Nguyễn Đình Cống
Đối ngoại và đối nội không phải chỉ là
hoạt động của Quốc gia mà là của mọi tổ chức, mọi gia đình, mọi con
người. Có 2 loại người với xu hướng khác nhau, hướng nội và hướng ngoại.
Thông thường người hướng nội quan tâm nhiều đến đối nội, người hướng
ngoại thích thú với đối ngoại hơn. Nhưng hướng về một phía nhiều quá sẽ
thành cực đoan, không tốt. Vấn đề là giữ được quan hệ, giữ được cân bằng
giữa hai lĩnh vực này.
Ngẫm nghĩ cho kỹ thấy rằng đối nội là
gốc gác, cách gì cũng phải có. Vì vậy đối ngoại phải xuất phát từ đối
nội và phục vụ cho đối nội. Trong hai việc, nếu bắt buộc phải ưu tiên
cho một việc thì người khôn ngoan sẽ chọn đối nội, phải làm tốt đối nội
mới có cơ sở vững chắc để đối ngoại. Ngược lại những người mắc “bệnh sĩ”
sẽ chọn đối ngoại. Họ quá xem trọng hình thức và lời khen chê của mọi
người, cố làm ra vẻ ta đây sang trọng, giỏi giang. Ca dao VN có bài nhận
xét về loại người này: “Ra đường võng giá nghênh ngang/ Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mày…”.
Bệnh sĩ của một con người đã tai hại,
bệnh sĩ của một dân tộc, một đất nước càng tệ hại hơn. Nhưng nói bệnh sĩ
của dân tộc có lẽ không đúng mà là của những người lãnh đạo, quản lý
rồi lây lan ra trong xã hội. Khi đối nội chưa được tốt mà muốn khuếch
trương đối ngoại để được nhiều tiếng khen thì buộc lòng phải tìm cách
che giấu những thói hư tật xấu, che giấu những tệ nạn gặp phải. Như thế
là phạm vào tội dối trá.
Các nước đều rất quan tâm đến ngoại
giao. Tuy vậy cũng có một số nước ít quan tâm, họ chú trọng nhiều hơn
đến đối nội. Bhutan là một trong những nước như vậy. Ở đó nhân dân được
hưởng nền tự do, hạnh phúc vào loại bậc nhất của Châu Á và Thế giới,
nhưng trong nhiều năm trước đây (và ngay cả bây giờ) Bhutan có rất ít
quan hệ ngoại giao với các nước, đặc biệt không quan hệ với Trung Quốc,
mặc dầu 2 nước có biên giới chung khá dài.
Trong hơn 70 năm qua, đối ngoại của
Chính phủ Việt Nam có nhiều thành tích tốt đẹp và cũng phạm phải nhiều
sai lầm, thất bại. Thành tích đã được nói và viết nhiều, tôi không phủ
nhận, chỉ xin không viết lại. Vì là ý kiến phản biện nên chỉ viết về một
số việc được cho là thất bại hoặc sai lầm. Không biết trong các tài
liệu mật Chính phủ có tổng kết về chúng hay không, còn công khai không
thấy nói đến, hoặc chỉ nói chung chung. Tôi chỉ muốn kể ra và phân tích
một vài điều để ai cần thì rút ra bài học và kinh nghiệm.Tôi không làm
trong ngành ngoại giao, những điều tôi kể ra chỉ được thu thập từ thông
tin đại chúng.
Thất bại buổi đầu.
Trong thời gian dài trên 5 năm, sau 1945, không có nước nào hưởng ứng
lời kêu gọi trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng
tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc
bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không
công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Tiếp theo là sự im lặng
của Tổng thống Mỹ khi nhận những bức thư cầu xin, mặc dầu Chủ tịch Hồ đã
tìm mọi cách ca ngợi Mỹ, trông chờ vào Mỹ. Tại sao vậy ?. Chính nghĩa,
thiện chí, thông minh của chúng ta để ở đâu mà bên ngoài nhìn vào người
ta không thấy, không công nhận. Phải chăng là tại sự chống phá của các
thế lực thù địch và phản động. Tôi nghĩ rằng sự chống phá cũng có nhưng
cơ bản nhất là tại Đảng Cộng sản phạm sai lầm trong việc tuyên bố tự
giải tán rồi rút vào hoạt động bí mật. Đó là một mưu đồ lừa dối thiên
hạ. Đó là sản phẩm của những đầu óc kém trí tuệ, chỉ quen dùng mưu mẹo
trong những việc như đánh du kích và cướp của, cướp quyền. Người ta thừa
biết anh dối trá, lừa gạt thì làm sao người ta công nhận anh được, làm
sao người ta giúp anh được.
Hiệp ước với Pháp. Sai
lầm tiếp theo là không tạm nhường Nam Bộ cho Pháp vào năm 1946.Việc này
được cho là ý chí kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, được nhiều người
ca ngợi. Theo Hiệp ước Nhà Nguyễn ký với Pháp thì Nam kỳ là nhượng địa
chứ không phải thuộc địa hoặc bảo hộ. Tháng 7/ 1945 Chính phủ Trần Trọng
Kim thu hồi, tháng 9/ 1945 Pháp đòi lại, ta không chịu trả mới xẩy ra
Nam bộ kháng chiến. Nếu khôn ngoan ra, tạm nhường vài năm rồi cũng sẽ
thu hồi được. Vụ cố giữ cho được đất Nam kỳ là thuộc loại “Tham bát bỏ
mâm “vì phải kháng chiến 9 năm và mất 20 năm chia cắt với không biết bao
nhiêu xương máu và thù hận để thống nhất. Cuối cùng thống nhất được
lãnh thổ trong sự chia rẽ dân tộc, cái giá phải trả quá đắt.
Hiệp định Genève. Hiệp
định chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 17. Nghe kể rằng Phạm Văn Đồng phải
lau nước mắt khi ký. Chúng ta tính rằng nếu phải tạm thời chia cắt thì
ranh giới ở vĩ tuyến 14. Nếu đấu tranh quá căng mà phải lùi thì cũng
không thể đến vĩ tuyến 16. Nhưng rồi bị sức ép của Chu Ân Lai mà Phạm
Văn Đồng ngậm đắng nuốt cay chấp nhận vĩ tuyến 17. Đây là do kết hợp
giữa 2 yếu tố: sự đểu cáng của Chu và sự hèn yếu của Phạm. Nếu so với
những sứ thần của VN trong lịch sử như Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Đỗ
Khắc Chung, Lê Quý Đôn, Phùng Khắc Khoan… thì Phạm Văn Đồng kém xa. Ông
Đồng kém vì thiếu dũng khí trước Chu Ân Lai và Môlôtôp, và cũng tại vì
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản VN mắc nợ người ta quá nhiều, chịu lệ thuộc
quá nhiều. Phải làm theo lệnh nước ngoài thì có khác gì chính phủ bù
nhìn.
Đuổi đại sứ Mỹ. Sai lầm
ngoại giao một cách ngờ nghệch mà tưởng là anh dũng và thông minh là
việc đuổi đại sứ Mỹ ở Sài gòn ngày 30/4/1975 bỏ chạy bằng máy bay trực
thăng. Khi quân giải phóng tiến vào Sài gòn ngày 30 tháng 4, Đại sứ Bân
cơ cho nhân viên ra đi trước, còn mình ở lại đến phút cuối cùng. Ông ta
chờ một lời mời ở lại. Lời mời đó đã không có để rồi VN phải mất 20 năm,
chịu không biết bao nhiêu sự cấm vận, cực khổ mới nối lại được. Đó là
sai lầm của những người thừa kiêu ngạo mà thiếu trí tuệ.
Hội nghị Thành Đô. Sai
lầm nguy hiểm là Hội nghị Thành Đô 1990. Ba nhân vật chủ chốt hồi đó là
Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười thay mặt Đảng Cộng sản và Nhà
nước VN đã cúi đầu nhận thần phục Trung cộng. Theo Nguyễn Cơ Thạch (Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao hồi đó) thì với hội nghị này VN sắp bước vào thời
kỳ Bắc thuộc mới đầy nguy hiểm. Đó là hành động ngoại giao đầu hàng.
Thuật đu dây. Hiện nay
nhiều người cho rằng VN đang thực hiện thuật đu dây giữa Mỹ và Trung
Quốc. Người này cho là đúng, là hay, ngươì khác lại phê là sai, là dở.
Xem qua lịch sử vài ngàn năm của các nước thấy rằng, đã có những nước
giữ được ổn định và phát triển nhờ thuật này, nhưng cũng nhiều nước vì
đu dây mà lâm vào cảnh lên bờ xuống ruộng, đẩy nhân dân vào cảnh lầm
than. Nước Trịnh thời Xuân Thu (Đông Chu Liệt Quốc) là một thí dụ. Để sử
dụng có hiệu quả thuật đu dây cần phải có một số điều kiện. Thế mà theo
tôi VN đang thiếu các điều kiện đó.
Tạm kể một vài sai lầm và thất bại điển hình, còn có thể kể ra nhiều nữa, nhưng tạm dừng để bàn thêm chuyện khác.
Điều quan trọng trong ngoại giao (cũng
như trong các quan hệ khác) là phải biết mình, biết người, phải tôn
trọng phương châm đối ngoại trên cơ sở của đối nội và phục vụ cho đối
nội, đối với các nước bạn bè phải trung thực, chân thành, hạn chế đến
xóa bỏ bệnh sĩ.
Về biết mình. Trong
nhiều năm chúng ta tự đánh giá quá cao, như là lãnh đạo vô cùng sáng
suốt, nhân dân vô cùng anh hùng, rồi tự huyễn hoặc, tự vẽ phấn tô son.
Biết đâu rằng thực chất trong nhiều năm, VN chỉ là anh lính xung kích
của phong trào cộng sản, mà cụ thể là nằm dưới sự điều khiển của Trung
Quốc.
Tự hào là một nước nhỏ mà đánh thắng 2
đế quốc lớn. Thực ra có phải như thế đâu. Trong chiến tranh ta chỉ là
anh lính xung kích, đánh Mỹ thay cho Liên Xô và Trung Quốc. Ta bắn rơi
được vài ngàn máy bay Mỹ, giết được vài vạn lính Mỹ thì ngược lại Mỹ
cũng gây ra cho ta những thiệt hại nặng nề hơn về của và người. Ta nói
Mỹ vào xâm lược VN, ta đã đánh thắng và đuổi đi. Mỹ nói họ vào để ngăn
chặn tên lính xung kích của cộng sản Trung Quốc lan xuống vùng Đông Nam
Á. Nhận thấy rằng bằng một vài cách khác ngăn chặn được rồi, đạt mục
đích rồi thì họ rút ra, họ không có mục đích xâm lược, họ muốn vào thì
vào, muốn ra thì ra. Trong khi ta đem lực lượng không những của toàn
quốc mà còn có một phần của Trung Quốc và Liên Xô để đánh nhau với một
đội quân vài vạn người, chỉ gồm một phần nhỏ của quân đội Mỹ mà cho rằng
đánh thắng đế quốc Mỹ thì quả thật đã huyênh hoang một tấc đến trời.
Cho rằng đã đánh thắng được Pháp và Mỹ
thì rồi việc gì ta cũng làm được là một lập luận vô cùng sai trái, thế
mà người ta cứ tuyên truyền mãi. Đến thời kỳ xây dựng trong hòa bình mới
lộ rõ mọi sự yếu kém và sai lầm. Nhưng đã lỡ mồm khoác lác về tài năng,
về sáng suốt. Đâm lao phải theo lao, phải tiếp tục tuyên truyền ta
khôn, ta giỏi.
Về biết người. Trong
chiến tranh với Mỹ nhân dân thế giới thương hại nhân dân VN, ủng hộ, cứu
trợ cho nhân dân chứ họ chẳng yêu quý gì thể chế cộng sản mà nhà nước
theo đuổi. Và họ thương hại chứ không nể trọng. Nếu có cảm phục thì chỉ
cảm phục trong thời gian ngắn về đức tính chịu hy sinh gian khổ trong
chiến tranh, còn trong việc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền thì
họ coi thường, coi khinh. Với nạn thuyền nhân thì họ càng kinh ngạc và
phẫn nộ. Ngày nay một số không ít người Việt ra nước ngoài bị nhiều
người sở tại cảnh giác, xem là bọn ăn cắp và gây rối.
Với các quốc gia, chúng ta có quan hệ
ngoại giao với rất nhiều nước, ký nhiều hiệp định hợp tác toàn diện và
chiến lược, nhận được một số viện trợ ODA, nhưng thử hỏi có nước nào
thân thiết với ta như kiểu quan hệ giữa Mỹ với Nhật hoặc với Nam Hàn.
Mang tiếng có nhiều bạn nhưng khi mà bị mắc kẹt vào ý thức hệ cộng sản
thì không thể nào có bạn thân thiết trong những nước theo chế độ dân
chủ. Họ đi lại, quan hệ với ta chỉ là theo hình thức ngoại giao.
Quan trọng là ta đã biết Mỹ và Trung
Quốc đến đâu. Với Mỹ, từ trước 1945 Hồ Chí Minh rất muốn thân thiện. Vì
kiên trì cộng sản và dối trá mà không nhận được giúp đỡ, chúng ta bị Mao
Trạch Đông lừa gạt mà nhận định sai về họ, xem là kẻ thù không đội trời
chung. Bây giờ tuy đã có thay đổi nhiều nhưng vẫn chưa đạt được như
mong muốn. Với Trung Quốc, quan hệ trong lịch sử là khá phức tạp giữa
phụ thuộc, bạn, thù. Ngày nay đa số nhân dân xem Trung Quốc là kẻ thù
truyền kiếp với tham vọng bá quyền, muốn thôn tính Việt Nam; nhưng lãnh
đạo nhà nước lại chịu khuất phục, chịu lệ thuộc và đàn áp những người
dân chống Trung Quốc. Đây là một mâu thuẫn quá nặng nề, làm hủy hoại sự
thống nhất ý chí dân tộc.
Về đối nội. Quan trọng
và cơ bản nhất của đối nội là giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền và
nhân dân, nó gồm cả 2 mặt: hợp tác và đấu tranh xử lý mâu thuẫn. Về vấn
đề này ở Việt nam có nhiều quan điểm khác lạ với rất nhiều nước dân
chủ. Với một hệ thống 3 tầng (đảng, chính quyền, mặt trận) chồng chéo,
dẫm đạp lên nhau, sự quản lý nhà nước của VN thuộc loại tồi tệ, kém hiệu
quả, lãng phí vào loại bậc nhất thế giới. Chính quyền tồn tại nhờ vào 2
thế lực chính, công an và tuyên truyền, nhưng lại bất lực trước nhiều
tai họa của xã hội, của môi trường. Mấu chốt nhất là lãnh đạo vẫn kiên
trì con đường Mác Lê XHCN, họ cho rằng đó là nguyện vọng của toàn dân,
trong lúc dân chẳng được hỏi ý kiến.
Phân tích qua như vậy để thấy đối ngoại
của VN không hoàn toàn tuân theo nguyên tắc xuất phát từ đối nội và quay
về phục vụ cho đối nội.
Về bệnh sĩ. Đây là loại
bệnh không gây chết người, lại làm cho người ta sung sướng, tự hào
trong chốc lát, nhưng mang lại tai họa trong bản chất và lâu dài. Có lẽ
người Việt mắc bệnh sĩ thuộc hạng nặng nhất thế giới. Bệnh này có nguồn
gốc từ trong những yếu kém của nền văn hóa dân tộc, gặp được môi trường
thuận lới là đường lối tuyên truyền của cộng sản mà nó phát triển nhanh
chóng, rộng khắp.
Trong nước bệnh sĩ biến tướng ra bệnh
thành tích dỏm, là việc chạy khen thưởng, huân chương, danh hiệu anh
hùng, danh hiệu gia đình và đơn vị văn hóa, nông thôn mới, bằng cấp dỏm
các loại v.v…
Ra nước ngoài, hễ thế giới có cuộc thi
gì thì Việt Nam cố chọn vài người, tập trung huấn luyện, bồi dưỡng thật
lực, không kể tốn kém, đi thi mà kiếm lấy huân chương, để khoe khoang là
chủ yếu, chẳng cần đại diện cho một cơ sở nào, còn tình trạng lạc hậu
của các nghành nghề thì mặc kệ trời đất. Thì đấy, năng suất lao động
thuộc loại thấp nhất mà thợ đi thi tay nghề đạt huy chương vàng, giỏi
nhất khu vực; giáo dục xuống cấp trầm trọng mà học sinh thi thế giới môn
nào cũng được vài huy chương vàng bạc.
Hễ thế giới có Công ước gì mới thì VN là
một trong những nước ký đầu tiên. Ký xong, tuyên truyền xong rồi để đó,
không cần thực hiện. Có được các di sản vật thể và đặc biệt là phi vật
thể nào thì cố mà chạy để UNESCO công nhận. Một số điệu hò, điệu hát thi
nhau chạy, theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”. Cái điệu hát A ở vùng
kia được rồi thì điệu hò B của vùng ta tốn bao nhiêu cũng cố mà chạy
cho được chứ. Phải chi tiêu khá tốn kém để chạy được rồi, tổ chức ăn
mừng rồi, xong thì để đó, chẳng dùng làm gì, chẳng mấy ai nhớ tới, chỉ
là để thỏa bệnh sĩ trong thời gian ngắn.
Ở Liên hiệp quốc, có cơ quan gì thì ta
cố chạy, cố vận động các nước ủng hộ để vào cho được. Vào được Hội đồng
nhân quyền trong khi nhân quyền trong nước bị nhiều nơi lên án. Vào được
Hội đồng bảo an trong lúc đất đai và biển đảo mất dần vào tay bọn bành
trướng Trung cộng. Vào được Ủy ban luật pháp trong khi những bản án oan
sai và bị tẩy chay ngày càng nhiều. Như vậy phải chăng vào các co quan
của Liên hiệp quốc là chỉ để thỏa mãn bệnh sĩ.
Rồi rất nhiều đoàn cấp cao tấp nập đi
lại thăm nhau. Trong việc thăm này cái lợi cho những người tham gia, sự
tốn kém của công quỹ là rõ ràng, còn Quốc gia, nhân dân được gì không,
hiệu quả như thế nào thì chưa thấy ai khảo sát và tổng kết.
Vài lời chốt lại. Cứ
nghe báo cáo và tuyên truyền một chiều thì mọi người tưởng nhầm là thành
tích và tài năng đối ngoại của chúng ta trong hơn 70 năm qua thuộc loại
nhất nhì thế giới và rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc. Viết ra vài
điều phản biện, lật lại để xem mặt trái của tấm huân chương, may ra có
thể cung cấp được vài thông tin và ý kiến cho những người tử tế, còn có
lương tri để tránh bớt nhầm lẫn, chỉ biết nghe tuyên truyền một chiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét