26 tháng 2, 2015

Vơ vét tư lợi, đạo đức giả rất ‘thẳng cánh’

* TS. PHẠM VĂN ĐỨC
Bài viết đề cập đến mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Tình trạng các lãnh đạo có quyền bính ‘cỡ bự’, những ‘ hạt nhân và quả chín tiền phong của đảng’ đã bộ lộ thẳng cánh, thậm chí khoa trương những tai sản đã tham nhũng, và đạo đức giả trắng trợn, thách thức đến mức 'không ngán ai’!
Công cuộc đổi mới đang đặt ra cho ViệtNam nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm, trong đó có vấn đề sự xuống cấp của đạo đức. Điều đó có liên quan đến mặt trái của cơ chế thị trường, đến sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tới các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước tình hình đó, một số người cho rằng, sự xuống cấp về đạo đức xã hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động, rằng lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai yếu tố hoàn toàn không dung hợp với nhau.
Bên cạnh đó, một số tác giả lại khẳng định rằng, sự chấp nhận và khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên là lợi ích cá nhân chính đáng) tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi cá nhân về nhiều phương diện, nhất là phương diện tài năng và trí tuệ. Nói cách khác, cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế tốt cho nhân cách phát triển trong điều kiện hiện nay (1). Để góp phần làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, cần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội, cũng như sự tác động của lợi ích cá nhân đối với đạo đức xã hội ấy trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay nói riêng. Song, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chủ yếu bàn đến sự tác động của lợi ích cá nhân đối với đạo đức xã hội, chứ chưa bàn đến sự tác động ngược trở lại của đạo đức xã hội đối với lợi ích cá nhân.
Khi nghiên cứu hệ thống các động lực thúc đẩy con người hành động, người ta thường nhắc đến vai trò của nhu cầu, lợi ích, cũng như của các động cơ tư tưởng.
Hơn 100 năm trước, Ph.Ăngghen đã từng chỉ ra rằng: "Đáng lẽ phải giải thích hoạt động của mình từ nhu cầu của mình …, thì người ta lại quen giải thích hoạt động của mình từ tư duy của mình…"(2). Sở dĩ như vậy vì nhu cầu là đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Có thể nói, không chỉ các nhà triết học mácxít, mà cả các nhà triết học phương Tây cũng thừa nhận vai trò to lớn của nhu cầu trong việc thúc đẩy hoạt động của con người. Chính vì vậy, một trong những tiêu chuẩn của xã hội hiện đại là khả năng đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu mới nảy sinh.
Nhu cầu là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động. Sự thoả mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thể hành động, là lợi ích. Vì vậy, lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và nó chỉ có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong quan hệ với nhu cầu. Ngoài mối quan hệ đó, cái được coi là lợi ích không còn là lợi ích nữa. Xét về bản chất, lợi ích chính là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu (3).
Trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, nhu cầu quyết định lợi ích. Do đó, nó là cơ sở của lợi ích, còn lợi ích thì ngược lại, xuất phát từ nhu cầu, dựa trên nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu.

Nhà ở của dân nghèo cỡ này còn nhiều ở khắp 3 miền Tổ quốc
Như vậy, tính chất động lực của nhu cầu được thực hiện không phải một cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua lợi ích, còn lợi ích là khâu trực tiếp hơn cả trong việc tạo nên động cơ tư tưởng thúc đẩy con người hành động nhằm thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu ngày càng lớn thì sự hấp dẫn của lợi ích đối với chủ thể càng lớn và do đó, động cơ tư tưởng nảy sinh trên cơ sở của lợi ích này cũng càng cuốn hút con người, thúc đẩy con người lao vào hành động.
Chính C.Mác cũng đã từng nhấn mạnh, tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi ích của họ. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói rằng, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người đang theo đuổi những mục đích của mình. Trong cuộc đấu tranh vì sự sống còn của bản thân mình, con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau. Bản thân những nhu cầu chung này là cơ sở nảy sinh những lợi ích chung giữa họ. Song, ngoài những lợi ích chung đó, mỗi con người lại có những lợi ích riêng nảy sinh trên cơ sở của các nhu cầu được hình thành từ những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Bên cạnh đó, bản thân những nhu cầu chung của cộng đồng và xã hội, cũng như những nhu cầu riêng của cá nhân lại có nhiều loại: nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, v.v.. Những nhu cầu này là cơ sở để hình thành nên các lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, v.v..
Như vậy, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ. Điểm khác nhau chỉ là ở chỗ có hành vi chịu sự chi phối của lợi ích vật chất, có hành vi bị chi phối bởi lợi ích tinh thần, có hành vi chịu sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân, có hành vi chịu sự thúc đẩy của lợi ích tập thể, xã hội. Không có hành vi nào của con người hoàn toàn thoát khỏi sự thúc đẩy của lợi ích.
Song, trong xã hội, các lợi ích khác nhau đó, đặc biệt là giữa lợi ích riêng và lợi ích chung (lợi ích tập thể và lợi ích xã hội), có thể phù hợp với nhau, cũng có thể không phù hợp, thậm chí còn trái ngược nhau. Điều đó còn xảy ra đối với cả những lợi ích chung của các cộng đồng khác nhau, cũng như đối với các lợi ích riêng khác nhau. Để những hành vi và những hoạt động của từng người cụ thể đang theo đuổi các lợi ích khác nhau không triệt tiêu nhau và làm rối loạn xã hội, xã hội cần đến những phương thức điều tiết hành vi của con người mang ý nghĩa phổ biến. Đạo đức là một trong những phương thức như vậy và là phương thức đầu tiên mà loài người sử dụng. Cùng với sự phát triển xã hội, khi mà sự phân công xã hội càng chặt chẽ, khi khả năng và tính tất yếu của sự hợp tác giữa người và người càng lớn, thì người ta càng tuân thủ những yêu cầu đạo đức và quy phạm pháp luật nhất định, cần áp dụng các biện pháp không gây tổn hại đối với người khác. Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nói rằng lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là toàn bộ cơ sở của đạo đức.
Với tư cách là phương thức đặc thù điều tiết hành vi của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh lợi ích trực tiếp của các giai cấp, dân tộc, thời đại. Vì đạo đức bao giờ cũng có mối quan hệ trực tiếp với những lợi ích chung nên khách thể của ý thức đạo đức bao gồm những quan hệ giữa người và người trong xã hội, quan hệ giữa con người với những sự kiện của đời sống xã hội và quan hệ của con người với chính bản thân mình với tư cách là một thành viên của một đơn vị xã hội nhất định.
Khác với phương thức điều tiết bằng pháp luật, tức là phương thức điều tiết có tính chất cưỡng chế, đạo đức thuộc lĩnh vực của sự tự nguyện, của hành vi vị tha vì người khác và vì xã hội. Tất nhiên, tính vị tha của đạo đức hoàn toàn không có nghĩa là loại bỏ tất cả những gì thuộc về cá nhân, cá tính của con người. Trái lại, tính vị tha của đạo đức chỉ loại bỏ những gì thuộc về cá nhân và cá tính đối lập với xã hội, có hại cho xã hội. Những lợi ích cá nhân của từng người cụ thể với tính cách là thành viên của xã hội, nếu không đối lập với lợi ích xã hội thì luôn là động cơ của những hành vi đạo đức chân chính.
Vì vậy, hành vi đạo đức cao thượng được thể hiện rõ khi có sự xung đột giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của người khác hoặc của tập thể, cộng đồng; trong trường hợp đó, chủ thể đạo đức có thể tiết chế hoặc hy sinh những lợi ích cá nhân của mình. Điều đó hoàn toàn không có nghĩa là đạo đức gạt bỏ hết lợi ích cá nhân. Trái lại, trong phạm vi hợp lý và chính đáng, đạo đức vẫn cho phép con người đạt tới những lợi ích cá nhân. Những hành vi tìm kiếm lợi ích cá nhân với tiền đề đã được xã hội chấp nhận và bảo đảm, đồng thời không làm tổn hại đến xã hội, đến tập thể, đến người khác đều không phải là hành vi phi đạo đức. Đó chính là cơ sở lý luận để xem xét mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam.
Kể từ khi Việt Nam áp dụng cơ chế thị trường, những thay đổi to lớn trong các quan hệ kinh tế đã tác động mạnh mẽ tới các lợi ích của con người. Bởi lẽ lợi ích của con người được biểu hiện tập trung ở các quan hệ kinh tế. Sự thay đổi của quan hệ kinh tế được thể hiện trên các lĩnh vực: sở hữu, phân phối và quản lý. Trong lĩnh vực sở hữu, với đường lối đổi mới, từ chỗ chỉ có hai hình thức toàn dân và tập thể, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Sự thay đổi trong lĩnh vực phân phối được thể hiện ở chỗ, nếu như trước đây, ViệtNam chủ yếu chỉ sử dụng hình thức phân phối theo lao động thì hiện nay, các hình thức phân phối ngày càng trở nên đa dạng hơn. Chính sự đa dạng của các hình thức phân phối đã góp phần thực hiện công bằng xã hội - một mục tiêu quan trọng của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời huy động được vốn đầu tư để phát triển sản xuất.
Trong lĩnh vực quản lý, cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp. Chính cơ chế đó đã cho phép các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp có được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến con người kinh tế và khi tiến hành hoạt động kinh tế, con người chịu sự chi phối của lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân đã có vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy con người hành động. Nhờ việc theo đuổi các lợi ích cá nhân khác nhau mà hoạt động của con người không những tạo ra những sản phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu cho xã hội.
Nhờ những thay đổi trên đây, chỉ tính riêng từ năm 1996 đến nay, hàng năm nước ta đã giải quyết được 1,2 triệu việc làm mới. Điều đó góp phần giảm bớt sự căng thẳng trong xã hội. Bởi lẽ, không có một chính sách xã hội nào tốt hơn là tạo ra cho những người có khả năng lao động và muốn lao động cơ hội kiếm được việc làm. Nhờ tiến hành công tác xoá đói, giảm nghèo có được những bước tiến bộ đáng kể, chúng ta đã giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của nước ta) từ trên 30% xuống 10%(4).
Như vậy, hoạt động vì lợi ích cá nhân chính đáng của con người đã góp phần làm giàu cho bản thân con người, đồng thời góp phần giảm bớt sự nghèo đói cho xã hội. Đến lượt nó, sự giàu có chính đáng của cá nhân đã làm nẩy sinh ở con người những tấm lòng hào phóng, từ thiện, sự thân ái, lòng vị tha… Điều đó không những góp phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội, mà còn tạo ra bầu không khí thân ái trong xã hội, góp phần tạo cơ sở cho việc xây dựng đạo đức mới.
Mặt khác, dưới sự tác động của lợi ích trong nền kinh tế thị trường, một số quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cũng có sự thay đổi. Một số hành vi trước đây bị coi là phi đạo đức thì hiện nay, trở thành hành vi có đạo đức. Ví dụ, nếu như trước đây, việc thuê lao động bị coi là hành vi bóc lột và vô nhân đạo, thì hiện nay, việc thuê mướn lao động mà người thuê và người được thuê đã thoả thuận hợp lý, hợp tình về quyền lợi của nhau thì lại được coi là hành vi nhân đạo, bởi nó không những góp phần giúp xã hội tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mà còn trực tiếp góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, giúp họ thoát khỏi cảnh thất nghiệp.
Có thể nói rằng, lợi ích cá nhân có vai trò tích cực đối với sự hình thành các quan hệ đạo đức, cũng như làm thay đổi một số quan niệm về các chuẩn mực đạo đức.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, lợi ích cá nhân cũng có tác động tiêu cực đối với đạo đức. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mọi quan hệ xã hội có thể bị biến thành quan hệ tiền nong, mua bán, trao đổi.
Mặc dù Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường 15 năm, song tình hình đó cũng diễn ra tương tự. Đồng tiền bắt đầu thâm nhập sâu vào các quan hệ xã hội. Vì tiền, vì lợi ích cá nhân, người ta sẵn sàng hy sinh lợi ích xã hội, bất chấp luân thường đạo lý. Tình trạng thương mại hoá đã thâm nhập sâu vào những lĩnh vực vốn xưa kia là mảnh đất nuôi dưỡng những hành vi đạo đức, như giáo dục - đào tạo và y tế.
Kinh tế thị trường, thông qua lợi ích cá nhân, đã có tác động tiêu cực tới đạo đức truyền thống. Những biểu hiện của sự tác động tiêu cực đó là:
Thứ nhất, xuất hiện thái độ coi thường đạo đức truyền thống, bất chấp luân thường đạo lý, chạy theo lối sống xa hoa, truỵ lạc.
Trong những năm gần đây, do kinh tế phát triển, nhiều gia đình trở nên giàu có. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là ở chỗ, bên cạnh những gia đình giàu có do chịu khó làm ăn, biết kinh doanh, sản xuất giỏi, thì một số kẻ giàu có, do lợi dụng chức quyền, đã làm giàu bất chính. Khi đồng tiền kiếm được một cách quá dễ dàng, không phải do lao động thì nó rất dễ dẫn con người đến chỗ ăn chơi sa đoạ.
Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, do chây lười hoặc không biết làm ăn nhưng lại thích ăn ngon, mặc đẹp, một số người đã rơi vào cảnh khốn quẫn. Để tồn tại, không ít kẻ trong số đó đã đi vào con đường phạm tội. Không ít kẻ chỉ vì vài ngàn đồng mà có những hành vi vô đạo đức, mất tính người.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy sự suy thoái về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường thông qua một số dẫn chứng về tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự trong những năm gần đây.
Chẳng hạn, theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, số vụ hiếp dâm nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng có xu hướng ngày càng tăng lên. Nếu như năm 1993 phát hiện được 500 vụ hiếp dâm, trong đó có 73 vụ nạn nhân là trẻ em (chiếm 14,6 %); năm 1994 phát hiện được 861 vụ hiếp dâm, trong đó có 143 vụ nạn nhân là trẻ em (chiếm 16,6%), thì đến năm 1997 phát hiện 1097 vụ hiếp dâm, tăng 27% so với năm 1996, trong đó vụ hiếp dâm trẻ em tăng 41%(5). Trong vài năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, số vụ trọng án giết người, cướp của, cố ý gây thương tích đối với người thân tăng lên. Chẳng hạn, nghiên cứu những vụ trọng án, đặc biệt là những vụ giết người cho thấy, có 90 % các vụ giết người có nguyên nhân mang tính xã hội; trong số các vụ án giết người được nghiên cứu trong mấy năm gần đây thì có tới 24,4% số vụ nạn nhân lại chính là thân nhân của thủ phạm (nạn nhân là vợ, chồng, con cái, anh, chị, em ruột). Tình chất côn đồ, trắng trợn của hành vi giết người không chỉ phản ánh sự xem thường pháp luật của kẻ phạm tội, mà còn thể hiện sự biến đổi trong tính nhân bản thuộc về đạo đức của con người(6).
Thứ hai, phản ứng của xã hội đối với các hành vi phi đạo đức cũng giảm đi. Chẳng hạn, nếu như trước đây, những hành vi suy đồi về đạo đức như rượu chè bê tha, trai gái đĩ điếm, ăn gian, nói dối, đã bị xã hội lên án hết sức mạnh mẽ, thì ngày nay, sự phản ứng của xã hội cũng có mức độ.
Thứ ba, trong xã hội xuất hiện thứ đạo đức giả. Thực ra, bất cứ xã hội nào cũng có hiện tượng đạo đức giả tồn tại. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ở nước ta đã xuất hiện hiện tượng đạo đức giả được che đậy hết sức tinh vi. Vừa qua, chúng ta đã phát hiện ra không ít những hiện tượng làm ăn phi pháp, nhưng lại núp dưới danh nghĩa từ thiện, nhận nuôi dưỡng Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, xây nhà tình nghĩa, tài trợ cho các hoạt động thể dục, thể thao nhằm tạo vỏ bọc, trốn tránh sự truy cứu của pháp luật.
Tất cả những biểu hiện trên đây đều bắt nguồn từ lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất đơn thuần. Mọi mối quan hệ xã hội trong xã hội đều được giải quyết chỉ dựa trên lợi ích kinh tế. Chính điều đó vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những sự xung đột giữa các thế hệ, giữa các thành viên trong gia đình, giữa những người có trình độ và hiểu biết khác nhau về xã hội.
Như vậy, có thể nói, lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị trường đã tác động đến đạo đức theo hai hướng trái ngược nhau. Theo hướng tích cực, lợi ích cá nhân góp phần tạo nên các giá trị và các chuẩn mực đạo đức mới. Theo hướng tiêu cực, vì lợi ích cá nhân mà con người có thể làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống của mình.
Cả hai xu hướng đó đều song song tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, không thể nói một cách chung chung rằng lợi ích cá nhân có tác động tích cực hay tiêu cực đến đạo đức xã hội. Để đánh giá tính tích cực hay tiêu cực của lợi ích cá nhân đối với đạo đức, cần xem xét hiệu quả mà lợi ích đó đem lại có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không. Đồng thời, không thể nói một cách giản đơn rằng, sự xuống cấp về đạo đức hoàn toàn bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân của người lao động.
P.V.Đ/VTH (Trưởng phòng Duy vật biện chứng, Viện Triết học).
---------------
 (1) Xem: Nguyễn Văn Phúc. Nghiên cứu đạo đức học ở Việt Nam: Một số kết quả và một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Trong cuốn “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam” (Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên). Viện Triết học xuất bản, Hà Nội, 2001, tr. 651.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen . Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 651.
(3) Xem : Lê Hữu Tầng (Chủ biên) . Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 35. (4) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 151.
(5) Xem: Phạm Quốc Huỳnh. Tội hiếp dâm: thực trạng và giải pháp. Tạp chí Công an nhân dân, số 1, 1999, tr. 77.
(6) Xem: Đặng Thái Giáp. Trật tự, an toàn xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (xét từ lý luận về tồn tại xã hội và ý thức xã hội). Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2000, tr. 111.

Không có nhận xét nào:

Trang