* GS. JONATHAN LONĐON
Tôi đang viết bài này ở Hà Nội, không xa nơi tôi đã ở cách đây 24 năm lần đâu tiên sang Việt Nam. Thế giới của hôm nay rất khác so với thế giới của năm 1990 và giữa năm 1990 và hôm nay Việt Nam đã thay đổi nhiều. Nếu lúc đó, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất ở Châu Á, thì hôm nay Việt Nàm là một nước thu nhập trung bình thấp (lower middle income country). Nếu lúc đó Việt Nam là một nước mới phát triển nền kinh tế thị trường, thì hôm nay Việt Nam đã có một nền kinh tế thị trường trong khuôn khổ thể chế Lenin gần hơn 20 năm rồi.Không thể phủ nhận về mức sống, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Mặt khác, không có ai có thể phủ nhận nếu Việt Nam muốn phát triển mạnh hơn, có sự tăng trưởng kinh tế cao hơn và bền vững hơn, phải giải quyết những hạn chế về thể chế.
Trong những tháng qua, tôi đã đề cập đến vấn đề nhân quyền. Xin khẳng định với các bạn trong chính quyền, đó là một vấn đề mà tôi không thể nào bỏ qua. Và dù một số bạn trong chính quyền chưa thấy đủ rõ, vấn đề nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí là lồng ghép với những hạn chế về thể chế, nhất là , những vấn đề như thiếu minh bạch, v.v. Song, hôm nay xin chia sẻ một chút với các bạn một cách ngắn gọn những gì tôi đang nghiên cứu ở Việt Nam.
Từ lâu tôi cũng như nhiều người khác rất lo về sự phát triển của Việt Nam, và có quan tâm đến tình hình của hai ngành cực kỳ quan trọng đối với tương lai của Việt Nam. Một là ngành giáo dục, hai là ngành y tế. Sự quan trọng của hai ngành này rõ ràng xuất phát từ thực tế là muốn phát triển, Việt Nam phải phát triển con người. Tức là con người phải ở trung tâm của chiến lược phát triển.
Nhà Nước Việt Nam từ lâu đã chấp nhận quan điểm này về nguyên tắc. Đồng thời, ai ở Việt Nam, dù đang ở vị trí nào, đều thấy còn có nhiều thách thức, chính vì những thể chế của đất nước, đặc biệt trong việc cung ứng, chi trả, và quản lý những dịch vụ giáo dục và y tế, chưa cho phép dân Việt Nam tiếp cận đầy đủ những dịch vụ chất lượng khá, có khả năng chi trả được.
Ở nước nào việc quản lý các ngành giáo dục và y tế cũng không hề dễ dàng. Và thách thức lớn nhất của Việt Nam và làm sao có thể cải cách hai ngành này, để nó có thể phục vụ người dân và giúp họ phát triển những năng lực của họ một cách tối đa. Mục đích ở đây, không phải là đề cập đến những vấn đề phức tạp trong hai ngành này một cách đầy đủ, vì dân Việt Nam khá biết những chuyện này. Ý là đề cập một câu hỏi quan trọng như sau:
Việt Nam có một đặc trưng hiện nay là tỷ lệ dân nghèo và (đặc biệt) cận nghèo là còn quá cao, đồng thời quy mô của tầng lớp trung lưu còn quá nhỏ. (Chưa nói gì về những người lái xe Bentley, có mấy căn hộ v.v.) Qua những nghiên cứu khác nhau chúng ta có thể xác định là hiện nay, một vấn đề lớn đối với hai ngành giáo dục và y tế ở Việt Nam, không phải là số tiền được chi trả, mà là sự hiệu quả của số tiền được chi trả đối với những kết quả mong muốn.
Thế thì nghiên cứu tôi đang tiến hành ở Việt Nam hiện nay là gì? Đó là làm sao chúng ta có thể khuyến khích sự phát triển của giai cấp trung lưu ở Việt Nam? Tại sao đặt ra câu hỏi này? Là vì Việt Nam muốn phát triển bền vững thì phải mở rộng số người, số gia đình, số cộng đồng mà có thể không chỉ là tiếp cận những dịch vụ cơ bản mà là tiếp cận những dịch vụ chất lượng chuẩn, và qua đó đẩy mạnh khả năng của mọi người tham gia một cách hiệu quả trong nền kinh tế thị trường của đất nước và thế giới.”
Nếu trong ngành giáo dục vấn đề là làm sao phát triển một giai cấp lao động có kỹ năng, thì trong ngành y tế thách thức là, làm sao Việt Nam có thể phát triển một hệ thống y tế hiệu quả, mà trong đó những chi phí người dân phải chi trả là vừa phải, không quá đáng. Vâng, trong ngành giáo dục hiện nay có những nỗ lực cải cách (hy vọng sẽ thành công hơn những nỗ lực trước). Và vâng, trong y tế cũng có những nỗ lực để mở rộng bảo hiểm, giảm bớt lạm dụng. Hai việc đó tôi hoàn toàn hoan nghênh.
Nam ngoái, tôi đã tiến hành một công trình nghiên cứu về sự diễn biến của hiện tượng ‘xã hội hóa’ và những đóng góp và hạn chế của nó. Hiện nay, nghiên cứu của tôi đặt ra câu hỏi: ‘Xã hội hóa’ thì có rồi, nhưng bây giờ phải làm gì để giảm bớt những mặt tiêu cực của nó?
Tất nhiên, tôi cũng như những người khác chưa có câu trả lời. Chưa chắc giải pháp chỉ là xây thêm những bệnh viện v.v. Thế thì một cái cần thiết là tìm hiểu và xác định những điều kiện phải có để nâng cao khả năng của người gần thu nhập bình quân và tương đối thấp để họ có thể tiếp cận được những dịch vụ mà họ cần và qua đó phát triển khả năng của họ và để họ tham gia mạnh hơn trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Muốn có được điều đó, phải tìm cách mở rộng cơ hội cho những người có thu nhập trung bình trở xuống tối đa hóa những cơ hội để phát triển kỹ năng của họ, được khám chữa bệnh một cách hữu hiệu hơn với một kinh phí hợp lý hơn. Cho phép họ từ từ nâng cao hơn tới cấp trung lưu.
Đối với những vấn đề này, một thực thế phải đối mặt là mức độ phi tập trung hóa ở Việt Nam là rất cao, thậm chí quá cao. Trong khi những năng lực về về điều phối, quản lý thông tin, thúc đẩy minh bạch, bao đảm trách nhiệm giải trình thực sự là chưa đủ mạnh. Vì thế ở trung tâm của nghiên cứu này là những vấn đề về thể chế.
Hiện nay Việt Nam có trên 60 mô hình quản lý khác nhau. Ta phải học nó, phải xác định những thể chế nào có lợi nền phổ biển hóa, và những cái nào cần phải xóa bỏ. Cũng phải học các kinh nghiệm của các nước khác. Sau cùng, phải có sự quyết tâm chính trị; một cái khó ở Việt Nam mà rất cần.
Ở mức độ tới 17 phần trăm GDP, tổng số tiền cả dân lẫn nhà nước Việt Nam chi trả cho giáo dục và y tế là lớn rồi. Vào ngày thầy thuốc, cùng lúc đang có những thảo luận về cải cách ở cả hai ngành y tế và giáo dục, vấn đề hiện nay không phải là số tiền được chi trả, mà là số tiền đó mua được gì cho dân Việt Nam.