Lê Anh Hùng
TBT Nguyễn Phú Trọng, CTN Trung Quốc Tập Cận Bình cùng phái đoàn hai nước dự tiệc trà ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Ảnh: Tin tức/ TTXVN
Từ đào tạo cán bộ đến đào tạo cán bộ cấp cao
Lãnh đạo quốc gia thường là người ghi dấu ấn lớn nhất, thậm chí trong nhiều trường hợp là quyết định, đến tiến trình đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không phải là ngoại lệ. Chính vì vậy, chuyến thăm Trung Quốc của nhà lãnh đạo số 1 Việt Nam từ ngày 12 – 15/1/2017 đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng bộc lộ cuồng vọng bá quyền, thách thức ngôi vị bá chủ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, còn cường quốc số 1 thế giới này thì sắp sửa chứng kiến cuộc chuyển giao quyền lực giữa Tổng thống Barack Obama và người kế nhiệm Donald Trump.
Mặc dù mới chỉ làm Tổng Bí thư 6 năm, nhưng chuyến thăm Trung Quốc lần này của ông Nguyễn Phú Trọng đã là chuyến thứ ba trên cương vị đó. Chừng ấy đủ cho thấy mức độ thần phục của ông ta đối với thiên triều trong mắt công chúng. Hai lần thăm Trung Quốc trước của ông Nguyễn Phú Trọng là vào tháng 10/2011 và tháng 4/2015, với kết quả là hai bản Tuyên bố chung Việt – Trung vô cùng tai hại, đẩy nước nhà ngày càng rơi vào vòng kiềm toả của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, chừng ấy xem ra vẫn chưa đủ nên lần này quyết tâm của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc biến Việt Nam thành “một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc” lại càng mãnh liệt hơn. Điều đó thể hiện qua các văn kiện hợp tác được ký kết giữa hai bên trong chuyến thăm này. Trong số 15 văn kiện hợp tác thì văn kiện đầu tiên là “Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc”, cùng hàng loạt văn kiện nguy hại khác như “Công thư trao đổi về việc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng” hay “Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025”, v.v.
Trong bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 11 – 15/10/2011, việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai bên chỉ được ghi chung chung là “mở rộng và đi sâu hợp tác đào tạo cán bộ Đảng, chính quyền” và “tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ [giữa hai Bộ Quốc phòng]”.
Bản Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 7 – 10/4/2015 cũng ghi chung chung là “đi sâu hợp tác về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền” và “tăng cường hợp tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ [giữa hai Bộ Quốc phòng]”.
Ngày 5/11/2015, tại Trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư/Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chứng kiến lễ ký kết nhiều văn bản, thoả thuận hợp tác giữa hai bên, trong đó có “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016 – 2020”.
Trong bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc ngày 14/9/2016 nhân chuyến thăm cấp nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến Trung Quốc có nội dung “thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng (2016 – 2020)” mà hai bên đã ký kết ngày 5/11/2015.
Như vậy, dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đi từ những chỉ đạo chung chung tháng 10/2011 và tháng 4/2015, đến “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020” tháng 11/2015, và cuối cùng là “Thoả thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao” tháng 1/2017.
Thỏa thuận hợp tác đào tạo năm 2017 khác với kế hoạch hợp tác đào tạo năm 2015. Tức là, những cán bộ Việt Nam được đưa sang Trung Quốc đào tạo theo thoả thuận hợp tác mới nhất này thuộc diện cán bộ cấp cao, hoặc là cán bộ nguồn cho những vị trí chủ chốt trong bộ máy.
Bàn tay lông lá của tình báo Hoa Nam
Cựu tù nhân lương tâm Phạm Văn Trội là người bị bắt ngày 11/9/2008 và bị Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội kết tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự ngày 8/10/2009 với bản án bốn năm tù giam, bốn năm quản chế. Thời gian bị giam ở trại giam Nam Hà, anh được tiếp xúc với rất nhiều tù nhân phạm tội làm gián điệp cho Trung Quốc bị giam giữ ở đây. Thành phần làm gián điệp cho Trung Quốc rất đa dạng, có người là bộ đội biên phòng, có người làm trong ngành hải quan, có người là gián điệp của Việt Nam đánh sang Trung Quốc nhưng bị phát hiện rồi quay sang làm gián điệp cho địch, có người hoạt động kinh doanh, v.v. Đặc biệt nhất trong số tù nhân này là Phạm Minh Đức, sinh năm 1957, quê quán Hà Nội, từng là Phó ban Tổ chức Trung ương Đảng. Với sự can thiệp từ phía Trung Quốc, ông ta chỉ phải nhận bản án 5 năm tù dù là “gián điệp loại 1”.
Tìm hiểu từ các đối tượng từng làm gián điệp cho Trung Quốc, anh Phạm Văn Trội cho biết: “Từ năm 1993 đến 2008 có 632 đoàn cán bộ Việt Nam sang Trung Quốc học tập mô hình ‘chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc’. Mỗi đoàn khoảng 20 đến 30 người, từ các ngành như quân đội, công an, hành chính, y tế, giáo dục, đặc biệt là hải quan, v.v. Tuần đầu sang Trung Quốc, họ được đưa đi thăm thú các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Quốc. Sau đó, người của Cục Tình báo Hoa Nam dưới những vỏ bọc khác nhau sẽ tham gia đào tạo họ. Ngày thì học tập, tối thì mỗi cán bộ Việt Nam ở một phòng VIP và có mỹ nữ phục vụ. Dĩ nhiên, họ sẽ bị ghi hình lén để rồi rơi vào vòng khống chế của Trung Quốc lúc nào không hay. Chương trình đi học tập này do Ban Tổ chức Trung ương tổ chức. Khi về nước, thông qua bàn tay chỉ đạo của Bắc Kinh, họ sẽ được đề bạt vào các chức vụ rồi dần dần vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt. Đây là một hình thức cài cắm người của Tình báo Hoa Nam.”
Với bản chất “thâm như Tàu”, không cần phải nói thì ai cũng biết Trung Quốc là “bậc thầy” trong việc dụ dỗ, mua chuộc, gài bẫy… đối tượng, hoặc thậm chí là lung lạc, đe doạ đối tượng khiến họ đi đến chỗ bị thu phục.
Nguy cơ đội ngũ lãnh đạo cấp cao bị ‘Hán hoá’
Việc cử cán bộ sang Trung Quốc để được họ “đào tạo” rõ ràng là rất nguy hiểm, tiềm ẩn những hệ lụy khôn lường không chỉ về chính trị mà đặc biệt là về an ninh quốc gia. Trong trường hợp những người được “đào tạo” là cán bộ cấp cao thì mức độ nguy hiểm lại càng lớn.
Việt Nam thì không thể “đào tạo cán bộ cấp cao” cho Trung Quốc được – đó là điều không cần phải bàn cãi. Vì vậy, thông qua văn kiện “hợp tác đào tạo” mới được ký kết ngày 12/1 vừa qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Việt Nam sẽ dần dần bị Trung Quốc kiểm soát, khống chế và thao túng, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mưu đồ thôn tính Việt Nam của Bắc Kinh.
Với quyết tâm “Hán hoá” đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ thấp đến cao như vậy, lịch sử rồi đây sẽ “vinh danh” ông Nguyễn Phú Trọng như thế nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét