30 tháng 6, 2016

CUỘC CHƠI PHẨM GIÁ CỦA TRUNG QUỐC

Hoàng Quốc Hải
TIẾNG NÓI NHÀ VĂN

Trung Quốc tự xưng mình là nước lớn và họ trỗi dậy trong hòa bình.
Hiển nhiên Trung Quốc là nước lớn. Về dân số đứng đầu thế giới với hơn 1,3 tỉ dân, về diện tích hơn 9 triệu km2 chỉ sau Liên bang Nga và Canada.
Còn việc họ trỗi dậy trong hòa bình thì không phải vậy. Trước hết, các nước có chung biên giới với họ, không một nước nào được yên ổn với Trung Quốc, nếu không gây ra chiến tranh cũng là xung đột hoặc tranh chấp, chủ yếu là đất đai. Nửa cuối thế kỷ 20, họ đã từng có xung đột biên giới với Liên Xô, chiến tranh biên giới với Ấn Độ, chiến tranh xâm lược với Việt Nam. Và hiện nay, họ đang khuấy đảo Biển Đông. Năm 1974 cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, năm 1988 lại dùng lực lượng quân sự áp đảo cưỡng chiếm các đảo Gạc Ma, Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ren, Đá Tư Nghĩa, Đá Su Bi… Thực chất đây là một cuộc xâm lược đúng nghĩa.
Và bây giờ họ đã biến các đảo và các bãi đá ngầm chiếm được của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa, thành 7 thực thể như đường băng cho tầu bay, bến bãi cho tầu chiến, tầu ngầm và kho chứa xăng dầu. Tức là họ đang gấp rút quân sự hóa Biển Đông từng giờ.
Bãi cạn Scarborough do họ cưỡng chiếm của Philippines năm 2012, nằm trong âm mưu biến nó thành một căn cứ quân sự lớn- một hàng không mẫu hạm khổng lồ không thể đánh chìm ngay cửa ngõ Philippines, và cách các căn cứ quân sự Mỹ đang sử dụng không xa.
Truyền thống chiếm đất của Trung Quốc, là vượt biên giới đánh chiếm một phần lãnh thổ của láng giềng, ở nơi mà họ thấy có lợi thế. Khi bị phản kích, bị đẩy lùi, họ cố đóng chốt tại một khu vực, rồi đề nghị đàm phán. Đó là họ biến vùng đất không có tranh chấp thành đất tranh chấp. Và tiến hành thương lượng trên vùng đất vừa chiếm được. Cuộc chiến tranh biên giới Trung - Ấn năm 1962, hiện Trung Quốc còn đang chiếm giữ của Ấn Độ một dải đất khoảng 50.000 km2.
Thủ đoạn đó đối với Việt Nam là xâm canh, xâm cư và xâm táng.
Xâm canh, là họ cho người sang cấy trồng trên đất của ta, tại những vùng hẻo lánh. Nếu ta phát hiện kịp thời và xua đuổi, thì họ rút về. Nếu êm êm qua vài vụ, là họ đưa người sang làm nhà và sinh sống trên đất ta, tức là xâm cư. Việc xâm cư này nếu phát hiện kịp vẫn có thể đuổi được, trường hợp như ở Cao Bằng vào các năm 1970- 1973. Nhưng nếu họ ở lâu, có người chết và mồ mả an táng kiểu như vùng đất bên kia sông Qui Sơn, thác Bản Giốc huyện Trùng Khánh Cao Bằng, thì rất khó đuổi. Thậm chí không thể đuổi được và mất đất luôn. Mất nửa thác Bản Giốc là như vậy đó.
Trên bộ, đất đai tiếp giáp liền kề, Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn để lấn chiếm còn đi một nhẽ. Nhưng trên biển, trùng khơi cách trở, các nước ven Biển Đông như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei hoàn toàn không có gì liên đới tới Trung Quốc. Vùng đặc quyền kinh tế như của nước ta, tính từ đường cơ sở còn cách Trung Quốc tới cả ngàn km; không có một xăng ti mét nào có thể gọi là chồng lấn.
Các đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ 1956 trở về cả mấy ngàn năm trước, chưa hề có yếu tố Trung Hoa. Còn quần đảo Trường Sa trước 1988, tức là trước khi quân Trung Quốc xâm lược chiếm đảo Gạc Ma và các đảo khác từ sự kiểm soát của Việt Nam, thì người Trung Quốc chưa hề biết đến Trường Sa.
Như vậy không chỉ Việt Nam, mà dường như tất cả các nước ven Biển Đông không có gì để đàm phán với Trung Quốc. Bởi vùng biển này từ xưa không có tranh chấp, không có yếu tố Trung Hoa. Bởi Trung Hoa là một quốc gia lục địa. Nay Trung Quốc nhảy vào cưỡng chiếm với đầy đủ yếu tố của một kẻ xâm lược. Do đó, quân xâm lược phải rút đi, đó là chân lý và cũng là đạo lý, chẳng có gì để thương lượng.
Vậy Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Dương Khiết Trì đến Việt Nam trước thềm Tòa Trọng tài Quốc tế Thường trực LHQ ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc cưỡng chiếm bãi cạn Scarborough, và xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này để làm gì?
Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nói riêng và các nước ven Biển Đông nói chung, không có bất kỳ vùng chồng lấn nào với Trung Quốc. Không có cái gọi là “quyền lịch sử”.
Theo Công ước Quốc tế về Luật Biển Unclos 1982, do 160 nước thảo luận và xây dựng công phu suốt mấy chục năm mới hoàn thành, trong đó có cả Việt Nam và Trung Quốc cùng tham gia. Nguyên tắc thứ nhất của Luật Biển Unclos về chủ quyền và quyền tài phán đối với quốc gia ven biển phải là: “Chiếm hữu thực tế và thực hành quyền tài phán liên tục không bị gián đoạn- không phải là chinh phục”.
Theo qui định này thì các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng, thực sự là do xâm lược mà có. Vậy nó là bất hợp pháp. Trung Quốc phải rút đi để trả lại Hoàng Sa - Trường Sa cho Việt Nam. Bởi nó không có một ly nào là chồng lấn cả, vì vậy không có gì để đàm phán, thương lượng.
Vậy ông Dương Khiết Trì đến Hà Nội để làm gì? Chắc chắn là thuyết phục Việt Nam hợp tác, kiên trì đàm phán để thu hẹp bất đồng. Và nếu có thể được trong chừng mực nào đó, không tẩy chay Tòa Trọng tài Quốc tế Thường trực LHQ sắp tuyên bố kết quả vụ kiện của Philippines, thì chí ít cũng không tuyên bố công khai ủng hộ Philippines.
Giả định thôi, nếu Việt Nam thỏa hiệp với Trung Quốc về điều này, có nghĩa chúng ta đã từ bỏ chủ quyền và đồng nghĩa với việc đầu hàng Trung Quốc. Cho nên cơ sở của đàm phán là quân Trung Quốc cưỡng chiếm biển, đảo của Việt Nam, thì quân Trung Quốc xâm lược phải rút đi, trả lại biển đảo cho Việt Nam. Đó là mệnh lệnh của Tổ quốc! Nếu Trung Quôc không rút đi thì Việt Nam khởi kiện.
Nhưng có lẽ Trung Quốc cáo già, sẽ dụ dỗ Việt Nam bằng các chiêu thức kinh tế, hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp như mơ. Và hai Đảng, hai Nhà nước cố gắng hợp tác bảo đảm an ninh khu vực, còn Biển Đông cứ giữ nguyên hiện trạng không làm cho tình hình phức tạp thêm…
Vấn đề là, chỉ cần Việt Nam im hơi lặng tiếng để Trung Quốc qua cơn sóng gió này.
Ta nên biết, Trung Quốc đã bao lần nuốt lời hứa. Và cứ mỗi lần họ qua ta dụ dỗ, là mỗi lần ta lại ăn thêm quả lừa to hơn. Nhớ tháng 6 năm 2014 khi ông Dương Khiết Trì tới Hà Nội giữa lúc tình hình ngoài Biển Đông rất căng thẳng. Giàn khoan HD 981 của Trung Quốc neo đậu sâu trong thềm lục địa của ta. Đường dây nóng trở nên nguội lạnh, bởi đầu kia không hề có tín hiệu. Dương Khiết Trì sang trấn an, nhưng HD 981 vẫn lì lợm thăm dò trong thềm lục địa của Việt Nam.
Trước ngày 18 tháng 6 năm 2014, là ngày ông Dương Khiết Trì sang Việt Nam, Tân Hoa Xã có bài đe dọa Việt Nam qui về 4 điểm:
1/ Không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực bảo vệ chủ quyền cua Trung Quốc đối với các đảo trên Nam Hải ( Biển Đông ).
2/ Không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử” để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận ở Việt Nam về chủ quyền Trung Quốc ở Tây Sa, Nam Sa ( Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam ).
3/ Không được lôi kéo các nước khác vào Nam Hải ( Biển Đông ).
4/ Không được phá bỏ mối quan hệ Việt - Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ.
Qua đó mới thấy Trung Quốc luôn dọa nạt, nhưng vì bất minh nên luôn run sợ trước dư luận quốc tế. Họ rất sợ ta công khai chỉ trích và đưa ra các chứng cứ lịch sử về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Và họ trói ta vào cái vòng kim cô 16 chữ vàng và 4 tốt trong mối quan hệ vô nghĩa ,mà ông nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gọi là “hữu nghị viển vông”
Trung Quốc nằm mơ cũng không kiếm được một dòng một chữ nào, làm bằng chứng lịch sử về hai quần đảo này.
Do vậy, họ mới nói bừa rằng “ Chủ quyền không thể tranh cãi ở Biển Đông từ thời cổđại”. Trước đó họ nói Trung Quốc đã làm chủ Biển Đông từ thời Hán, Đường nhưng tìm mãi chẳng có bằng chứng gì, nên nói đại là “chủ quyền lịch sử”. Gần đây họ làm rùm beng có cuốn sách cổ 600 năm làm bằng chứng cho việc Trung Quốc đã làm chủ Hoàng Sa, Trường Sa, do một gia đình ngư dân ở Quảng Đông sở hữu. Phóng viên BBC tại Trung Quốc đã về tới tận nơi bóc mẽ. Vị ngư dân kia nói “Sách cũ quá, nát quá chẳng đọc được chữ gì, vứt đi rồi”.
Vậy là sự dối trá đã và đang ngự trị một cách nhất quán trong các chính sách của Trung Quốc về Biển Đông.
Lại nói, mỗi lần họ khuyên ta giữ “nguyên trạng” và “không làm phức tạp tình hình Biển Đông” cốt để kìm hãm ta phát ngôn, bó tay ta bảo vệ chủ quyền biển đảo, thì họ lại tăng tốc bồi lấp đảo. Cho tới nay dường như họ đã quân sự hóa xong về cơ bản hai quần đảo mà họ chiếm giữ trái phép.
Và từ Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm đào, Tập Cận Bình đến Lý Khắc Cường, mỗi người đều đã hơn một lần bội tín với ta về trật tự Biển Đông, sau khi họ đã gặp gỡ lãnh đạo ta hứa và cam kết.
Nhưng sao lần này ông Dương Khiết Trì sang Hà Nội lại có vẻ thỏ non thế nhỉ?
Thái độ bớt hung hăng, ảnh chụp lại thấy cái miệng hơi hé cười. Cho nên tôi đón đợi ở ông ta một lời tự thú, kiểu ông Trương Chí Quân, thứ trưởng bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói về Nhật Bản. Xin trích nguyên văn, chỉ thay hai chữ “Nhật Bản” của ông Trương Chí Quân bằng hai chữ “Trung Quốc”:
“Nếu Trung Quốc không đối diện lịch sử, không tự vấn lương tâm của mình và không thành thật sửa chữa lỗi lầm thì dù nền kinh tế của họ có phát triển thế nào đi nữa thì quốc gia này cũng không thể đứng thẳng được về mặt đạo lý”.
Thật ra, nếu khôn ngoan, nhân cơ hội này Trung Quốc nên tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế Thường trực Liên hiệp quốc. Bởi cuộc chơi Toàn cầu, phải chấp hành luật Toàn cầu, chứ không thể theo riêng luật rừng được. Đó chính là con đường rút lui trong danh dự. Thế giới sẽ nhìn nhận Trung Quốc đang trỗi dậy trong hòa bình. Biển Đông lập tức lặng sóng, các tàu chiến Mỹ, Nhật, Úc, Ấn chẳng lượn lờ ở đó làm gì nữa.
Và nữa, đây cũng là một thử thách trong cuộc chơi phẩm giá của Trung Quốc. Nếu làm ngược lại, Trung Quốc sẽ tự cô lập mình trong vòng vây của cả thế giới.
Hãy cảnh giác với Trung Quốc!

Tại sao Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc thăm Việt Nam?

Tác giả: Ankit Panda
Dịch giả: Trần Văn Minh
Dương Khiết Trì năm 2013. Nguồn: Office of the President of Russa
Dương Khiết Trì năm 2013. Nguồn: Văn phòng TT Nga
Tại sao Trung Quốc gửi Dương Khiết Trì sang Việt Nam hôm thứ Hai?
Hôm thứ Hai, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tới Việt Nam để tham dự một cuộc họp đã được sắp xếp trước, với một chương trình nghị sự rộng lớn. Ông Dương có chức vụ cao hơn Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, đã gặp các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, trong đó có Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Chuyến viếng thăm của ông Dương thể hiện sự tiếp cận cấp cao đặc biệt với Hà Nội trước khi Tòa Trọng tài Thường trực Hague đưa ra phán quyết có thể đoán trước về tình trạng của các thực thể biển khác nhau ở Biển Đông trong vụ Philippines kiện Trung Quốc.
Tại Việt Nam, ông Dương được truyền thông nhà nước Trung Quốc trích dẫn, đã gợi ý rằng Việt Nam và Trung Quốc nên “xử lý một cách thích đáng các tranh chấp và vấn đề liên quan”. Bộ Ngoại giao Việt Nam ghi nhận, ông Dương đã thảo luận về vấn đề “kiểm soát xung đột, thúc đẩy cơ chế đàm phán… và tìm kiếm những giải pháp cơ bản và lâu dài mà cả hai bên có thể chấp nhận thông qua trao đổi và đàm phán hòa bình”, theo Reuters.
Trung Quốc đã thực hiện một loạt các chuyến ngoại giao quốc tế trước phán quyết [của Tòa Trọng tài], bằng cách tìm đến các nước gần xa để kiếm sự ủng hộ của họ cho lập trường của mình trước phán quyết sắp tới. Bắc Kinh đã từ chối tham gia tiến trình tố tụng của tòa án hoặc công nhận tính hợp pháp của vụ kiện. Thay vào đó, Bắc Kinh nói rằng các tranh chấp ở Biển Đông nên được giải quyết bằng ngoại giao giữa các bên liên quan, thông qua cơ chế song phương.
Việt Nam và Trung Quốc đã từng có xung đột về các tranh chấp ở Biển Đông, mà tập trung hầu hết xung quanh quần đảo Hoàng Sa do Trung Quốc chiếm đóng. Đảo Phú Lâm, đã bị Trung Quốc chiếm giữ ở Biển Đông và bị quân sự hóa nhiều nhất, nơi có hệ thống tên lửa đất-đối-không và máy bay chiến đấu, ở quần đảo Hoàng Sa.
Mùa hè năm 2014, Trung Quốc và Việt Nam đã có xung đột về ngoại giao rất khi Bắc Kinh đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển tranh chấp. Các sự kiện hồi năm đó gồm, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc diễn ra nhiều nơi ở Việt Nam và các hoạt động hiếu chiến của cảnh sát biển và ngư dân Trung Quốc chống lại các tàu cá dân sự Việt Nam.
Năm 2014, như The Diplomat đã bình luận vào thời điểm đó, ông Dương Khiết Trì là một trong những đặc phái viên Trung Quốc đầu tiên đến Việt Nam để thương thảo, làm giảm tình trạng căng thẳng trong cuộc khủng hoảng năm 2014. Vào thời điểm đó, ông Dương “khuyên Việt Nam không nên có hành động pháp lý chống lại Trung Quốc vì lợi ích của việc hàn gắn mối quan hệ song phương”, ông Carl Thayer đã viết như thế trên tờ The Diplomat.
Cho đến nay, công cuộc thúc đẩy ngoại giao của Trung Quốc để lập trường của mình ở Biển Đông được công nhận đã không hoàn toàn đi theo kế hoạch, chỉ có 8 nước công khai hỗ trợ lập trường của Bắc Kinh. Chuyến đi Việt Nam của ông Dương ít có khả năng thuyết phục Hà Nội – một bên tranh chấp và là một nước có lịch sử gần đây đầy căng thẳng với Trung Quốc – thay đổi lập trường về Biển Đông.
Thay vào đó, Trung Quốc muốn làm rõ rằng Việt Nam không nên có bất kỳ ý nghĩ nào về việc đệ trình các thủ tục pháp lý của riêng mình, theo sau phán quyết có khả năng thuận lợi cho Philippines của Tòa án Trọng tài Thường trực. Ông Dương đã nhấn mạnh như thế hồi năm 2014 và chuyến đi mới nhất này của ông ta có thể chỉ để lặp lại thông điệp đó.

Những ‘cánh tay nối dài của đảng’ cần được rút ngắn

Phạm Chí Dũng
Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: EPA
Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: EPA
Sau khi Đại hội XII đã chỉ giải quyết được vấn đề nhân sự chủ chốt nhưng vẫn không giải quyết được bất kỳ một vấn đề trầm kha nào về kinh tế, xã hội và càng không biết làm sao để cải thiện tình trạng rỗng ruột của ngân sách, những dấu hiệu và biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên và trong hệ thống các đơn vị vệ tinh xoay quanh trục đảng vẫn tiếp tục đà gia tăng khá ấn tượng.
‘Nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ’
Trong tình hình ngân sách cạn kiệt vào nửa đầu năm 2016, một hiện tượng dư luận xã hội và truyền thông đáng chú ý đang diễn ra: những chỉ trích không tránh khỏi đối với hiệu quả hoạt động của một số tổ chức chính trị – xã hội lớn – còn có cách ví von như “cánh tay nối dài của đảng” – bao gồm các nhân tố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Nếu trước đây kinh phí dành cho các tổ chức chính trị – xã hội trên thường không được lôi ra bình phẩm, thì nay ngay cả một số tờ báo nhà nước cũng bắt đầu bình luận mang màu sắc giễu cợt, châm biếm và chỉ trích.
Không phải “chỉ có” 14.000 tỷ đồng được ngân sách vung cho các tổ chức chính trị – xã hội như một số báo đài đưa tin, mà một đánh giá của Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) còn cho biết nguồn lực xã hội được rót vào các tổ chức công chiếm tới 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương với hơn 71.000 tỷ đồng.
Một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam bức bối: đã đến lúc các tổ chức chính trị – xã hội trên nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ.
Nhiều người đánh giá rằng so với nguồn kinh phí rất lớn nhận được hàng năm từ bầu sữa nhà nước, công sức và hiệu quả của các tổ chức chính trị – xã hội trên bỏ ra là hoàn toàn bất tương xứng. Còn nếu nhìn từ góc độ ngân sách được cấu tạo bằng tiền đóng thuế của dân và tiền vay mượn nước ngoài mà các đời dân chúng phải nai lưng gánh chịu, sự thể còn trở nên tàn nhẫn hơn nhiều.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống – một tiếng nói bất đồng ở Việt Nam – còn nói thẳng rằng cần suy nghĩ đến việc giải thể Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Vì sao lại ra nông nỗi ấy? Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm được gì để “đoàn kết các tầng lớp trí thức và nhân dân xây dựng một đất nước phồn vinh”?
Mặt thật
Trong thực tế, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã “phát huy” vai trò hiệp thương của cơ quan này đúng như tuyên bố “Dân chủ đến thế là cùng!” của Tổng Bí thư Trọng. Bằng chứng gần gũi và sống động nhất là trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 5/2016, tuyệt đại đa số các ứng cử viên độc lập đã bị loại thẳng thừng, chủ yếu qua những màn đấu tố thô bạo không khác mấy so với thời Cải cách ruộng đất cách đây đến bảy chục năm.
Thời gian tiến về trước nhưng lịch sử cứ bị kéo lui. Cũng trong cuộc bầu cử Quốc hội vừa kể, thậm chí tỷ lệ người ngoài đảng đã rớt xuống chỉ còn khoảng 4%, so với “10% theo tiêu chí”. Nghịch lý quá bất nhẫn là trong khi kinh phí dành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tăng gấp đôi so với những năm trước, số người tự ứng cử lọt vào Quốc hội lại giảm đi phân nửa so với những kỳ bầu cử Quốc hội trước đó. Nhưng ngay cả những người “trúng cử” cũng bị dư luận coi là “gà” của các cơ quan chính quyền và hội đoàn nhà nước.
Một bằng chứng sống sượng khác: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hầu như không chia sẻ với bất kỳ tổ chức và nhân vật tôn giáo nào khác thể hiện tiếng nói và hành dộng khác với chủ ý độc trị của đảng cầm quyền. Thậm chí ngược lại, giới lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tự nguyện biến thành cánh tay đắc lực giúp cho đảng bóp nghẹt hơn quyền tự do tôn giáo của người dân – được hiến định qua các hiến pháp nhưng còn lâu mới được khẳng định trong một văn bản luật về tôn giáo.
Trong khi đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng trở nên vô tích sự và phản cảm không kém. Từ khi có luật Lao động, tổ chức này đã chưa hề chủ động tổ chức một cuộc đình công hoặc lãn công nào cho công nhân, bất chấp vô số khó khăn và bất công trùm phủ lên đầu lớp công nhân vừa nghèo vừa đói cùng hàng ngàn cuộc đình công tự phát của công nhân nổ ra hàng năm.
Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để “khoanh vùng đối tượng” và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công.
Từ rất nhiều năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng đương nhiên trở thành một khâu trung gian hưởng ít nhất 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp. Số tiền không nhỏ này, cộng với khoản ngân sách mập mạp hàng năm, đã biến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành một gã trọc phú ngồi mát ăn bát vàng.
Chỉ đến gần đây khi chính thể Việt Nam không giấu nỗi nỗi thèm muốn Hiệp định TPP và bắt buộc phải dần chấp nhận định chế Công đoàn độc lập trong TPP, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam mới có chút hơi hướng thay đổi. Tuy nhiên cho đến giờ, tổ chức này vẫn hầu như chưa từ bỏ ý muốn tự nguyện là “cánh tay nối dài của đảng”.
Hầu như tương tự, một tổ chức chính trị – xã hội khác là Hội Nông dân Việt Nam đã không hề lên tiếng trước cảnh nạn hàng triệu nông dân bị mất đất, bị cướp đất và chịu rủi ro về những bất công đất đai. Trong bối cảnh nạn trưng thu đất đai quá bất công vọt lên từ 10-20 lần, thậm chí hàng trăm lần giữa giá bán lẻ ra thị trường và giá bồi thường mỗi mét vuông đất cho nông dân, Hội Nông dân Việt Nam đã trở thành một trong những tổ chức chính trị – xã hội “khiếm thính” và “khiếm thị” nhất, bất chấp không khí tang tóc của lớp nông dân bị bần cùng hóa tuyệt đối đè nặng trên mọi vùng đất nước.
Còn với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, hai tổ chức này chỉ chuyên chú tổ chức công tác “vận động” những người mang tinh thần phản kháng Trung Quốc không đi biểu tình với lý do “đã có đảng và nhà nước lo”. Thậm chí, một số cán bộ đoàn – được dư luận xã hội nhận dạng – còn trở thành những nhân viên công an không sắc phục khi theo dõi, tiếp tay cho công an bắt bớ người dân yêu nước…
Tự nhiên rút ngắn
Một trong những nguồn lực lớn nhất mà các tổ chức quần chúng công sử dụng là các khoản chi cho nguồn nhân lực. Theo Tổng cục Thống kê, vào năm 2012 Việt Nam có 246.144 người làm việc cho 34.378 cơ sở của tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước đãi ngộ theo chế độ.
Số cán bộ, công chức làm việc cho các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước trả lương chiếm 7,2% nhân lực làm việc cho nhà nước và 1,1% tổng lực lượng lao động xã hội. Nếu tính cả số cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường, thôn, xóm (hoạt động trong các tổ chức quần chúng công cấp cơ sở), tổng số người hoạt động trong lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế) ước tính vào khoảng 337.981 người.
Tổ chức VEPR đã tính toán với ước tính trung bình: tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công là 52.688,91 tỷ đồng, và ước tính thấp là 45.670,59 tỷ đồng. Với ước tính “lạc quan”, tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công năm 2014 ước bằng 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương 71.151,40 tỷ đồng.
Thế nhưng tình hình kinh tế hiện thời có lẽ đang ứng vào “ước tính thấp” của VEPR. Ngân sách khốn quẫn đang bị siết lại nhanh chóng và bầu sữa dành cho các tổ chức chính trị – xã hội cũng cạn kiệt nhanh không kém. Nghe nói một số nơi đã phải xài đến “quỹ đen”.
Bây giờ thì chẳng cần đến dư luận kêu gào, những cánh tay nối dài ấy vẫn tự nhiên bị rút ngắn.
Vậy họ – những cánh tay của đảng và vì đảng ấy – sẽ làm gì nếu “thất nghiệp”?
Trở về với nhân dân chăng?
Nhưng “nhân dân” nào?

Chuyện cái xe - cái miệng và … cái thằng

* XUÂN DƯƠNG
 Phải chăng, quan làm đến “thối móng tay”, quan phải đổ “mồ hôi, nước mắt” còn dân thì chắc là “nhởn nhơ” nên nước mới nghèo, mới nợ?
Nghe nói xe công thừa chỉ có 7.000 cái, nhưng nói thừa thì vô lý bởi các cơ quan vẫn đang đề nghị mua thêm vài trăm chiếc nữa. 
Nói vượt định mức theo quy định của Nhà nước thì chắc là vượt từ lâu lắm rồi, sao bây giờ mới phát hiện, sao bây giờ mới lên tiếng? 
Chỉ cần chúng ta sửa định mức một cái là xong, chỉ cần yêu cầu Bộ Tài chính ngừng cung cấp thông tin thì ai biết được, Nhà nước là chúng ta, chúng ta là Nhà nước, chẳng có gì phải ngại. 
Nuôi chừng ấy cái xe thừa, mỗi năm chỉ vài ngàn tỷ, cũng chỉ như một vụ thất thoát “nho nhỏ” chừng 2.500 tỷ ở chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Nam Hà Nội.
Lại nghe nói ông Trần Đức Thắng, Cục trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính) cho biết: “Cả nước hiện có gần 40.000 xe ôtô công, chưa bao gồm xe tại các đơn vị vũ trang, doanh nghiệp Nhà nước. Ước tính mỗi năm, chi phí nuôi xe công tốn khoảng 12.800 tỷ đồng”.
Xe công tất nhiên không phải để phục vụ dân thường, công chức, viên chức không phải ai cũng có quyền điều động, sử dụng xe công.
Vậy nên nói xe công là đặc quyền của lãnh đạo tuy chưa chính xác song không phải là không có lý. 
Mười hai nghìn tám trăm tỷ là gần 600 triệu đô la Mỹ, là gần một phần năm khoản vay 3 tỷ đô la Mỹ để đảo nợ nước ngoài. 
Thuế thì dân và doanh nghiệp góp, xe biển xanh chỉ dành cho quan. Khi quan xếp ô về ổ thì bác ở Bộ Văn đã thay mặt mấy “Bộ” trả lời hết sức rõ ràng, minh bạch, công khai, không dấu giếm, không vòng vo tam quốc, rằng cục nợ của các bác ấy “xin dành cho nhiệm kỳ sau giải quyết”.
Dĩ nhiên chẳng có “Bộ” nào đủ tầm giải quyết “cục nợ quốc gia” ngoài mấy bác công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, tiểu thương… tóm lại là lớp “kiến thợ” mà ta quen gọi là Dân.
Nếu Dân không muốn “giải quyết” chỉ còn cách … ngừng đẻ, bởi đứa bé vừa sinh đã là con nợ rồi.
Điều này khác hoàn toàn so với một nước bên châu Âu vì họ định “phát tiền miễn phí” cho tất cả công dân.
Chuyện “cái xe” nhiều vô kể, nào là biển xanh-biển trắng, biển tứ quý, nào là dàn xe “ăn giỗ giả - mừng quan thật”… thế nên chỉ kể chút xíu để bạn đọc còn thòm thèm!
Xin chuyển sang chuyện về “cái miệng”, trong vô số chức năng trời gắn cho cái miệng như “ăn; nói; uống; thở; thơm…” xin tập trung vào chủ đề “nói” dù có lúc phải “đá gà đá vịt” sang chủ đề “ăn”.
Vốn là thợ dạy nên chỉ tiếp xúc được với cỡ “quan xoàng”, những điều viết ra xin cam đoan không có “nửa tí” nào sai sự thật.
Cũng xin nói trước, rằng chuyên môn của người viết không phải là Chính trị và các lớp đã dạy cũng không phải là lớp Chính trị.
Một lần về dạy ở Trung tâm Chính trị huyện BQ, tỉnh miền núi HG, ra một quán nhỏ ăn sáng, thấy những thực khách mỗi người đều mang theo một chai “nước trắng”, phần lớn họ là cán bộ các phòng, ban của huyện. 
Việc đầu tiên là yêu cầu chủ quán pha vào chai một ít mật lợn, sau đó là đi vòng quanh “chào buổi sáng” các chiến hữu kể cả người không quen biết, chưa chào hết “chai nước” chưa về cơ quan. 
Theo quy định của trường, giáo viên khi kết thúc môn học sẽ gửi đề thi lại Trung tâm, lãnh đạo Trung tâm chịu trách nhiệm bảo quản. Giáo viên dạy môn tiếp theo sẽ cho sinh viên thi trước khi dạy môn học mới. 
Bữa nọ, một giáo viên phát hiện phong bì đề thi đã bị bóc nên kiên quyết không cho thi, Giám đốc gặp riêng đề nghị: “Cô Th… Phó Giám đốc bảo quản đề thi “không cẩn thận”, xin thầy “quân sư” giúp phương hướng giải quyết kẻo ảnh hưởng đến uy tín vì chúng em là trường Chính trị”. 
Đành phải “vẽ đường cho hươu”, rằng hãy điện về cho thầy giáo môn học, nói đề thi để trong văn phòng chẳng may bị “chuột cắn nát” xin thầy gửi “đề mới không trùng nội dung với đề cũ” để cho sinh viên thi. 
Một lần khác dạy tại Trung tâm Chính trị huyện MH, tỉnh đồng bằng HY, một hôm Giám đốc Trung tâm nói: “Lớp bồi dưỡng cán bộ trẻ các xã trong huyện tổ chức đi thực tế, nhân tiện thầy đang ở trung tâm mời thầy đi cùng các em cho vui, nơi đến là Đồ Sơn, cũng có một số muốn đi Nam Định nhưng em bảo tùy học viên lựa chọn, Trung tâm không can thiệp”?
Đành phải cảm ơn và từ chối vì còn bận chấm bài.
Ông Giám đốc Trung tâm tên là Th… thổ lộ: “Em có mấy thằng con trai, lo xong cho mỗi đứa mảnh đất rồi, bây giờ chuẩn bị nghỉ hưu, em có bằng lý luận cao cấp, thầy thấy chỗ nào cần giáo viên giới thiệu giúp để em tham gia giảng dạy”!
Về dạy tại Trung tâm Chính trị thị xã Móng Cái (nay là thành phố), cô Giám đốc khoe“em được cấp trên gợi ý về làm trưởng phòng của thị xã nhưng em từ chối rồi”. 
Hỏi vì sao thì nhận được câu trả lời: “Trung tâm em chỉ có 4 người, Giám đốc, Phó Giám đốc, kế toán và bảo vệ. Kinh phí hoạt động từ ngân sách đủ tiêu mà chẳng bao giờ bị chậm, lại thêm các khoản học viên “tự nguyện” đóng góp, không phải lo chạy ăn từng bữa, chả tội gì em về phòng”. 
Gần chục lần về dạy tại trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang, có lần xe đón là chiếc Toyota LandCruiser, chú lái xe tên là Tốn tâm sự: “Chiếc xe này là “của bác” Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy kiêm Hiệu trưởng, giá mua mới khoảng 800 triệu đồng. Đường miền núi, đi xuống các huyện toàn ổ gà phải dùng xe này mới không lo gầm thấp”. 
Đó là chuyện cách đây hơn 20 năm, bây giờ dòng xe này nghe nói giá bán khoảng hơn 2 tỷ đến gần 5 tỷ tùy loại.
Câu nói có tính bao quát nhất có lẽ là: "Việt Nam không thể đứng chót trong ASEAN như thế này". 
Đất nước đứng chót trong khi cán bộ phải làm việc “quá sức” có phải là nghịch lý? 
Một cựu lãnh đạo thanh tra Chính phủ tâm sự, ông phải lao động đến “thối cả móng tay”, còn một cán bộ cấp sở, con trai ông nguyên Bí thư Tỉnh ủy H.D thì bảo tiền của mình là “tiền mồ hôi, nước mắt, xuất phát từ trí tuệ, vận động cá nhân chứ không phải là dựa dẫm vào bất kỳ ai, vào mối quan hệ nào”. 
Thế là đã rõ, quan làm đến “thối móng tay”, quan phải đổ “mồ hôi, nước mắt” còn dân thì chắc là “nhởn nhơ” nên nước mới nghèo, mới nợ?
Còn một vị tiến sĩ - dân biểu, Phó Chủ nhiệm một Ủy ban của Quốc hội phát biểu:
“Tôi nghĩ rằng, bảo hiểm y tế dù tăng cũng chỉ bằng 2-3 bữa nhậu của người Việt Nam. Nếu chúng ta tiết kiệm hơn, tập trung cho vấn đề sức khỏe cũng sẽ không phải lo cuống cuồng chữa bệnh khi cần”.
Bữa nhậu bình dân, mèng ra cũng 200 – 300 nghìn đồng, tươi một tí thì tiền triệu, không biết ông tiến sĩ nọ định nói “bữa nhậu của người Việt”  là của “người Việt” nào?
Ngoài chuyện “nói” của hai ông Đại tá đã đề cập trong bài ““Quản” và không “quản” – ai chịu trách nhiệm?”, một ông khác đã nói rằng nên in toàn tiền 20.000 đồng để chống nạn phong bì
Phát biểu của ông khiến người ta ngỡ ngàng vì sự “độc đáo” nhưng cũng thích thú vì câu thành ngữ “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” nay có phiên bản mới: “Một ông “Đại” nói đã kỳ, ba ông “Đại” nói, củ mì … mọc tai”.
Về chuyện “cái thằng” thì không thể tùy tiện, chỉ xin giới hạn trong phạm vi bạn bè quen biết chứ tuyệt không dám ám chỉ người khác. 
Trong bài viết đăng trên Dân trí sáu năm trước (6/10/2011) có đoạn như sau: “Tôi có hai người bạn học cùng lớp ở đại học, ra trường hai anh về công tác ở Lạng Sơn. Nghe tin tôi lên thành phố dạy học các bạn đón về nhà ăn cơm. Quen như thời sinh viên chúng tôi xưng hô mày tao. Tôi bảo“tao phấn đấu mãi mà chưa có được cái nhà bằng một nửa của chúng mày”. 
Bạn tôi cười bảo: “Cái gì cũng có cái giá của nó, mày về hưu người ta vẫn gọi mày là thầy, chúng tao về hưu người ta gọi là thằng”. 
Tôi giật mình vì hai bạn tôi đều là người học giỏi và thành đạt, một là phó Ban Kinh tế tỉnh ủy, một là giám đốc sở Công nghiệp”. 
Cũng xin kể thêm là khi lên Lạng Sơn, tôi ngại nên không thông báo cho “hai thằng” bạn, không hiểu sao chúng biết.
Hóa ra trong lớp tôi dạy có một Bí thư tỉnh Đoàn, mấy lãnh đạo huyện và một phu nhân chủ tịch huyện.
Chồng của vị “phu nhân” này vốn là trò cũ học hệ chính quy nên thông tin tôi lên dạy đã được điều tra, cung cấp rất “chính xác, kịp thời” cho hai “thằng bạn”!
Hầu bạn đọc vài câu chuyện có thật như thế, chứ lượm lặt “những lời có cánh” của các “công bộc” có lẽ suốt đời người không hết, xin được ngừng bút.

ĐỂ CÁC THÀNH PHỐ CỦA TA THÊM PHẦN ĐÁNG SỐNG

 * NGUYỄN THANH GIANG
Nhiều thành phố lớn trên thế giới rất phồn hoa đô hội nhưng vẫn có nhiều chim trời. Ngồi trong các công viên lớn giữa Washington, Moskva, St Petersbourg hay Paris du khách thường bị từng đàn bồ câu hàng trăm con xà xuống sán đến tân chân vòi ăn...
Ngay giữa đường phố Washington nhiều phụ nũ đã bị chim xà xuống đậu lên tóc như đậu trong tổ của mình. Chính tôi hôm đang đi trên đường phố Amsterdam bỗng giật mình vì một chú chim (hình như chèo bèo) bay sướt qua mũi. Trong khuôn viên các trường đại học llinois, Texas A&M ở Hoa Kỳ, chồn cáo vào tận ban công kiếm ăn, dưới sân sóc chạy tung tăng hoặc chuyền thoăn thoắt trên các cành cây. Thành phố Bombay, Ấn Độ thì nhiều quạ đến phát sợ. Sớm sớm chiều chiều chúng kêu la inh ỏi ngay trong khuôn viên Đài Địa Từ trường Quốc gia…
Giữa Thủ đô Hà Nội, vào những năm 50 thế kỷ trước chim trời cũng không hiếm. Trên các ngọn sấu, cơm nguội xum xuê ở phố Lò Đúc, phố Phan Đình Phùng, … cò, vạc giỡn nhau quang quác, phân của chúng rơi trắng gốc cây.
Không kể chim rừng, chim trời trong các khu dân cư từng xuất hiện nhiều trong thơ ca Việt Nam: “Cái cò, cái vạc, cái nông/ Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò” (ca dao). “Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” (ca dao). “Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy” (Trần Đăng Khoa). “Le,vịt cùng ta như có ý/ Đi đâu thì cũng đi theo” (Nguyễn Khuyến).”Bầy sâm càm nhỏ vỗ cánh Mặt Trời”(Trịnh Công Sơn) “Đỗ quyên nay đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” (Nguyễn Du).”Giọt sương phủ, bụi chim gù/ Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi” (Nguyễn Gia Thiều) “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” (Bà Huyện Thanh Quan). “Tu hú ơi sao không về đây ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” (Bằng Việt). Đất nước thức ở trong hồn Nguyễn Đình Đình Thi vì có “Trời đầy chim và đất đầy hoa”.
Vắng tiếng chim môi trường âm thanh thiên nhiên quanh ta thiếu hẳn cung bậc thanh cao. Sáng dậy sớm dược nghe đôi going chim ca nơi đầu nhà hoặc văng vẳng từ xa, tâm hồn ta sẽ thư thái và trở nên thanh khiết. Tiếng chim giúp ta xả tresh, chống trầm cảm. Biết yêu hình dáng mảnh mai thon nhẹ, biết lắng nghe tiếng chim, con người sẽ trở nên tế nhị, tươi sáng, bớt cộc cằn thô bạo. Học sinh bớt sắn tay đánh hội đồng bạn gái. Thanh niên bớt rút dao đâm nhau chỉ vì một va chạm nhỏ trên đường. 
Hãy trả lại tiếng chim cho phố phường, làng mạc bằng các biện pháp:
  1 – Cấm ngặt săn bắt chim muông ở các khu dân cư
   2 – Dạy trẻ em biết yêu chim, biết thưởng thức tiếng chim
   3 – Thành lập “Hội bảo vệ và phát triển chim muông ở các khu dân cư”. Hội này lập dự án “Bảo vệ và Phát triển chim muông ở các khu dân cư” trình Nhà nước phê duyệt.
Kinh phí cho dự án không lớn nhưng cần có để: nghiên cứu các loài chim thích hợp, làm tổ và treo các giỏ thức ăn cho chim trên các cành cây trong công viên, dọc các đường phố …
Tôi năm nay đã ngoại Tám mươi. Cầu mong dự án trên sớm hiện thực hóa để ngày tôi ra đi, từ thế giới bên kia, khi nhớ về Trái Đất, tôi được đinh ninh rằng những nơi tôi hằng sống vẫn đầy tiếng chim.

Đảng Cộng sản phải biết ơn dân, thay vì bắt dân “ơn đảng”

* NGUYỄN TIẾN TRUNG
Sau mấy năm Hội cựu chiến binh không mời cha tôi đi họp thì sáng nay họ lại mời ba tôi ra. Buổi họp cựu chiến binh đã trở thành buổi đấu tố cha tôi đã không giáo dục được con cái là tôi.
Tôi không có thời gian nên không  viết dài dòng. Tôi chỉ muốn nói về cái lập luận quan trọng nhất của các Cựu Chiến Binh là nhờ ‎Đảng Cộng Sản họ mới có nhà cửa, lương hưu, trong đó có nhà tôi. Do đó tôi phải biết ơn đảng cộng sản.
Thứ nhất, tôi khẳng định là từ khi đảng cộng sản lên nắm quyền cho đến nay, người dân Việt Nam chưa bao giờ có ‪Quyền Làm Chủ, trong đó những quyền quan trọng nhất là quyền quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia qua trưng cầu dân ý, quyền phúc quyết ‎Hiến Pháp, quyền tự do ứng cử, tự do bầu cử để bầu ra lãnh đạo quốc gia, quyền sở hữu đất đai, tài sản của mình. Bao nhiêu máu xương đã đổ mà đến nay dân không có quyền làm chủ đất nước mà đảng lại bắt dân biết ơn đảng cộng sản là sao?
Thứ hai, đảng cộng sản đã thu hút người dân ủng hộ “sự nghiệp‎ Cách Mạng” của đảng bằng cách nêu cao ngọn cờ “‎Xã Hội Chủ Nghĩa” để đem lại ‪Bình Đẳng cho tất cả mọi người. Thế nhưng xã hội Việt Nam hiện tại đang đầy rẫy bất công, trong đó bất công lớn nhất là bất công ‎Chính Trị: chỉ một nhóm người được thành lập đảng để cai trị quốc gia mà không cần thông qua bầu cử, biến bầu cử thành hình thức. Các công dân khác lập đảng để ra ứng cử phục vụ quốc dân đồng bào thì bị vu khống là “lật đổ‪Chính Quyền“, bị đàn áp, sách nhiễu, bắt bớ. Từ bất công chính trị dẫn tới bất công xã hội, bất công kinh tế, bất công giáo dục,…
Các anh hùng liệt sỹ hi sinh để đem lại ‎Độc Lập‪Tự Do, bình đẳng cho từng người dân. Ai dám tuyên bố các cựu chiến binh chiến đấu hi sinh để cho một đảng độc quyền ‪Nhà Nước, đứng trên ‪Pháp Luật thì cứ vỗ ngực xưng tên cho các cựu chiến binh và toàn thể nhân dân ViệtNam “chiêm ngưỡng”.
Thứ ba, đảng cộng sản không hề có bất cứ tài sản gì để ban phát cho bất cứ ai. Nhà cửa, lương hưu của lực lượng vũ trang và cựu chiến binh đều lấy từ tiền thuế của dân. Những từ như “‪Quân Đội nhân dân”, “‪Công An nhân dân” là để nhắc nhở các ông nhớ điều đó.
Tiền hoạt động của đảng cộng sản lấy từ ngân sách nhà nước, tức là tiền thuế của dân. Do đó đảng cộng sản phải biết ơn dân chứ không phải ngược lại là bắt dân biết ơn đảng.
Thứ tư, giả sử đảng cộng sản có công gì đi nữa thì việc lợi dụng cái công lao đó để tự cho mình có quyền cai trị nhân dân Việt Nam đến muôn đời thì đó không còn là sự hi sinh nữa mà là sự lợi dụng, lạm dụng xương máu của đồng bào để mưu lợi cho một thiểu số cầm quyền.
Thứ năm, nếu các ông cựu chiến binh cho rằng nhờ có đảng cộng sản nên các ông mới có nhà cửa, lương hưu thì nếu như có một cái băng đảng mafia buôn ma túy cho tiền các ông thì các ông cũng trung thành với cái băng đảng tội phạm đó à? Vì cái lợi nhỏ trước mắt của cá nhân mình mà lờ đi bất công xã hội rộng khắp, nạn ngoại xâm đang lăm le, thì đó là cái thứ người gì? Tôi tin các cựu chiến binh cộng sản chân chính, liêm khiết, lý tưởng thật sự sẽ rất xấu hổ vì có những “đồng chí” như các ông. Bản thân tôi cũng quen biết rất nhiều với các cựu chiến binh chân chính như vậy.
Còn nhiều luận điểm các ông đưa ra và tôi cũng còn nhiều thứ để nói nhưng viết vậy cũng dài rồi. Nếu các ông cựu chiến binh ở khu vực tôi ở đủ dũng cảm, tự tin vào chính nghĩa của mình thì cứ tổ chức lên truyền hình đối chất với tôi, kiểu như VTV chất vấn MC Phan Anh. Cứ để cho người dân phán xét!

28 tháng 6, 2016

"THIỆN CHÍ' CỦA TRUNG QUỐC

Hồng Thủy (nguồn Tân Hoa Xã) 
Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 
HỒNG THỦY (NGUỒN TÂN HOA XÃ) 
(GDVN) - Thực chất bài báo này của Tân Hoa Xã là một sự thừa nhận công khai, Mao Trạch Đông chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974. 
Ngày 6/8 vừa qua, Tân Hoa Xã dẫn nguồn tin tờ Nhật báo Tế Nam giật tít: “Quyết định đánh trận cuối cùng trong đời Mao Trạch Đông: Đồng ý đánh Hoàng Sa” nói thẳng, việc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 là quyết định “đánh trận cuối cùng” của Mao Trạch Đông và là quyết định “đánh trận đầu tiên” của Đặng Tiểu Bình khi được phục chức.
"Quyết định đánh trận cuối cùng trong đời Mao Trạch Đông: Đồng ý đánh Hoàng Sa" Tân Hoa Xã xuất bản ngày 6/8 vừa qua dẫn nguồn Nhật báo Tế Nam. Hình ảnh phía dưới là Đặng Tiểu Bình (bên phải) chỉ huy tác chiến đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 
Trong thời điểm Biển Đông liên tục căng thẳng do những động thái leo thang lấn lướt trên thực địa Bắc Kinh đã và đang gây ra, phía Trung Quốc còn tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch truyền thông bóp méo sự thật về cái gọi là "chủ quyền" của Trung Quốc ở Biển Đông. Thực chất bài báo này của Tân Hoa Xã là một sự thừa nhận công khai, Mao Trạch Đông chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.
Nhằm rộng đường dư luận và cung cấp đến độc giả thông tin về các hoạt động tuyên truyền bóp méo sự thật về Biển Đông của truyền thông nhà nước Trung Quốc, xin trân trọng đăng tải một số nội dung chính trong bài báo này của Tân Hoa Xã.
Theo Tân Hoa Xã, năm 1974 Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình đã nhóm họp bàn mưu đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà hiện nay giới truyền thông nhà nước Trung Quốc vẫn đang bóp méo sự thật lịch sử với tên gọi “cuộc chiến phản kích tự vệ trên biển”?!
Mao Trạch Đông chỉ đạo quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 
Lúc này Mao Trạch Đông đã 81 tuổi, ông ta cũng tự thấy sức khỏe yếu hơn trước nhưng theo Tân Hoa Xã, đầu óc vẫn còn tỉnh táo và chính Mao Trạch Đông là người ra quyết định đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Tân Hoa Xã tuyên truyền, ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra cảnh cáo (phi lý, phi pháp – PV) đối với chính quyền miền nam Việt Nam là thực thể đang quản lý, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Theo đó, phía Trung Quốc nhận vơ Hoàng Sa, Trường Sa là của mình. Chính thể miền nam Việt Nam lúc đó đã bác bỏ thẳng thừng những cáo buộc phi lý, vô hiệu của Bắc Kinh.
Trước âm mưu của Bắc Kinh xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày càng lộ rõ, theo tài liệu tuyên truyền của Tân Hoa Xã, ngày 15/1/1974 chính thể miền nam Việt Nam lúc đó đã phái 3 tàu khu trục và một tàu hộ vệ ra nhóm đảo Lưỡi Liềm (gồm Trăng Khuyết và Nguyệt Thiềm) mà phía Trung Quốc gọi là Vĩnh Lạc thuộc quần đảo Hoàng Sa để tăng cường phòng thủ và dội pháo vào đảo Hữu Nhật (phía Trung Quốc gọi là Cam Tuyền), nơi phía Trung Quốc vừa cắm trộm cờ.
Tàu chiến Trung Quốc kéo ra đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (ảnh tư liệu được giới truyền thông Trung Quốc sử dụng tuyên truyền bóp méo sự thật về Biển Đông) 
Ngày 17/1/1974, các chiến hạm của miền nam Việt Nam đã giành lại quyền kiểm soát đảo Hữu Nhật và Quang Ảnh (phía Trung Quốc gọi là Kim Ngân). Ngay trong đêm 17/1/1974, Chu Ân Lai nhận báo cáo tình hình từ Trường Lý Lực, Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân Trung Quốc, sau đó cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa.
Mao Trạch Đông phê vào bản báo cáo của Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh: “Đồng ý!”, đồng thời nói thêm, “trận này không thể không đánh”. Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Thời điểm này Đặng Tiểu Bình mới được phục chức sau 7 năm đi "cải tạo" đã lập tức bắt tay vào chỉ huy đánh chiếm Hoàng Sa. 10 giờ 25 phút sáng 19/1 quân Trung Quốc nổ súng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. 11 giờ 32 phút cùng ngày, quân Trung Quốc tăng viện và bắn chìm chiến hạm hải quân miền nam Việt Nam.
Tàu chiến Trung Quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (ảnh tư liệu truyền thông Trung Quốc sử dụng để tuyên truyền bóp méo sự thật lịch sử Biển Đông) 
Theo tuyên truyền của Tân Hoa Xã, trong trận hải chiến này 4 chiến hạm Trung Quốc bị bắn trúng, 18 lính Trung Quốc bị bắn chết, 67 lính bị thương. Đặng Tiểu Bình được Tân Hoa Xã miêu tả, lúc đó đang “ngồi hút thuốc thơm” tại sở chỉ huy Bắc Kinh, sau khi nghe báo cáo tình hình đã chỉ thị cho đại quân khu Quảng Châu tiếp tục đánh chiếm các đảo Hoàng Sa, Hữu Nhật và Quang Ảnh.
Cũng trong bài báo này, Tân Hoa Xã cho biết, sáng sớm ngày 14/3/1988 quân Trung Quốc đã bất ngờ tấn công Đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam và chiếm đoạt bãi đá này. Từ năm 1988 đến nay, quân Trung Quốc đặt lực lượng chốt giữ tại đây để phục vụ âm mưu độc chiếm biển Đông thành ao nhà.
* Trích dẫn, đăng tải lại toàn bộ hoặc một phần thông tin từ bài viết này phải chịu trách nhiệm và ghi rõ "theo báo Giáo Dục Việt Nam" hoặc "theo Giaoduc.net.vn". Box thảo luận ở phía dưới là diễn đàn để độc giả gửi comment, đánh giá, nhìn nhận và chia sẻ ý kiến. Báo Giáo Dục Việt Nam luôn đón nhận các ý kiến khách quan, có tính chất xây dựng, tôn trọng pháp luật, thuần phong mỹ tục... của tất cả bạn đọc gửi về. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu để quá trình biên tập và đăng tải được thuận tiện. Chân thành cảm ơn độc giả! 




Tham nhũng quyền lực

Nói đến tham nhũng phần đông mọi người nghĩ ngay đến tiền - vàng - đô la, những món có thể trao tay nhanh chóng dễ dàng. Chính vì thế mới có người đề nghị từ nay chỉ in tiền có mệnh giá nhỏ, dưới 20.000 đồng như một biện pháp chống tham nhũng!
Tuy nhiên, chính tham nhũng quyền lực mới là một dạng tham nhũng phổ biến nhất, ở nhiều tầng nấc nhất và cũng khó chống nhất.
Trong các vụ việc cha bổ nhiệm con hay nói cho đúng cha tạo điều kiện để con được bổ nhiệm vào những vị trí rồi cũng có quyền lực thì dù cho có đúng quy trình, dù luật pháp chưa lường hết để ngăn chặn thì các vụ việc như thế chính là biểu hiện của sự tham nhũng quyền lực.
Cán bộ nhà nước, ở bất kỳ cương vị nào, cũng được Nhà nước trao cho một số quyền lực để hành xử chức trách Nhà nước giao phó. Bất kỳ ai lạm dụng cái quyền lực đó để tư lợi, sử dụng cái quyền lực đó không cho công việc mà cho chính bản thân mình hay gia đình mình, người đó đang tham nhũng quyền lực.
Và trong thực tế đâu chỉ có chuyện lạm dụng quyền lực một cách trực tiếp, dễ bị phát hiện. Cảnh sát giao thông thổi phạt người vi phạm luật giao thông nhưng bỏ túi vài trăm ngàn chứ không lập biên bản là một dạng tham nhũng quyền lực cò con, dễ bị phát hiện. Phức tạp hơn sẽ có sự đổi chác để quyền lực được ban phát cho một bên nhìn qua thì không hưởng lợi gì nhưng sẽ được đổi lại để từ một nơi khác quyền lực lại ban phát một cách “vô hại”. Hai cái “vô hại” như thế rồi sẽ tự “cân đối” lợi ích cho nhau - từ đó mới đẻ ra nhóm lợi ích!
Chính vì thế con đường cha bổ nhiệm cho con chỉ là một bước trên đại lộ tham nhũng quyền lực gián tiếp; nó có thể đơn giản là số cổ phiếu được chia hay quyền mua cổ phiếu, quyền mua căn hộ, đến phức tạp hơn một chút là dàn xếp học bổng cho con cái đi học ở các trường đắt tiền ở nước ngoài. Từ đó đến có tên trong các danh sách như kiểu hồ sơ Panama đâu có gì là xa.
Tình trạng tham nhũng này ai cũng thấy, ai cũng lên tiếng tỏ rõ quyết tâm muốn dẹp. Giải pháp cũng có nhiều, kể cả chuyện in tiền mệnh giá nhỏ... Nhưng kết quả cụ thể chưa được bao nhiêu trừ một số vụ được phát hiện gần đây.
Con đường đơn giản nhất để chống lại tham nhũng nằm ngay trong khái niệm đưa ra ở đầu bài: quyền lực. Nếu không có quyền lực, người ta không thể tham nhũng và cũng chẳng ai chạy chọt với kẻ không có quyền lực.
Nhưng Nhà nước cũng không thể vận hành nếu không trao quyền cho cán bộ để thay mặt Nhà nước mà hành xử. Vì thế con đường duy nhất là kiểm soát quyền lực - tức là trao quyền lực nhưng quyền lực đó sẽ bị giám sát chặt chẽ từ nhiều phía. Thứ nhất phải loại bỏ hết mọi “ngoại lệ”, tức dùng các biện pháp không có trong hệ thống luật pháp để can thiệp vào sự vận hành của bộ máy công quyền. Hiện nay tính song trùng của bộ máy tạo ra những khe hở mang tính can thiệp như thế và làm vô hiệu hóa các công cụ kiểm soát luật định.
Thứ hai phải hiểu vai trò giám sát của người dân thông qua báo chí không phải là chuyện muốn thì làm, không muốn thì gia giảm. Đó là một cơ chế mà nhân loại đã dày công xây dựng thì phải để nó phát huy tác dụng.
Tính giám sát lẫn nhau của, chẳng hạn, đại biểu Quốc hội chất vấn việc bổ nhiệm sai luật; bên tòa án không màng đến sự can thiệp của ông chủ tịch tỉnh để vẫn xử công minh một ông phó chủ tịch tham ô... phải được tôn trọng. Các chỉ đạo loại như thủ trưởng cơ quan hành chính bảo bên tòa phải xử mạnh tay vào là hỏng cái tính giám sát lẫn nhau đó.
Tinh thần của kiểm soát quyền lực nói cho cùng là sự bắt buộc của một cơ chế, trong đó từ cấp cao nhất tự đặt mình dưới những ràng buộc giúp bản thân mình và bộ máy bên dưới có muốn tham nhũng quyền lực cũng không làm được. Và sự thành công của việc kiểm soát quyền lực phải dựa vào việc xây dựng luật lệ, cơ chế, thể chế để ai nấy dựa vào đó mà hành xử chứ không phải chỉ dựa vào đạo đức của người đứng đầu.
Nguyễn Vạn Phú

Từ 1-7, quan tham hạ cánh đừng mơ an toàn

Tác giả: Cù Tất Dũng (Ban Nội chính Trung ương) 
KD: Vâng, nhưng ở VN còn có câu, con đường dài nhất không phải từ Mục Nam Quan tới Mũi Cà Mau mà là từ lời nói đến hành động. 
——– 
Ngày 1-7-2016, Bộ luật hình sự năm 2015 sẽ có hiệu lực với một số quy định mới thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tham nhũng, rõ nhất là việc các “quan tham” sẽ không còn được “hạ cánh an toàn”. 
Trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm hai tội vào các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là: tội tham ô tài sản (theo khoản 3 và khoản 4, điều 353) và tội nhận hối lộ (theo khoản 3 và khoản 4, điều 354). 
“Quan tham” sẽ 
không còn ung dung 
Với điều luật đã được bổ sung thêm này, người phạm tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ không được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. 
Nghĩa là đối với tội phạm này, bất kỳ thời điểm nào phát hiện được tội phạm là có thể xử lý hình sự, kể cả khi người phạm tội đã về hưu, nghỉ việc. 
Đây là một quy định mới, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tham nhũng. Thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp chỉ sau khi về hưu mới phát hiện được sai phạm. 
Trước đây, người có sai phạm thường cho rằng mình đã “hạ cánh an toàn”, đến lúc về hưu mới bung tài sản ra thì không ai làm gì được mình. 
Khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực, những quan tham đã “hạ cánh” đang ung dung, nhởn nhơ ngồi hưởng thụ sau khi đã tham nhũng sẽ phải giật mình, sẽ như “ngồi trên đống lửa” với nỗi lo các “tay chân” của mình tố giác hành vi tham nhũng trước đây. 
Quy định này cũng sẽ làm cho những người đang muốn thực hiện hành vi tham nhũng e sợ cho tương lai sau này của mình là đến khi đang an hưởng tuổi già, khi sức yếu mà vẫn phải ra đứng trước vành móng ngựa, để rồi họ không dám nghĩ, dám làm những hành vi mà xã hội gọi là “quốc nạn”, là “giặc nội xâm”. 
Nói khác đi, việc một cá nhân về hưu hay dù ở cương vị nào, cao đến mấy mà vi phạm pháp luật cũng bị trừng trị nghiêm khắc sẽ đánh động, làm thức tỉnh những người khác để ngăn họ phạm tội. 
Ông Cù Tất Dũng – Ảnh: T.G. 
Thu hồi tối đa tài sản tham nhũng 
Trong Bộ luật hình sự 2015 cũng có điều khoản khuyến khích người phạm tội tham nhũng bị án tử hình khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho Nhà nước. 
Điều 40, khoản 3, mục C của bộ luật này quy định: người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì sẽ không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân. 
Điều luật này đã được thông qua với tỉ lệ tán thành chưa đến 70% và như vậy là có đến hơn 30% số đại biểu Quốc hội không tán thành. 
Bên cạnh đó, dư luận xã hội cũng còn băn khoăn với việc những kẻ tham nhũng vẫn giữ lại được 25% số tài sản chiếm đoạt được cho người thân thụ hưởng mà vẫn không mất mạng. 
Tuy nhiên, mục đích mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra trong cuộc chiến chống tham nhũng là phải xử lý nghiêm kẻ tham nhũng, đồng thời phải thu hồi tối đa tài sản tham nhũng để trả lại nguồn lực cho đất nước phát triển. 
Cuộc chiến chống tham nhũng bị coi là thất bại khi không thu hồi được tài sản tham nhũng. Chúng ta không nên xem việc chống tham nhũng chỉ như một biện pháp mang tính hình sự nhằm trừng trị người phạm tội. 
Nếu tử hình để mất đi hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng của Nhà nước, của nhân dân thì chi bằng chúng ta tạo cơ hội để tội phạm tham nhũng có khả năng tự cứu bản thân khỏi án tử hình. 
Việc giảm bớt án tử hình cũng phù hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, phù hợp với xu thế chung của thế giới và thể hiện được rằng xã hội ta đang văn minh hơn khi biết quý mạng sống của con người, ngay cả khi người đó đã gây tội ác. 
Một xã hội văn minh sẽ dẫn đến các vấn nạn như tham nhũng, hối lộ, giết người, cướp của giảm dần. Còn về 1/4 số tiền tham nhũng còn lại, liệu vợ, chồng, con cái của những kẻ tham nhũng có ung dung hưởng lạc được không khi mà người thân của họ phải trả giá bằng mức án chung thân trong các trại giam? 
Khuyến khích tố giác tội phạm 
Bộ luật cũng quy định những người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, nhận hối lộ có sự hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn sẽ có cơ hội giúp thoát khỏi án tử hình. 
Điều này sẽ khuyến khích được người phạm tội tố giác tội phạm tham nhũng vì thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy nhiều bị can, bị cáo thực hiện hành vi tham ô tài sản và nhận hối lộ không chỉ có một mình mà theo chỉ đạo, điều hành tập thể lãnh đạo đơn vị và có cả sự chỉ đạo của lãnh đạo ở cấp cao hơn.

26 tháng 6, 2016

VIỆT NAM TỨ BỀ THỌ ĐỊCH – NẾU KHÔNG LIÊN MINH VỚI MỸ SẼ MẤT NƯỚC VỀ TAY TRUNG QUỐC TRONG NAY MAI

Trần Mạnh Hảo
Nước Nga của “đại đế” Putin đã chính thức ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, như một mũi dao đâm sau lưng “bạn vàng Việt Nam” một thuở.
Chưa hết, hai “ông em ruột” của Việt Nam là Lào và Cămphuchia cũng đứng hẳn về phía Trung Quốc, gián tiếp ( ngầm) ủng hộ đường lưỡi bò của bọn giặc Trung cộng…
Than ôi, Việt Nam từng moi ông Hunsen từ trong túi quần của bè lũ Pôn Pốt để dựng ông này lên thành “lãnh tụ” hôm nay, hi sinh cả mấy vạn sinh mạng “bộ đội tình nguyện” và tiêu tốn hàng tỉ đô la cho chế độ bạn vàng Hunsen để hôm nay ông này thọc lưỡi dao Trung Quốc vào sườn tây nam đất nước.
Việt Nam cũng đã hi sinh nhiều vạn “bộ đội tình nguyện” và hàng tỉ đô la từ kháng chiến chống Pháp đến hôm nay cho nước Lào đỏ. Nay Lào miệng thì vẫn hô Việt Nam là ruột thịt số một, nhưng đứng hẳn về phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, gián tiếp thọc lưỡi dao vào sườn Tây tổ quốc.
Nếu Trung Quốc phát động chiến tranh đánh cướp đảo và đất liền Việt Nam, chắc chắn hai “ông em ruột” Miên – Lào sẽ cho Trung Quốc mượn đất và hợp tác với giặc Tầu bao vây toàn diện nước ta, hòng cho Việt Nam vào rọ thép không đường thoát.
Như vậy , chiến lược ngoại giao của nhà nước Việt Nam : “ làm bạn với tất cả các nước, không liên minh với nước này để chống lại nước khác” đã hoàn toàn thất bại.
Chưa bao giờ Việt Nam bị cô lập như bây giờ, hoàn toàn không có “bạn vàng” hoặc ông lớn nào giúp đỡ bảo vệ khi Trung Quốc tiến đánh.
Cũng chưa bao giờ vận mệnh dân tộc, tổ quốc nguy nan, nghìn cân treo sợi tóc như hôm nay. Buộc người dân yêu nước phải lo lắng và lên tiếng.
Rằng đúng như lời ông Lê Duẩn ( kẻ chống Trung Quốc triệt để nhất) đã nói đại ý : Trung Quốc không chỉ là kẻ thù truyền kiếp của cha ông ta trong quá khứ mà còn là kẻ thù nguy hiểm nhất mãi mãi về sau vì nó không bao giờ bỏ mộng chiếm Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á…

Nhìn vào những diễn biến gần đây trên Biển Đông và trong nước, không cần nhậy cảm cũng có thể biết Trung Quốc sẽ tiến đánh Việt Nam trong nay mai, hòng chiếm tất cả các đảo Trường Sa của Việt Nam, cấm Việt Nam và thế giới bay vào vùng trời lưỡi bò của chúng vẽ ra, trong thời cơ thuận lợi Mỹ đang bận bầu cử tổng thống.
Ngày 17-2-1979 Trung Quốc đã mang hàng chục vạn quân bất ngờ đánh vào dọc tuyến biên giới phía Bắc nước ta nhưng bạn vàng Liên Xô ( ngầm ký kết liên minh quân sự với Việt Nam) vẫn bình chân như vại, không hề làm động tác giả động binh trên biên giới Xô – Trung.

Trong thời gian cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược ấy, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài báo chống Trung Quốc, vạch ra cơ man tội ác của bọn xâm lược phương Bắc với nước ta được in trên các báo : Nhân Dân, Quân Đội nhân dân, Công an nhân dân, Tiền Phong, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng…
Rằng chính Trung Quốc đã phá hỏng cuộc kháng chiến chống Pháp của ta. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp gần như phải hàng thì Trung Quốc ép ta ký hiệp định đình chiến Geneve, đến nỗi ngoại trưởng Phạm Văn Đồng phải vừa khóc vừa ký…Như vậy Việt Nam đâu phải quốc gia độc lập ? Độc lập sao được khi ta đã thắng giặc Pháp sau Điện Biên Phủ, Pháp sắp đầu hàng, lại phải khóc nghe lệnh Trung Quốc ký hiệp định Geneve chia đôi đất nước ?
Rằng trước ngày 30-4-1975, khi Sài Gòn bị Cộng quân bao vây tứ phía, Trung Quốc vẫn nhờ sứ quán Pháp móc nối với ông Dương Văn Minh, hứa nếu ông Minh lên tiếng yêu cầu, Trung Quốc sẽ cho triệu quân đổ bộ vào Sài Gòn cứu Việt Nam cộng hòa, đánh tan năm cánh quân Việt cộng đang bao vây đô thành…
Trung Quốc rất sợ Việt Nam thống nhất, chúng muốn bắt Bắc Việt làm lính đánh thuê cho chúng mãi mãi như lời Mao Trạch Đông : “ chúng ta sẽ đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Ông Lê Duẫn cũng từng nói toẹt ra : “Chúng ta đánh Mỹ cho Liên Xô và Trung Quốc”.
Chiến lược ngoại giao của đảng CS VN từ những năm 50 của thế kỷ trước dựa hẳn vào Liên Xô Trung Quốc, tự mình chui vào cái rọ của chúng, được chúng nuôi bằng quá nhiều tiền, dùng tiền để sai khiến, đưa máu Việt Nam ra làm phương tiện cho mục đích bá quyền của hai đế quốc Xô-Trung đã hoàn toàn thất bại.
Trung Quốc ngay từ thời “Trung Hoa Dân quốc” trước năm 1949 của Tưởng Giới Thạch đã vẽ bản đồ lưỡi bò, toan tính chiếm hết Biển Đông của mấy nước Đông Nam Á : Việt Nam, Philippin, Indonesia, Malaisia…
Năm 1949, Mao Trạch Đông chiến thắng Tưởng Giới Thạch, tiếp nhận bản đồ lưỡi bò của Tưởng, nhất quyết chiếm Biển Đông. Bọn Hán tặc mới này biết rằng nếu vẫn để Mỹ đứng chân ở miền Nam Việt Nam thì mãi mãi chúng không dám xía vào vùng biển mà chúng gọi là lưỡi bò này.
Phải tìm cách đuổi Mỹ đi nên Mao đã chọn Việt Nam làm con bài, chọn xương máu Việt Nam để thực thi ý đồ chiến lược của chúng là chiếm Việt Nam và chiếm toàn bộ Đông Nam Á, bằng cách bày ra trò “giải phóng miền Nam” để Việt Nam làm tiên phong trên bàn cờ bá quyền của chúng. Chúng viện trợ hết cỡ cho Việt Nam, bốc các ông lãnh đạo CS VN là anh hùng thời đại, dám đánh Mỹ cứu mình và cứu thế giới. Do đó Tố Hữu mới làm thơ như sau : “ Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”, “Vui sướng bao nhiêu trên tuyến đầu diệt Mỹ”…
Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam. Năm 1974, Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lúc này Mỹ đã chơi con bài Trung Quốc để bao vây Liên Xô; vì Mỹ đã thua con bài Trung Quốc là Việt Nam : đánh mãi không thắng !
Không thực hiện được việc chia đôi đất nước Việt Nam vĩnh viễn, Trung Quốc vô cùng căm thù ban lãnh đạo Việt Nam dám thống nhất đất nước, bèn dùng bọn tay sai Pôn Pốt, Iêng xa ri , sai bọn ác ôn Cămpuchia này mở cuộc chiến tranh đánh vào sườn Tây Nam đất nước gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam.
Trung Quốc dìm Việt Nam trong biển máu chiến tranh với Khơ me đỏ, để năm 1979 chúng tổng tấn công, đánh toàn diện biên giới phía Bắc gây ra núi xương sông máu cho nhân dân Việt Nam. May mà cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, Việt Nam chống cự mãnh liệt, khiến Trung Quốc của Đặng Tiểu bình bị thiệt hại quá mức nên chúng phải rút.
Năm 1990, thấy tình hình cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam bí mật “hàng” Trung Quốc bằng hiệp ước Thành Đô mờ ám…Trung Quốc chỉ dùng vũ khí có tên là chủ nghĩa cộng sản mà không cần dùng xương máu đã thâu tóm được Việt Nam trong cái thòng lọng có tên là “ bốn tốt và mười sáu chữ vàng”…
Năm 1988, Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của Việt nam ( là một đảo lớn trên quần đảo Trường Sa của VN)…Đoạn, Trung Quốc liên tục chiếm các đảo đá ngầm bồi đắp đất làm các đảo nhân tạo trên vùng biển của Việt Nam, đưa máy bay và vũ khí ra các đảo mới chiếm tuyên bố sẽ mở vùng nhận dạng phòng không ( ADIZ) trên biển Đông, khóa hẳn đường ra biển của Việt Nam. Mối quan hệ hữu hảo giữa Việt Cộng và Trung cộng hiện nay chỉ bằng lỗ miệng, còn thực chất vẫn là chiến tranh ngầm, chiến tranh không tuyên bố…
Giờ đây, việc Trung Quốc sắp mở vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông sẽ là lời tuyên chiến với Việt Nam.
Việt Nam không liên kết với Mỹ, sẽ mất nước trong nay mai. Nếu không có Mỹ liên tục đưa tàu đến Biển Đông để tuần tiễu, Việt Nam đã bị bạn vàng Thành Đô là bọn xâm lược Trung Quốc chiếm lâu rồi.

Sài Gòn ngày 25-6-2016

Trang