Triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993) nói trong hồi ký rằng cả Triều Tiên và Việt Nam đều là nạn nhân của các đế quốc như Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc (BBC).
KD: Triết gia Trần Đức Thảo là một trí thức lớn, yêu nước, vì nước. Trí thức lớn nên tầm nhìn rộng và xa. Có lẽ vì thế, mà ông không hợp với “đường ray” định sẵn, và đi chệch khỏi đường ray này. Vì thế ông đã cô đơn vô cùng trong đất nước ông vô cùng yêu, vì đất nước đó ông đã trở về. Nhưng cũng vì thế, cuối cùng ông lại ra đi.
Số phận những trí thức lớn sao cũng “bạc mệnh”???
————————
Cuối hồi ký ‘Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối’ do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê biên soạn ghi lại các tâm sự của ông Trần Đức Thảo sau khi ông trở lại Pháp đầu thập niên 1990.
Nhân sự kiện Hội nghị thượng đỉnh liên Triều diễn ra chỉ vài ngày trước kỷ niệm 30/04, BBC Tiếng Việt trích đăng một số đoạn ghi lại lời ông Trần Đức Thảo:
Từ Marx đến Lenin và Liên Xô, ai là nạn nhân?
“Nay chúng ta phải sáng suốt mà phân tích, mà suy nghĩ về hoàn cảnh và các yếu tố chia cắt; chia rẽ này, để thấy rõ chúng ta chỉ là những nạn nhân, đau đớn của những kẻ có trách nhiệm làm lịch sử. Có thể nói họ đã làm hỏng lịch sử. Họ đây chính là lãnh đạo.
Xét riêng về cái ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, do Lenin tuỳ tiện khai triển tư tưởng Marx, chẳng qua đó cũng chỉ là phương cách để duy trì, để tham lam nắm lại toàn bộ di sản đế quốc do thời Sa hoàng để lại, để lại giam hãm các dân tộc chư hầu của thời Sa hoàng vào trong một gông cùm kiểu mới, với cái tên đẹp hơn: “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em”.
Bây giờ thì mọi người đều thấy cái khối Liên Xô ấy, thực chất là một đế quốc đỏ, nó kìm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó…”
Trung Quốc và các dân tộc châu Á
“Chính Liên Xô cũng đã từng đụng độ với một đế quốc đỏ khác là Trung Quốc, chỉ vì quyền lợi quốc gia hẹp hòi, để bảnh trướng đế quốc.
Và Bắc Kinh cũng đối xử với Tây Tạng, với Triều Tiên, với cả ta, theo tâm thức bành trưởng đế quốc như thế, cũng dưới chiêu bài “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em”, giữa hai “láng giềng hữu hảo, môi hở răng lạnh”!
Riêng tôi khi nghe lời cam kết ấy của Mao mà cảm thấy rợn tóc gáyTrần Đức Thảo
Thực tế là đã hơn một lần, Liên Xô và Trung Quốc đụng độ nhau bằng quân sự…”
“Tôi còn nhớ rõ hồi đấu thập niên 60, nhân dịp được tham gia phái đoàn sang thăm Bắc Kinh, nên đã được nghe Mao Chủ tịch cam kết “năm trăm triệu dân Hoa Nam sẽ là hậu phương lớn để giúp các đồng chí tới khi chiến thắng”.
Mọi người mừng rỡ vỗ tay. Riêng tôi khi nghe lời cam kết ấy mà cảm thấy rợn tóc gáy. Bởi tôi không bao giờ quên chỉ vài tháng sau khi chiếm được quyền hành ở Bắc Kinh, Mao đã vội vã xua quân qua chiếm Tây Tạng. Chọn Mao làm đồng chí, làm đồng minh thì tôi lo lắm…”
Quê Từ Sơn, Bắc Ninh, sinh năm 1917, ông Trần Đức Thảo sang Pháp du học năm 1936, và đỗ vào trường École Normale Supérieure (Paris) ba năm sau.
Trần Đức Thảo nổi tiếng qua cuộc tranh luận triết học với Jean-Paul Sartre khi còn trẻ ở Paris.
Năm 1952, ông về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nhưng theo cuối hồi ký, ông không được trọng dụng, thậm chí bị nghi ngờ, theo dõi, giám sát.
“Tôi đã bị gạt ra bên lề sinh hoạt chính trị ngay từ đầu. Chỉ mới viết hai bài báo đề cập khái quát tới dân chủ thôi, mà đã bị chúng nó xúm vào đấu tố tưởng đã mất mạng. Thế nên mọi suy tư, trải nghiệm là phải giấu kỹ trong đầu.
Mà những gì tôi làm trong đầu, đều toàn là những nghiên cứu dựa trên thực tại thật là sống động, thật là độc lập về mặt triết học thực nghiệm, để hướng về tương lai.
Đây là một công trình nghiên cứu rất cơ bản, rất thực tế. Nếu nói về ảnh hưởng thì có lẽ tôi cũng đã đóng góp được phần nào khi gián tiếp chỉ ra cho chung quanh thấy một số sai trái rất nghiêm trọng, cho họ hiểu là nếu, không chịu thay đổi hẳn tư duy, thấy đổi toàn diện chính sách thì cả nước sẽ không thoát ra được tình trạng bế tắc tư tưởng, hỗn loạn xã hội, phải sống túng thiếu, đói khổ triền miên.
Nhất là từ sau ngày 30 tháng tư 1975. Cái mốc thời gian ấy đã dánh dấu lúc toàn khối xã hội chủ nghĩa, vốn đã rệu rã, đã khánh kiệt, nay đang bắt đầu bước dần tới nguy cơ tan rã.”
Trần Đức Thảo nêu ra suy nghĩ rằng khối Đông Âu bắt đầu rạn nứt sau ngày 30/04/1975 ở Việt Nam:
“Bởi sau ngày 30 tháng tư, 1975 đó, Liên Xô và cả khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa không còn cái chiêu bài chính đáng để bắt dân chúng phải tiếp tục hi sinh, thắt lưng buộc bụng nhằm chi viện cho các công cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Mỹ nữa.
Dân chúng bắt đầu bạo dạn và cương quyết xuống đường đòi tự do và bánh mì. Tình trạng khủng hoảng tư tưởng trầm trọng này bắt đầu đưa tới hỗn loạn ở Đông Âu, Hồng quân đãi phải trực tiếp nhảy vào can thiệp băng vũ lực, dẫn tới lúc bức tường Bá Linh sụp đổ, đưa tới kết thúc các cuộc cách mạng theo tư tưởng Mác-Lê…
Chính những sự hỗn loạn ấy đã làm cho khối Liên Xô suy sụp ngay từ bên trong. Không phải ngẫu nhiên mà Đặng Tiểu Bình đã dứt khoát ngả sang phía tư bản.
Ngay cả ở nước ta, nếu không sớm cố vận động, cố chấp nhận mọi điều kiện điều đình, để Mỹ bỏ cấm vận, thì ta cũng sẽ rơi vào hỗn loạn và cùng lắm thì cũng sẽ vẫn cố định trong tình trạng trì trệ, đói khổ, bế tắc xã hội như ở Bắc Triều Tiên hay Cuba thôi.”
Không chỉ đánh giá các vấn đề quốc tế, Trần Đức Thảo còn nói vì sao ông từ Paris về Việt Bắc chịu cực khổ, quyết định mà đến lúc chết ông không hối hận:
“…Về quê hương để hiểu rõ thực tại, không được nhìn thẳng vào sự thật, không sống trong sự thật của cuộc cách mạng đầy mâu thuẫn, đầy sai lầm ấy, thì làm sao nhận hiểu ra những sai lầm cơ bản của chính tôi.
Và cả khi phải ra đi như lần này [sang lại Pháp năm 1991]. Nếu không chấp nhận ra đi, thì tôi không thể đạt tới trình độ tu duy để đạt tới thành quả về mặt triết học như hiện nay.
Những trải nghiệm xuyên qua kiểm nghiệm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ kháng chiến và xây dựng cách mạng ở quê nhà đã tạo cơ hội cho tôi dầu dần thấy rõ sai trái bắt đầu từ học thuyết, từ ý thức.
Sự bế tắc của cách mạng và của chính tôi là do ý thức giải phóng con người.”
Vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh, ông Trần Đức Thảo nói đến các bàn tay đại cường chia cắt nhiều quốc gia, dân tộc và gây khổ đau dài lâu cho họ:
“Sự chia cắt tàn nhẫn này là một thứ tập tục áp đặt có tính quốc tế, đã có từ lâu trong lịch sử. Chỉ tính từ sau Đệ nhị Thế chiến, thì đã có sự chia cắt vô cùng tàn nhẫn các vùng lãnh thổ, như ở Cận Đông, nó đã gây ra thảm họa Israel-Palestine, như ở vùng Balkan, ở các vùng biên giới giữa Balan và Đức, giữa Balan và Nga, rồi là sự phân chia lãnh thổ của Đông và Tây Đức, sự phân chia đã cấu tạo rất gượng ép các phần lãnh thổ của nước Nam Tư, rồi sự cắt lãnh thổ thành hai ở Triều Tiên, rồi tới quyết định chia cắt lãnh thổ nước ta cũng vậy…
Tất cả những chia cắt trắng trợn ấy, đều có hậu quả lâu dài, cả trăm năm sau nó vẫn còn tác hại, dù nói chỉ là tạm thời! Đấy là những dàn xếp tàn nhẫn, do chủ mưu, mặc cả, chia chác quyền lợi, ảnh hưởng giữa các nước lớn với nhau, để áp đặt, bất chấp nguyện vọng của các dân tộc trong các vùng, tại các nước bị chia cắt.
Các nước lớn đã chơi trò dựng lên những ý thức, những lý tưởng, những tâm lý phân biệt hệ chính trị, phân biệt biên giới địa lý, đi duy trì sự chia rẽ trong đầu thằng dân nhược tiểu một cách lâu dài, để phe này kiên trì cầm súng bắn giết phe kia, để nuôi dưỡng chiến tranh cục bộ.
Bức tường tâm lý có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất chính là bức tường ý thức hệ. Bức tường này đã chia hai thế giới: một bên là ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên tắc mác-xít đấu tranh giai cấp làm động lực, bên kia là ý thức tư sản, tư bản, lấy lý tưởng tự do dân chủ làm động lực.
Tất cả các lãnh thổ bị chia cắt, các dân tộc bị chia rẽ đều do các nước lớn vũ trang, bằng cả tinh thần lẫn vật chất, để trở thành những ngòi nổ của các cuộc chiến tranh cục bộ, thường là rất đẫm máu.”
Thế mà lãnh đạo mỗi phe, của mỗi phần lãnh thổ bị chia cắt ấy, cử khoe tài, khoe trí, cam kết sẽ “đưa dân tộc, đất nước tới chiến thẳng!” Đau đớn và mỉa mai nhất là trong lúc các nước nhỏ diễn trò anh em bắn giết nhau, thì lãnh đạo các nước lớn vui vẻ thăm viếng nhau, mở yến tiệc khoản đãi nhau, để tìm cách thông cảm nhau, tránh trực tiếp đụng độ nhau.
Đồng thời họ tiếp tục tuôn vũ khí vào các nước nhỏ để nuôi chiến tranh. Là một nhà triết học như tôi, thì phải tìm hiểu để biết nhìn sâu và xa hơn qua những cuộc chiến tranh cục bộ, huynh đệ như thế. Vì sau khi đã chiến thắng, thì còn lại biết bao đau thương mà người dân, ở cả hai bên chiến tuyến, phải gánh chịu.”
Xuất thân là một nhà Marxist, ông Trần Đức Thảo đã đi đến chỗ bác bỏ chủ thuyết cách mạng không tưởng:
“Đấy là một mô hình cách mạng không tưởng, không nền tảng duy vật sử quan!… Không tưởng vì cả tin vào sự đam mê cuồng tín, cả tin vào khả năng giải phóng bằng bạo lực của hận thù.
Cho tới khi bị coi như là một kẻ phản động, bị nghi là “kẻ do địch cài vào hàng ngũ cách mạng” thì từ đó tôi mới nhận ra sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính.
Sự chuyên chính ấy đã đóng kín mọi chân trời, đã không ngừng đẩy những con người chân thật, không chấp nhận dối trá, sang phía thù địch. Và từ đó tôi nhận ra đấy là những sai lầm tai hại, bế tắc của chính tôi.
Nhờ được chứng kiến, được sống sát cánh với những con người đau khổ không có ai, không có gì bảo vệ, như đã thấy trong cuồng phong cải cách ruộng đất…
Từ đó, tôi bắt đầu nhận thức rằng giá trị một ý thức hệ không thể so sánh với mạng sống của con người, nhất là đối với con người bị oan ức, con người bị trù dập, bị bóc lột, hoàn toàn bất lực, vô phương tự vệ.
Một ý thức hệ, dù thế nào thì nó chỉ có giá trị của một dụng cụ. Một dụng cụ làm sao nó có thể so sánh với giá trị của một mạng sống? Nhất là một mạng sống trong oan ức, đau khổ? Vì vậy mà tôi thấy là không thể hi sinh con người cho bất cứ một thứ ý thức hệ nào.
Trước nỗi đau của con người tuyệt vọng vì ý thức hệ, thì chính cái ý thức hệ ấy cũng cần phải được rà xét lại, để cải đổi hoặc để đào thải.
Nhờ sự tỉnh thức như vậy, mà bây giờ tôi đã tìm thấy được con đường đưa tới gần chân lý.
Chính những sai lầm cơ bản về tư duy đã đưa tới những hành động gây đau khổ cho con người, đã dẫn tới sự sụp đổ của ý thức hệ, rồi là của khối xã hội chủ nghĩa…”
Ông Trần Đức Thảo qua đời tại Pháp năm 1993. Trong bài tưởng niệm ‘Tran Duc Thao, 76, Vietnamese Thinker’, trang New York Times nhắc lại cuộc tranh luận nổi tiếng của ông với triết gia hàng đầu của Pháp và châu Âu, Jean-Paul Sartre về chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa hiện sinh. Các báo Pháp và Mỹ năm 1993 đều nói ông bị cấm dạy học và xuất bản ở Việt Nam cho đến năm 1987. Báo Le Figaro cho hay trước khi qua đời, Trần Đức Thảo quyết định ở lại hẳn bên Pháp
——————
Đọc thêm:
Số phận di cảo triết học của Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo
Tác giả: Trần Minh Tuấn (thực hiện)
TPCN – Trò chuyện với TS Phạm Thành Hưng, người tổ chức bản thảo cuốn sách “Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo” ra mắt bạn đọc thời gian gần đây.
Nhà thơ Việt Phương (phải) bàn giao di cảo Triết học của cố GS Trần Đức Thảo cho ông Phạm Thành Hưng ảnh: Trần Minh Tuấn
Cách đây gần nửa năm ông Nguyễn Việt Phương, thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng bàn giao lại cho người đại diện NXB ĐH Quốc gia HN toàn bộ di cảo triết học của cố GS Trần Đức Thảo.
Cho đến nay di cảo này vẫn nằm im lìm trong hốc tủ. Chúng tôi đã trao đổi với TS Phạm Thành Hưng, giảng viên Khoa Văn trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) nguyên Phó giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản (NXB) ĐHQGHN – người đang tạm thời quản lý tập di cảo triết học quý giá đó.
Thưa ông, NXB ĐHQGHN đã nhận bàn giao từ Nhà thơ Việt Phương tập bản thảo chưa công bố của cố GS Trần Đức Thảo như thế nào?
Mọi việc bắt đầu từ khi phát hành cuốn sách “Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo”. Đây là một ấn phẩm bao gồm chủ yếu là các bài viết về Giáo sư Thảo nhân dịp an táng lọ tro di hài ông từ Paris về Hà Nội năm 1993 và nhân dịp ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.
Tôi nói là “chủ yếu”, vì ngoài các bài báo của các học giả, nhà văn, nhà báo ở trong và ngoài nước, cuốn sách còn có phần mang tính chất phụ trương tham khảo, bao gồm một số tiểu luận chính trị, văn học của GS Thảo vốn gây nhiều tranh cãi và góp phần làm nặng nỗi oan khuất của ông.
Những trang cuối cùng của cuốn sách là phần Thư mục khoa học, có chức năng giúp đỡ cán bộ sinh viên tra cứu nếu có điều kiện. Cuốn sách này đã được Cục Xuất bản (Bộ Văn hóa – Thông tin) trợ giá. Tuy nhiên, điều rất mừng là cuốn sách khi xuất bản không cần sự trợ giá, không cần bù lỗ.
Sau khi ra đời, nó đã được đông đảo sinh viên, học giả hào hứng tìm đọc. Sách có mặt ở Thư viện Viện nghiên cứu Kinh tế Chính phủ. Nhà thơ Việt Phương (thành viên của tổ nghiên cứu giúp việc Thủ tướng) đã gọi điện cho tôi, góp ý cho cuốn sách.
Phần Thư mục khoa học đã được ông chú ý nhiều, vì còn thiếu nhiều công trình của GS Thảo và các bài viết về GS Thảo. Cuối cuộc điện thoại, nhà thơ Việt Phương khiến tôi giật mình khi thông báo: “Khi còn sống, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận được nhiều tập bản thảo, đủ cả đánh máy lẫn viết tay, tiếng Pháp lẫn tiếng Việt của GS Thảo gửi tặng.
Thủ tướng thường đọc rất kỹ và giao cho tôi bảo quản. Thủ tướng dặn tôi: phải tìm cách xuất bản dần. Chọn mặt gửi vàng, nay tôi phó thác lại cho nhà xuất bản Đại học Quốc gia HN các anh”.
Vậy là từ một cuốn sách mỏng về GS Thảo, đồng chí thư ký của cố Thủ tướng đã tin tưởng, quyết định “chọn mặt gửi vàng” cho Nhà xuất bản?
Tôi nghĩ, một cuốn sách tuy mỏng nhưng hoàn toàn có thể đủ sức nặng thuyết phục. Sự thật không cần nhiều lời, quan trọng là động cơ và cái tâm của người biên tập sách.
NXB ĐHQGHN được tin cậy gửi gắm, theo tôi, xuất phát từ mấy ly do sau. Thứ nhất, đây là một NXB tuy còn trẻ nhưng lại là lớn nhất trong hệ thống các nhà xuất bản đại học trong cả nước. Nó có chức năng phục vụ công tác nghiên cứu, đào tạo đại học và sau đại học.
Trong di cảo của GS Thảo, có rất nhiều tập giáo trình, chuyên luận có chức năng phục vụ học đường. Thứ hai, NXB đã từng xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng của GS Thảo, cuốn “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” và “Sự hình thành con người”.
Đó là hai cuốn GS Thảo viết bằng tiếng Pháp, lâu nay được dịch ra nhiều thứ tiếng, chỉ phục vụ độc giả nước ngoài, sau bao năm lưu lạc, năm 2002 mới được Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn– tổ chức dịch sang tiếng Việt.
Việc NXB ĐHQGHN xuất bản, đã góp phần “hồi hương” hai công trình đó trở lại Việt Nam. Thứ ba, GS Thảo chính là GS cũ của ĐHQGHN.
Có thông tin hiện tại Đại sứ quán Việt Nam tại CH Pháp còn đang chờ bàn giao tận tay người thân GS Thảo 8 thùng tài liệu nữa. Điều đó có đúng không, thưa ông?
Tôi không tin, đó chỉ là phán đoán của cá nhân một đồng chí cán bộ xuất bản vốn là khách mời tới dự Lễ giới thiệu sách “Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo” do Thư viện quốc gia Việt Nam và NXB ĐHQGHN phối hợp tổ chức ngày 31/5/2006.
Nếu có còn 8 thùng đó thật thì chúng ta cũng mừng, cũng hy vọng tới một di cảo đồ sộ hơn. Nhưng theo tôi, đó chỉ là những thùng sách tiếng Pháp mà GS Thảo mua được trong những tháng làm việc ở Paris.
Do đâu mà ông lại khẳng định như vậy?
Tôi đang có trong tay biên bản kiểm kê tài sản của GS Thảo do Đại sứ quán Việt Nam ở Paris lập sau khi ông qua đời. Nội dung biên bản cho biết: Vì cước máy bay đắt nên các đồng chí lãnh đạo sứ quán ta khi đó đã chọn những bản thảo và các tài liệu có giá trị nhất của GS Thảo, chuyển vào thùng hành lý máy bay về nước.
Thùng tài liệu đó ai đã nhận bàn giao ở sân bay, ai đang bảo quản, tôi không rõ. Số sách vở tài liệu còn lại ở Sứ quán hiện tại là 2 hay 3 thùng gì đó, chỉ là sách in, không có bản thảo viết tay đâu.
Nói như vậy để thấy rằng, ngoài các tập bản thảo từ cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, di cảo triết học của GS Thảo còn có ở va ly tài liệu gửi kèm với lọ tro di hài. Chúng ta phải có trách nhiệm tìm kiếm chiếc va ly đó để hoàn chỉnh kho tài liệu di cảo.
Sau khi nhận bàn giao, NXB ĐHQGHN đã có kế hoạch in ấn, công bố chưa?
Hiện NXB ĐHQGHN chưa thể tiến hành. Vì đây là một công việc không thực hiện một sớm một chiều được. Thứ nhất, tập tài liệu di cảo đó đòi hỏi phải có sự thẩm định hết sức thận trọng về mặt khoa học, để xem cái gì nên in cái gì tạm thời để lại.
Theo đánh giá bước đầu của tôi, ngoài các bản thảo tiếng Pháp đòi hỏi phải có các chuyên gia dịch thuật, trong tập di cảo đó có những bản thảo viết lần thứ nhất, bản thảo viết lần thứ hai, thứ ba… thuộc một công trình đã công bố.
Tuy nhiên, các bản thảo đó vẫn có giá trị học thuật. Làm triết học trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, ngòi bút của triết gia tất yếu chịu sự tác động của đời sống chính trị bên ngoài thư phòng. Vì vậy có thể bản thảo viết lần thứ nhất lại gần với chân lý khoa học hơn bản công bố cuối cùng.
Nếu điều kiện tài chính cho phép, tôi nghĩ, cần in toàn bộ các bản thảo đó để sinh viên, cán bộ nghiên cứu của chúng ta nắm bắt được diễn biến tư tưởng của tác giả và những lộ trình tư duy đi tới hình thành một cuốn sách triết học thời đất nước chiến tranh.
Lý do thứ hai khiến NXB ĐHQGHN chưa thể tiến hành xuất bản gấp tập di cảo đó còn là ở chỗ vấn đề bản quyền tác giả. GS Thảo mất, không để lại di chúc về quyền thừa kế.
Tuy vậy, theo TS Cù Huy Chử, người rất gần gũi GS Thảo những năm cuối đời, GS Thảo có nguyện vọng in sách của mình ở hai nơi: Một là NXB Chính trị Quốc gia (vì theo ông, đó là cơ quan xuất bản của một Đảng mà suốt đời ông phụng sự, trung thành – TMT), hai là Đại học Tổng hợp HN, nơi ông đã từng đứng trên bục giảng.
NXB Chính trị Quốc gia đã có liên hệ với người thừa kế pháp luật của GS Thảo để xin toàn quyền xuất bản. Gần đây, một tổ chức của UNESCO đã đặt vấn đề “mua” toàn bộ di cảo để dịch và xuất bản thành hệ thống. Tôi cũng tin rằng nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngoài sẵn sàng giúp chúng ta công bố toàn bộ di sản triết học của GS Thảo.
Tôi hy vọng rằng, những tập tài liệu di cảo của triết gia Trần Đức Thảo đang nằm im lìm, rải rác cả hai miền Nam Bắc, cả trong nước lẫn nước ngoài sẽ được tập hợp đầy đủ “Châu về Hợp Phố”, Toàn tập Trần Đức Thảo sẽ sớm ra mắt, cho hôm nay và cho mai sau.
Ông Phạm Thành Hưng cho biết thêm sáng ngày 7/11, ông đã làm việc với PGS Vũ Đức Liệu, Hiệu phó trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Ông Liệu hứa sẽ triển khai việc dịch thuật di cảo của cố GS Trần Đức Thảo để phục vụ công tác nghiên cứu trong thời gian sớm nhất.
Theo ông Hưng, khó khăn nhất trong quá trình dịch và công bố di cảo của GS Thảo là những người giỏi tiếng Pháp thì không hiểu triết học, người giỏi triết học thì lại không biết tiếng Pháp. Nó đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa dịch thuật và nghiên cứu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét