
Vừa mới nói đến ông già này
là bạn học anh Ba ngày xưa, Cục trưởng quát vào điện thoại:
- Trói cổ thằng ấy lại! Thằng
ấy nó nói láo đấy! Anh Ba làm đ… gì có bạn học, anh ấy có đi học bao giờ đâu!
Óc anh Ba
Hôm đó anh Ba dẫn Đoàn đại
biểu Đảng Cộng sản Cuba đi viếng lăng Bác. Gần tới nơi thì anh Ba tinh mắt phát
hiện ra một đống thằng nào mới bậy ra gần cửa Lăng. Hàng ngày anh Ba vẫn chịu
khó tập thể dục thể thao, chạy nhảy bơi bắn anh Ba tập tuốt, nhưng có một môn
giỏi hơn cả, ấy là môm ném đĩa. Rất bực mình vì một lũ cảnh vệ ăn hại, nhưng
vốn nhanh trí, anh Ba lấy cái mũ kê-pi trên đầu, lia một phát, chụp ngay lấy
cái chỗ cần che. Vậy là êm.
Cuộc viếng Lăng diễn ra bình
thường, nhưng về đến nhà, anh Ba vẫn còn giận. Anh cho gọi thư ký lẫn cảnh vệ
lên dặn: “Này, bất cứ ai hỏi thì cũng nói là tôi không có nhà nhé, kể cả điện
thoại cũng vậy!”
Ngày hôm ấy không ai gặp được
hay điện thoại được với anh Ba. Họ kêu ca với Bộ trưởng Nội vụ (tức là Bộ Công
an). Sau khi suy nghĩ tính toán, Bộ trưởng Nội vụ đưa ra kết luận: “Chắc chắn
anh Ba bị bọn bành trướng hay bọn đế quốc bắt cóc. Ngày hôm nay, trong lịch
trình của anh không thấy ghi cuộc họp nào, hay tiếp khách nào.” Lệnh truyền
xuống cho các Sở, Ty Công an trên toàn quốc phải xếp hết mọi việc lại để đi tìm
anh Ba ngay lập tức. Đồng chí nào tìm ra anh Ba sẽ có thưởng to.
May sao vừa lúc đó, một chiến
sĩ trẻ trong đội Cảnh vệ gác lăng phát hiện ra chiếc mũ của anh Ba và gọi thủ
trưởng đến: “Anh Ba đã bị giết hại rồi! Đây là mũ của anh Ba, bọn chúng đã đánh
anh Ba phọt óc ra rồi đây này!”
Cứu anh Ba
Đồ Sơn ngày ấy chia làm ba
khu. Đi từ ngoài vào trong thì khu 1 dành cho nhân dân với cán bộ, công nhân
viên, khu 2 dành cho cán bộ trung cấp, khu 3 dành cho chuyên gia các nước bạn
và Trung ương. Thật ra thì khu hai đẹp nhất, ít đá, ít hà. Từ Hà Nội xuống chỉ
có hơn 110 cây số, xe con chạy chỉ độ hơn một tiếng là đến nơi, nên cuối tuần
các vị “tai to mặt rỗ” thường về đây nghỉ.
Hôm ấy, sau cả tuần họp hành
liên miên, Tổng Bí thư quyết định đi Đồ Sơn nghỉ để thư giãn. Tới nơi, giời thì
nóng nực, biển thì bọt tung
trắng xóa và gió về bay tỏa nơi nơi, anh Ba cởi quần áo (tất nhiên là vẫn
còn cái quần xà lỏn) nhảy ùm xuống biển, bơi một chập. Thật là đã quá đã!
Nào ngờ, vì không khởi động
trước, anh Ba bị chuột rút. Sóng cứ kéo anh Ba ra ngoài xa. May mà gần đấy lại
có chiếc thuyền của dân chài địa phương, một thanh niên vội nhảy xuống bơi ra,
túm được tóc người bị nạn rồi lôi vào bờ. Sau chừng mươi phút làm hô hấp nhân
tạo, anh Ba hồi tỉnh. Nhìn người cứu mình với ánh mắt biết ơn, anh hỏi nhẹ
nhàng:
- Dạ thưa bác, cháu là dân
chài ở đây.
- Thế bây giờ cháu muốn gì,
cứ nói cho bác biết. Bác có thể giúp cháu!
- Dạ thưa bác, cháu thấy bác
bị nạn thì cháu cứu thôi, chứ có gì đâu ạ.
- Cháu cứ nói đi, cháu muốn
gì?
- Thưa bác, cháu không đòi
hỏi gì ạ!
- Thế cháu có biết bác là ai
không?
- Dạ thưa bác, cháu không
biết ạ.
- Bác nói cho cháu biết nhé,
bác là bác Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng.
- Dạ dạ, thưa bác. Nếu thế
thì cháu chỉ xin bác một điều duy nhất ạ.
- Cháu cứ nói, bác sẽ giúp
cháu, vì cháu đã cứu bác.
- Thưa bác, cháu xin bác đừng
kể với ai là cháu đã cứu bác!
- Nếu người ta biết thì người
ta đập chết, mà cháu có sống thì cũng không làm gì được mà ăn!
Phụ lục
Bạn nào chưa đi Đồ Sơn thì
cũng nên đi cho biết. Gần đây Đồ Sơn được xếp hạng là “kỳ quan thứ tám… tám”
của thế giới theo sự bình chọn của Hãng Thông tấn “ù ù cạc cạc”. Để cổ động
khách du lịch tới thăm bãi biển này, trên đường từ Hải Phòng ra Đồ Sơn, Sở Văn
hóa Hải Phòng đã cho kẻ pa-nô lớn, chữ rất to:
Không đi không biết Đồ Sơn,
Có đi mới biết không hơn… đồ nhà,
Nhưng là đồ thật, không là… Đồ Sơn!
Tiến thêm bước nữa
Cụ Tôn Đức Thắng mất. Xuống
đến âm phủ, cụ lại gặp Bác Hồ. Bác hỏi:
- Cụ này, tình hình trên đó
thế nào? Có còn “thiên tai, địch hoạ” nữa không?
- Vưỡn, khó khăn còn nhiều,
nhưng xấp nhỏ vẫn ráng lo thực hiện di chúc của Cụ.
- Thế tụi nó thực hiện tới
đâu rồi?
- Mới được có một phần ba.
- Thì Cụ để lại chín chữ
“Không có gì quý hơn Độc lập Tự do”, họ thực hiện được một phần ba, tức là
“không có gì”!
Ít năm sau, đồng chí Phạm
Hùng, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ lại ra đi (nghe đồn là bị thượng
mã phong). Xuống tới nơi lại gặp Bác. Bác hỏi:
- Thế tình hình thực hiện di
chúc của Bác các chú đã làm tới đâu rồi?
- Dạ, dạ, việc thực hiện Di
chúc Bác thì chúng cháu vẫn tiến hành đều đều, đến nay đã tiến thêm được một
bước nữa.
- Thêm một bước nữa nghĩa là
thế nào?
- Dạ, thêm một bước nữa nghĩa
là “không có gì… quý”, nghĩa là toàn đồ tầm tầm, xài không được ạ!?
Bà con Sài Gòn kháo nhau câu
chuyện dưới đây, thực hư thế nào không biết, tôi chỉ sao y bản chính thôi:
Ông Nguyễn Khắc Viện ốm nặng,
lần này thì khó qua khỏi. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nghe tin nên đến thăm, thái
độ rất trọng thị, vì dù sao thì ông Viện cũng là bậc đàn anh lão thành cách
mệnh, đặc đẳng công thần, thành tích đóng góp trong phong trào Việt kiều yêu
nước bên Pháp là rất lớn. Sau khi Lê Khả Phiêu ra về, ông Viện gọi vợ (bà Nhất)
đến bên giường, ân cần nắm tay vợ khẽ nói:
- Bây giờ Tổng Bí thư đã đến
thăm, mình mà không chết thì cũng… kỳ!
Anh hùng Tô Vĩnh Diện
Nhân ngày 22 tháng 12, ngày
Truyền thống, kỷ niệm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, cô giáo dẫn học
sinh đi tham quan Bảo tàng Quân đội.
Trong Bảo tàng có rất nhiều
chân dung các vị tướng lĩnh tài ba đã dẫn dắt quân đội ta đánh thắng hai đế
quốc to. Ngoài ra còn có chân dung các anh hùng, liệt sĩ: nào Bế Văn Đàn lấy
thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, La Văn Cầu nhờ đồng đội
chặt giúp cánh tay bị thương để tiếp tục xông lên, rồi Nguyễn Thị Chiên, Mạc
Thị Bưởi, Nguyễn Quốc Trị v.v… cho đến các anh hùng thời chống Mỹ sau này như
Nguyễn Viết Xuân, Trừ Văn Thố,…
Dưới ảnh các anh hùng, ngoài
một ít dòng tiểu sử còn có các câu nói nổi tiếng mà sau này trở thành khẩu hiệu
cho toàn quân học tập. Chẳng hạn, anh hùng Nguyễn Viết Xuân, chính trị viên đại
đội pháo cao xạ, mặc dù máy bay Mỹ bắn bị thương, sắp hy sinh vẫn kiên cường
chỉ huy đồng đội tiếp tục chiến đấu. Trước khi chết anh vẫn hô: “Các đồng chí,
hãy nhằm thẳng mặt quân thù, bắn!” Câu nói đó đã nổi tiếng một thời.
Khi tới trước ảnh anh hùng Tô
Vĩnh Diện thì thấy ngoài tiểu sử không có ghi câu nói nào cả. (Anh hùng Tô Vĩnh
Diện là người đã lấy thân mình chèn lưng cứu pháo). Cô giáo thắc mắc mới hỏi
người thuyết minh:
- Sao ở đây lại bỏ trống mà
không thấy có khẩu hiệu gì hở chị?
- Thế trước khi hy sinh anh
ấy có hô gì không?
- Anh ấy không hô nhưng mà có
nói to.
- Anh ấy bảo: Đ. m. thằng nào
dẩy tao đấy! Nói xong thì hy sinh.
Anh hùng Phạm Tuân
Thiếu tá Phạm Tuân là phi
công Việt Nam đầu tiên được lựa chọn để cùng bay với phi hành gia Nga Gorbatko
lên vũ trụ. Tất nhiên Gorbatko là chỉ huy trưởng, Tuân chỉ được ngồi quan sát
chứ không được lái.
Sau khi ngồi lái cả ngày, đến
đêm Gorbatko bảo Tuân:
- Mày cầm lái tí nhé, tao đi
đái một cái rồi vào ngay. Nhưng mà cứ giữ nguyên thế chứ đừng có vặn vẹo gì mà
chết đấy!
Năm phút sau, Gorbatko trở về
chui vào khoang lái, thở phào nhẹ nhõm, mặt mày tươi tỉnh. Tuân hỏi:
- Ông đi đái vào chỗ nào vậy?
- Ôi dào, đang mót đái cứng
cả bụng, tao cứ thấy chỗ nào tôi tối là tao phang bừa xuống.
- Thôi chết rồi! Thế thì ông
đái vào Thủ đô Hà Nội của chúng tôi rồi!
(Bấy giờ là năm 1980.
Chiến tranh đã hết nhưng Hà Nội ban đêm bị cắt điện liên tục.)
Hoàn thành chuyến bay vào vũ
trụ cùng Gorbatko, từ Mạc Tư Khoa anh Tuân được đưa về Hà Nội để báo cáo thành
tích với Trung ương. Bên nhà, Trung ương cũng cho com-măng-ca về đón mẹ của
Tuân từ Thái Bình lên sân bay Gia Lâm.
Vừa trông thấy con từ trên
tầu bay bước xuống, bà cụ mừng quá, thấy con vẫn sống sót, mạnh khoẻ về được
đến nhà, nước mắt cứ trào ra dàn dụa. Sau khi bắt tay và chào hỏi các đồng chí
lãnh đạo, Tuân trông thấy mẹ, vội chay lại ôm chầm lấy cụ. Bà cụ giọt vắn giọt
dài, ghé tai con nói nhỏ:
- Sao không xin gạo, xin
mỳ,
Xin lên vũ trụ làm gì hở
Tuân?
Sau khi xong việc báo cáo
thành tích ở Hà Nội, trên cấp cho Tuân một cái xe con để về quê thăm nhà. Chạy
từ Hà Nội, qua Hà Nam, Nam Định, rồi rẽ về Thái Bình thì chả sao, xe cứ chạy
phăm phăm. Gần về đến làng, còn cách chừng hai cây số thì đường huyện lại bị
một con mương nhỏ đào cắt ngang. Chả là hợp tác xã đang cần nước tưới nên cứ
đào đại đi, xong việc rồi lấp sau. Xe ô tô không qua được.
Vừa lúc ấy có một anh thanh
niên đi xe đạp tới đó. Anh này xuống xe, xắn quần cao lên đến bẹn, luồn vai vào
chiếc gióng ngang của xe, vác lên vai rồi lội qua con mương hẹp. Tuân vội vàng
chạy theo năn nỉ:
- Này anh gì ơi, anh làm ơn
cho tôi đi nhờ về xã Quyết Tiến được không?
Sang đến bên kia mương, anh
thanh niên mới quay lại giả nhời:
- Thôi anh thông cảm, săm lốp
bây giờ phân phối, khó mua lắm, giá chợ đen thì lại rất cao. Tôi không
giúp anh được đâu.
- Mẹ kiếp, ông đi nhờ lên vũ
trụ còn được, huống chi từ đây về Quyết Tiến còn có hai cây mà mày không cho
ông đi nhờ!
Ai lại kêu?
Trên một chuyến tàu điện, một
cha tuổi tác đã ngoài “băm” rồi nhưng phong độ vẫn còn “hừng hực” lắm, lại
ngồi sát một em sồn sồn vì tàu quá đông. Chật quá nên tay cứ ngọ
nguậy hoài. Sau cùng cha cũng tìm ra được một chỗ hợp lý nhất và… thọc tay vào
đó.
- Tôi… làm ở ban Bình dân học
vụ.
- Tôi có xin thôi nhưng người
ta không cho thôi!
- Kêu làm gì! Bây giờ Việt
Nam Dân Chủ Cộng hòa ai lại kêu?
Đệ tứ quyền
Ngày ấy học sinh lớp 8 đã
được học môn chính trị. Môn này dạy cho các em biết thế nào là Hiến pháp và cơ
cấu của Nhà nước ta. Ở trường Nguyễn Ái Quốc, tức là trường Đảng cao cấp, thì
chắc là thầy trò còn dạy nhau nhiều môn “ác liệt” hơn nhiều.
Tại trường Đảng, trong giờ
học, một học sinh giơ tay xin hỏi:
- Thưa thầy, thế nào là Đệ tứ
quyền ạ?
- À, à, cái này là bọn tư bản
ở các nước phương Tây bịa ra, ý muốn nói tới cái quyền của báo chí. Nó cũng to
như ba cái quyền kia. Ra cái điều là mình có dân chủ đây.
- Thưa thầy, thế ba cái quyền
kia là những quyền gì?
- Là Lập pháp, Hành pháp và
Tư pháp.
- Thưa thầy, em lại nghe nói
là “Tam quyền phân lập” thì nghĩa là thế nào?
- À, à,… đại loại nó là như
thế này, tôi dùng hình ảnh cho dễ hiểu nhé: là anh nào chỉ được thò tay vào
trong quần anh ấy, chứ không được thò tay vào túi quần anh khác mà bóp lung
tung.
- Bây giờ thì em hiểu rồi.
Cám ơn thầy. Thế ở ta không có Đệ tứ quyền hở thầy?
- Có chứ!… Ơ! Thế anh không
đọc giáo trình à? Chế độ ta còn triệu lần dân chủ hơn, nên ta có văn bản pháp
quy đàng hoàng, chứ không phải chỉ có nói mồm như bọn tư bản xấu xa.
- Nó là cái… Viện Kiểm sát
Nhân dân đấy!
Adam và Eva
- Adam và Eva là người nước
nào ấy nhỉ?
- Cậu không biết thật à?
Người nước Việt Nam chứ còn nước nào!
- Này nhé: Nhà thì chẳng có,
phải ở dưới gốc cây, quần áo cũng không, ăn thì hai người mới có một quả táo mà
cứ nghĩ là mình đang ở trên thiên đường.
Chuyện nghệ sĩ
Thuở ấy, chưa có lắm các đoàn
biểu diễn mang tên “Nhà hát” như sau này. Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương
(còn gọi là Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương) là một thứ “hẩu lốn”, đủ hết các
bộ môn nghệ thuật biểu diễn: nào các ca sĩ như Trần Hiếu, Quốc Hương, Ngọc Dậu,
Khánh Vân…, các “vũ” sĩ như Xuân Quỳnh, Thuý Quỳnh…, các nhạc sĩ Nguyễn Tài
Tuệ, La Thăng, Trọng Bằng…, các xếp là những nhạc sĩ cỡ “nhớn” như Nguyễn Văn
Thương, Nguyễn Xuân Khoát… rồi các nhạc công như nghệ sĩ violon Khắc Huề… và
tất nhiên còn một đội ngũ đông đảo những người phục vụ sau sân khấu (gọi là hậu
đài) rồi nhà kho, nhà bếp, cấp dưỡng v.v… Tuy chung một mái nhà nhưng mỗi nhóm
nghệ sĩ lại có những đặc điểm riêng do thói quen sinh hoạt của họ khác nhau,
thành ra trong Khu Văn công Cầu Giấy (mãi sau này mới có Khu Văn công Mai Dịch)
có một câu vè được lưu truyền là:
Ăn như vũ,
Ngủ như ca,
La cà như nhạc,
Bạc nhạc như hành chính,
Lính quýnh như hậu đài,
Nói dai như lãnh đạo.
*
Đoàn nhạc Giao hưởng Hợp
xướng có lần đi biểu diễn ở tỉnh nọ.
Anh hoạ sĩ vẽ quảng cáo của
tỉnh chả biết có định chơi xỏ hay không nhưng anh ấy viết thế này lên hai bên
cánh cửa ra vào của nhà hát: Tối nay Đoàn Giao hưởng Hợp xướng về đây biểu
diễn. Khổ nỗi chữ Giao thì bên cánh cửa trái, chữ hưởng thì bên cánh phải, chữ Hợp thì cánh trái rồi chữ xướng lại cánh phải.
Bà con đi qua lại đọc thành: Tối nay Đoàn Giao hợp hưởng sướng
về đây biểu diễn.
*
Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát,
nguyên Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, bậc tiền bối trong làng nhạc mới
(nhạc phương Tây), nổi tiếng với bài “Tiếng chuông Nhà thờ” (1949), một trong
số rất hiếm hoi những nhạc sĩ đi theo kháng chiến mà gia đình theo Thiên chúa giáo,
cũng có thể gọi cụ là đàn anh của các nhạc sĩ Phạm Duy, Văn Cao. Về già cụ có
tâm sự với một vài người bạn thân (lúc này vụ Nhân
văn – Giai phẩm đã qua lâu
rồi):
- Cứ bảo cộng sản nó “vắt
chanh bỏ vỏ”, không phải đâu! Nói thế là quá đáng. Thật ra nó gọt vỏ còn chưa
sạch nữa kia!
Nhà văn Nguyễn Tuân thường
được Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời ăn cơm. Một hôm ông Đồng hỏi cụ Nguyễn:
- Này, anh Tuân này, bây giờ
anh cũng đã cao tuổi, có chuyện gì anh lo ngại thì anh cứ cho tôi biết, may ra
tôi có thể giúp anh được gì chăng.
- Bây giờ thì tôi cũng chả sợ
gì. Tôi chỉ sợ nhất là bà nhà tôi mà mất trước tôi thì…
- Bà ấy mà mất trước tôi thì
tôi không biết cái nào là phiếu nước mắm, cái nào là phiếu đậu phụ, cái nào là
phiếu mùn cưa,… Ôi chao, nhiều thứ tem phiếu quá!
Nhà tập thể không… hố
xí
Thời ấy Hà Nội đang cho xây
hàng loạt nhà tập thể để giải quyết chỗ ở cho cán bộ, công nhân viên. Bên A là
cơ quan chủ quản, bên B là bên công ty xây dựng (cũng thuộc về Nhà nước cả)
Tới ngày nghiệm thu một khu
nhà 5 tầng mới hoàn thành, bên A cử cán bộ tới xem xét, có kỹ sư của bên B đi
kèm. Nếu bên A có gì thắc mắc hay yêu cầu sửa đổi thì bên B có thể giải thích
hoặc đáp ứng ngay (thì mới lấy được tiền chứ!)
Sau khi đi hết một vòng cả 5
tầng, bên A thắc mắc:
- Các đồng chí hoàn thành
đúng thời hạn, công trình đẹp đẽ, khang trang, thế nhưng tại sao không một tầng
nào có hố xí?
- Bây giờ chúng ta đang ở
trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước nên phải hết sức tiết kiệm. Những gì lãng phí
xa hoa, không cần thiết là phải cắt hết. Tiết kiệm cho Nhà nước, tiết kiệm cho
công quỹ. Chúng tôi sau khi nghiên cứu kỹ dự án công trình này, xin ý kiến Đảng
uỷ Bộ Xây dựng rồi mới bắt tay thi công. Theo dự án, tầng 1 dành cho nhà trẻ,
mẫu giáo…
- Thế sao lại không xây hố
xí?
- Các cháu nó đi ỉa vào bô
rồi các cô mang đi đổ, vậy thì cần hố xí làm gì?
- Tầng hai dự kiến dành cho
học sinh, sinh viên, nhưng chúng nó có gì ăn đâu mà ỉa?
- Tầng ba dành cho cán bộ
công nhân viên, nhưng mà tranh thủ tám giờ vàng ngọc, họ ỉa hết ở xí nghiệp với
ở cơ quan rồi.
- Tầng bốn dự định dành cho
văn nghệ sĩ…
- Chao ôi, văn nghệ sĩ thì
chúng nó ỉa vào mồm nhau!
- Tầng năm dành cho cán bộ
cao cấp của các Cục, Vụ, Viện…
- Thế các ông ấy ỉa vào đâu?
- Giời ôi, các ông ấy ỉa đâu
mà chẳng được. Các ông ấy ỉa vào đầu thằng khác hay là ỉa đâu cũng có thằng hót
rồi.
Chuyện bộ đội
Thuở ấy, tân binh được gấp
rút huấn luyện để đi B trong 6 tháng, đôi khi vì chiến trường cần tiếp viện
gấp, thời gian rút xuống chỉ còn ba hay bốn tháng. (Chiến trường A là miền
Bắc, B là miền Nam, C là Lào, D là Miên và E là Thái Lan). Trước khi đi B
bộ đội được cấp phát quân tư trang mới, toàn là đồ của anh Hai (Trung Quốc)
viện trợ cả, từ đầu đến chân: mũ cối, hai bộ quần áo gac-ba-đin (đã đẹp lại bền
nữa), ba lô, súng AK, xanh-tuya rông (thắt lưng lính), dao găm, bi
đông, dép cao su (vừa nhẹ, vừa mỏng mà lại bền hơn dép lốp của ta nhiều). Thế
rồi được đi nghỉ phép, thường là từ 5 ngày đến một tuần (cũng có trường hợp có
đơn vị phải lên đường ngay mà không được về phép). Lính về nhà thế là trút lại
bộ gac-ba-đin cho bố, cho thằng em trai cái mũ cối mới, để lại cho vợ cái ba
lô… rồi lên đường với đồ lề cũ đã được phát lúc mới nhập ngũ. Thành ra trong
dân thì sẵn đồ lính lắm.
Đơn vị nọ đang tập luyện, đến
giờ giải lao lại ra ngồi dưới mấy gốc cây ven đường trốn nắng. Có chị kia đi
ngang, lưng thì đeo ba lô nặng, bụng thì chửa vượt mặt, tay lại dắt đứa con
chừng năm, sáu tuổi. Một anh lính ngứa mồm trêu:
- Ba lô đằng sau là ba lô của
Nhà nước,
ba lô đằng trước là ba lô của nhà em!
Để phòng máy bay Mỹ ném bom,
tân binh không ở trong doanh trại mà rải ra tản mát ở nhà dân. Ngày thì cả hai
buổi ngoài thao trường tập luyện, tối thì sinh hoạt họp hành, xong việc thì
người đã “bã” hết cả ra (muốn nhớ nhà, nhớ em cũng chả còn hơi sức đâu). Tuy
vậy công tác dân vận cũng cứ phải đặt lên hàng đầu: quét quáy trong nhà, ngoài
sân, ngày mùa thì đi gặt giúp Hợp tác xã, dọi lại cái mái dột cho nhà chủ v.v…
Thỉnh thoảng lại sinh hoạt chung với du kích xã (chỉ còn nữ du kích thôi, thanh
niên thì đã “được” đi bộ đội hết), lại dạy các em thiếu nhi hát hò nữa. Mệt là
thế mà có những anh “lực điền” vẫn còn thừa “năng lượng”.
Nhà kia có hai cô con gái
lớn, “cũng vào du kích”. Một hôm bà mẹ gọi hai con vào dặn nhỏ:
- Mận à, Đào à, chúng mày đi
tập hát thì bu cũng chả cấm, dưng mà nhớ về sơm sớm, chứ ư… bộ đội… nó đái gốc
tre cũng chửa!
Đơn vị hành quân qua làng anh
trung đội trưởng kia, đại đội thông cảm, cho anh về thăm vợ đêm nay, mai phải
có mặt sớm còn tiếp tục hành quân. Hai vợ chồng trẻ mới có một đứa con năm
tuổi, kháu khỉnh lắm. Thằng cu thì từ bé đến giờ vẫn ngủ với mẹ, lại hay sờ tí.
Đêm ấy, đang ngủ, cu con lại thấy sao có tay ai trên ngực mẹ, vội kêu lên:
Sực nhớ ra là có bố về, cu
cậu chuyển ngay làn điệu:
- … thằng… đế quốc Mỹ rồi!
Đấy, trẻ con bé tẹo cũng đã
biết đế quốc Mỹ, hơn thế nữa, lại còn biết đế quốc Mỹ… là xấu.
Trên đường đi B, hành quân
qua Quảng Bình. Đường bị ném bom, chưa thông. Đơn vị lại rải ra các nhà dân. Tổ
tam tam kia đuợc phân về nhà một ông cụ, một cậu “tinh nghịch nhất hội” đon đả
chào :
- Chào bọ, bọ đã xóc lọ chưa?
(bọ tiếng địa phương là bố; xóc lọ là tiếng lóng, chỉ thủ dâm)
- Xóc lọ là cái chi, các chú?
- À, thế thì bọ xóc lọ rồi.
Hôm sau đường vẫn chưa thông.
Các cậu đi ăn cơm về thì lại gặp bọ trước cửa, bọ hỏi trước :
- Các chú đi xóc lọ về đấy à?
Ba thằng nhìn nhau ngao ngán:
- Dạ, chúng con xóc lọ rồi!
Đúng là gậy ông lại đập lưng
ông.
Mày thì mày chết
Sau khi bàn giao quân bổ sung
cho các đơn vị tại chiến trường B (từ B1 cho đến B5), cán bộ từ cấp trung đội
trở lên lại quay ra Bắc, tiếp tục nhận tân binh, huấn luyện xong lại đưa vào
Nam. Cái vòng cứ thế mà quay. Số cán bộ này gọi là cán bộ khung. Thường thì khi
ở trong Nam ra, họ cũng được đi phép khoảng một tuần.
Có anh Đại đội trưởng khung
kia về phép, bà con hàng xóm sang chơi thăm hỏi đông lắm, nhưng mọi người cũng
có ý về sơm sớm cho vợ chồng chủ nhà còn hàn huyên tâm sự. Mọi người đã về hết,
mấy đứa con thì cũng đã lăn ra ngủ, nhìn quanh không thấy vợ đâu, anh mới rảo
bước ra sân. Thấy cạnh giếng, chỗ nhà tắm (gọi là nhà tắm chứ thực ra thì chỉ
có mấy tấm liếp quây lại thôi) có ánh đèn dầu, anh đi về phía ấy. Gần tới nơi
thấy có tiếng người, nghe kỹ thì là tiếng vợ. Bụng nghĩ thầm, quái, cái cô này
lại chuyện trò với ai trong nhà tắm? Hay là…
Nghĩ thế anh mới rón rén lại
gần, vẫn nghe tiếng vợ, anh khe khẽ vạch kẽ liếp ra. Hoá ra là vợ đang tắm. Một
tay thì cầm cái gáo dừa múc nước trong xô, dội xối xả, một tay thì cứ chỉ cái
“số ta” mà bảo:
- Mày thì mày chết! Tối nay…
nó về… mày thì mày chết!
Chuyện nông trường
Thời ấy, trừ nông thôn không
được phát sổ gạo, còn ở thành phố và các công nông trường mọi người được
“hưởng” lương thực theo tiêu chuẩn, chẳng hạn nhân dân (tức là những người
không ở trong biên chế nhà nước hay hợp tác xã) thì được 10 kg gạo một tháng,
học sinh 13,5 kg, cán bộ, sinh viên 15 kg, công nhân 18 kg, nếu là công nhân
làm việc nặng như đúc hoặc rèn thì được 21 kg v.v… Mỗi hộ gia đình được phát
một sổ gạo có ghi đầy đủ tên họ tất cả mọi người trong gia đình cùng tiêu chuẩn
được cấp. Cán bộ, bộ đội đi công tác thì mang theo tem gạo, nếu vào cửa hàng Mậu
dịch ăn cơm thì mỗi suất cơm phải trả ba hào và một tem gạo hai lạng rưỡi.
Ở nông trường kia, hôm ấy
giám đốc gọi một anh công nhân lên để khiển trách về việc làm không đủ ngày
công, lại kém năng xuất mà vẫn hưởng tiêu chuẩn gạo đầy đủ như những người khác.
Anh này tức quá mới bảo thẳng vào mặt Giám đốc:
- Thôi, tôi giả ông sổ gạo,
tôi không làm nữa. Các ông cho người ta ăn ba hào cơm mà bắt ỉa một đồng bạc
cứt thì bố thằng nào mà làm nổi. Tôi về đây!
Chuyện xem phim bãi
Ở miền Bắc, ngoài mấy thành
phố như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định là có rạp chiếu phim. Ở nông thôn thì có
những Đội chiếu phim lưu động của tỉnh hoặc của huyện thỉnh thoảng về phục vụ
bà con. Nhanh thì ba tháng, chậm thì sáu tháng một lần, còn những vùng sâu,
vùng xa hay miền núi thì có khi cả năm. Mỗi khi có Đội về, hoặc có Đoàn Chèo,
Đoàn rối của Tỉnh vế phục vụ thì cứ gọi là “vui như Tết”. Đi làm đồng thì làm
qua quýt rồi về ăn cơm sơm sớm để còn ra bãi giữ chỗ. Chả là chiếu ở xã này thì
bốn, năm xã xung quanh cũng sang xem, thành ra đông lắm. Đây cũng là một dịp
“giao lưu” để các anh lực điền lại có dịp ghẹo gái làng. Mà kiếm được tấm chồng
thì cũng chả dễ, thanh niên trai tráng thì phải đi lính hết cả, còn chơi chữ
thì người ta bảo là “đi làm nghĩa vụ quân sự”, “đi bảo vệ Tổ quốc”, “đi chống
Mỹ cứu nước”.
Tôi hôm ấy đội về chiếu phim
chiến đấu của Liên Xô, oánh nhau ác lắm. Mấy cô thanh nữ ngồi đằng trước lại cứ
chuyện trò râm ran, không cho ai nghe thuyết minh cả. Một anh thanh niên ngồi
sau ngứa tay mới béo cho cô đằng trước một cái. Cô gái giật nẩy mình, ngoái lại
kêu:
- Hay! “Phin” Liên Xô mà lại
chả hay!
Yên yên được hai phút, lại
chuyện trò ríu rít. Anh chàng tức quá, ngứa tay lại béo cho cái nữa rõ đau. Cô
kia quay lại nhăn nhó:
- À, làm Cao Xà Lá. (Khu công
nghiệp ở ngoại thành Hà Nội gồm Nhà máy Cao xu, Nhà máy Xà phòng và Nhà máy
Thuốc lá)
Các cô không nói chuyện nữa,
nhưng được năm phút anh chàng này quen tay đi mất rồi, lại béo cái nữa. Cô gái
quay lại, tức lắm:
- Ối giời ôi, đang làm công
nhân, ăn gạo sổ lại bảo thôi là thôi thế nào?
Ở một góc khác, một anh chàng
ra giữ chỗ từ chiều, giờ mót đái quá mà không dám đi, sợ mất chỗ. Nhịn quá rồi
nhưng giờ không nhịn được nữa, may là ở nông thôn thì đàn ông cũng chỉ đánh cái
quần cộc, anh chàng mới từ từ “xả” ra thật êm tại chỗ. Thôi, thế là yên chí, có
thể ngồi từ giờ cho đến hết “phin”.
Độ hai phút sau, bà cụ ngồi
đằng trước chống tay phải vũng nước, kêu ầm lên:
- Cái bà này, nước Liên Xô mà
cũng không biết!
Chuyện Liên Xô
Brezhnev cùng cháu nội đi
thăm lăng Lenin. Đứa cháu hỏi:
- Ông ơi, sau khi ông chết
thì ông cũng sẽ ở đây phải không?
- Tất nhiên rồi.
Bỗng Lenin ngồi bật dậy và
bảo:
- Ơ, cái thằng này! Mày tưởng
đây là nhà tập thể hả? Cút mẹ mày đi!
*
Vladimir Ilyich và Feliks
Edmundovich tuy đã say xỉn nhưng rồi cũng mò mẫm về được đến nhà. Ilyich gõ
cửa:
- Nadezhda Konstantinovna, mở
cửa đi!
- Em không mở đâu, Vladimir
Ilyich, anh say rồi.
- Feliks, phá đi mày!
Feliks phá cửa. Vào đến nhà,
Lenin gõ cửa nhà bếp:
- Nadezhda Konstantinovna,
cho bọn này ngốn chút gì đi!
- Không cho, Vladimir Ilyich,
anh nhậu xỉn rồi.
- Feliks, phá đi mày!
Feliks lại phá. Hai người lục
lọi và chén căng bụng. Lenin lại gọi:
- Nadezhda Konstantinovna,
nào!
- Không cho đâu, Vladimir
Ilyich, em hãy còn là trinh nữ.
- Feliks, phá đi mày!
*
Lenin trèo lên xe bọc thép.
- Các đồng chí! Cuộc cách
mạng mà chúng ta dự định vào sáng mai phải hoãn lại.
- Tại sao vậy??
- Feliks Edmundovich đã đi
câu mất rồi.
- Thế thì làm sao? Không có
đồng chí ấy thì không được à?
- Không có cậu ấy thì… cũng
được, nhưng không có “Rạng Đông” thì không xong.
*
Thời Cách mạng tháng 10.
Lenin trên xe bọc thép. Đám đông hô to:
- Lennon! Lennon!
Lenin:
- Các đồng chí, tôi chính là
Lenin đây!
Đám đông vẫn hô:
- Lennon! Lennon!
Lenin:
- Quỷ tha ma bắt các anh đi!
Thôi được, YESTERDAY…
*
“Học, học nữa, và học thêm
một lần nữa!” – đó là lời Lenin ghi vội lên bìa
cuốn Kama Sutra do Inessa Armand tặng.
*
Hai người bạn gặp nhau.
- Này, cậu sắp sửa đi nghỉ hè
ở những đâu?
- Đến những nơi Lenin đã từng
qua…
- À, gác xép, lều cỏ, Gorki,
Shushenskoye…
- Không, không,- Genève,
Zürich, Paris, Luân Đôn…
*
Trong Bảo tàng Cách mạng, một
người khách đứng trước bức chân dung mẹ của Stalin, cứ lắc đầu quầy quậy và thở
dài não nuột:
- Ối giời ơi, ối giời ơi! Có
lẽ nào một người phụ nữ lại hiền hậu dịu dàng như vậy! Sao lúc ấy bà ta lại
không đi nạo thai cho rồi?
Khrushchev tới thăm một nông
trường nuôi lợn. Ban biên tập báo Sự
thật đang thảo luận nên viết
thế nào dưới bức ảnh chụp Khrushchev sẽ phải đăng ở trang nhất. Hai đề nghị bị
loại bỏ là: “Đồng chí Khrushchev giữa đàn lợn” và “Đàn lợn vây quanh đồng chí
Khrushchev”. Phương án cuối cùng được chấp nhận là “Thứ ba từ bên trái – Đồng
chí Khrushchev”.
*
Khrushchev tới thăm một nông
trường nuôi lợn.
Lợn kêu:
- Khru… Khru… Khru…
- Các đồng chí cần cho lợn ăn
tốt hơn, để chúng nó có thể nói được cả câu.
Cái gì cũng không có
Thời Gorbachev đang tiến hành
cải tổ.
Một thanh niên đang ngồi
trong quán rượu, giọng khê nồng, chắc là cũng đã “ba say chưa chai”, cất giọng
lè nhè, bất mãn:
- Thời buổi gì mà bánh mì
chẳng đủ, bắp cải cũng không có, chả nói đến dưa chuột muối làm gì! Bao giờ cho
hết khổ?
Chẳng may cho anh, trong quán
cũng có hai “mú chìm” (nhân viên mật vụ KGB) đang ngồi nghe ngóng. Họ cũng
chẳng nói gì, cứ mặc cho anh chàng tha hồ rủa xả. Chờ cho đến khi anh chàng
đứng dậy ra về, họ mới xáp lại, giơ thẻ công an ra và bảo: “Anh đi theo chúng
tôi!”
Chàng thanh niên bị giải về
Lubyanka (nhà tù trung ương của KGB ở Mạc Tư Khoa). Sau khi anh ta bị thẩm vấn
cả tiếng đồng hồ, một anh công an chìm mới hỏi:
- Anh có biết là vừa rồi anh
ăn nói như vậy ở quán rượu là phạm tội gì không?
Anh thanh niên lúc này đã
tỉnh hẳn rượu, vội trả lời:
- Da, em biết. Nói như vậy là
phạm tội phản tuyên truyền. Nhưng mà… nhưng mà em trót say quá, em trót nói
nhảm.
- Anh có biết khung hình phạt
cho tội phản tuyên truyền là thế nào không?
- Dạ, em có. Từ 10 năm cho
đến xử bắn. Em nhỡ vi phạm lần đầu, mong các anh thông cảm mà tha cho em lần
này.
- Anh nói đúng đấy, – tay
công an nhấn mạnh – từ 10 năm cho đến xử bắn. Chúng tôi đã xem xét kỹ lý lịch
của anh: bản thân là công nhân, thành phần gia đình bần nông. Thái độ của anh
là thành khẩn nhận khuyết điểm. Lần này là lần đầu, chúng tôi áp dụng chính
sách khoan hồng của Đảng nên tạm tha cho anh. Lần sau anh mà tái phạm, chính
tôi sẽ bắn anh, anh nghe rõ chưa?
- Dạ, dạ, em nghe rõ. Em xin
cám ơn các anh.
- Thôi được rồi, anh về đi.
Nhớ đấy nhé!
Anh thanh niên cám ơn rối
rít, vừa nói cám ơn vừa đi giật lùi ra cửa.
Ra khỏi cửa, vừa đi được mười
bước, anh ta ngoảnh lại lẩm bẩm chửi (tất nhiên là nói khẽ thôi):
- Đ. m. chúng mày lắm chứ!
Đến đạn cũng đéo có ,lại còn doạ bắn bố!
Chuyện phát sinh
Tôi xin kể thêm truyện này,
nghe cũng lâu rồi :“Các ông Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh cùng đáp một
chuyến chuyên cơ từ Sàigòn trở lại Hà Nội. Ông Trường Chinh muốn chuyển câu chuyện
sang đề tài nhẹ nhàng, cầm tờ giấy bạc 100$ phất phất nói “Bây giờ mình thả tờ
giấy này xuống thì có một người sung sướng”. Phạm Văn Đồng gốc Quảng Ngãi bàn
“Mình đổi nó ra mười tờ 10$ thì có 10 người sung sướng”. Lê Duẩn gốc Quảng Trị
ậm ừ “Lấy 10 tờ 10$ chả hơn sao, có đến 10 người hạnh phúc”. Anh phi công phụ,
nghe điên ruột quá, nói lớn “Để cháu thả ba bác xuống thì có đến 50 triệu người
sung sướng !”