12 tháng 8, 2019

Giỗ đầu Bùi Tín – Và chưa chi chiều đã tắt

Tác giả: Trần Phương

Tôi hỏi ông về câu chuyện trưa 30/4/1975. Khi ông còn ở Việt Nam, sử sách viết rõ: Ông là sỹ quan cao cấp nhất có mặt vào thời điểm đó. Ông đại diện cho Quân đội Nhân dân bước vào Dinh Độc Lập nhận bàn giao từ Tổng thống Dương Văn Minh. Từ khi ông bỏ Đảng, trở thành nhà bất đồng chính kiến, tên ông bị đục bỏ khỏi khoảnh khắc bi thương và oan nghiệt nhất của lịch sử Việt Nam đương đại.
…Cho đến giờ ông vẫn còn ân hận vì đã quá lời với Dương Văn Minh lúc đó. Ông vẫn còn nhớ như in khi ông đọc tờ thực đơn của bữa ăn trưa cuối cùng của tống thống Việt Nam Cộng Hòa: Cá thu kho mía và gân bò hầm sâm.
KD: Mình không biết Trần Phương là ai. Nhưng đây là một bài viết công tâm, tử tế. Người viết có tư cách đàng hoàng. Chuyện Bùi Tín là một trong những người vào Dinh ĐL tiếp quản c/q Dương Văn Minh thì chả cần hỏi đâu xa- báo ND hồi đó đầy những bài viết thể loại phóng sự rất hấp dẫn của chính ông Bùi Tín- khi đó với tư cách phóng viên chiến tranh, liên tiếp gửi bài ra.
Có một chi tiết buồn cười mà tác giả Trần Phương nhắc tới trong bài, bữa ăn cuối cùng của Tổng thống VNCH Dương Văn Minh “Cá thu kho mía và gân bò hầm sâm”, mình nhớ khi đó báo in nhầm thành “Cá thu kho giá và gân bò hầm sâm”. Là bởi “cá kho mía” thì khi đó chưa bao giờ là tập quán của người miền bắc. Thường họ chỉ cho đường, hoặc thắng đường thành “nước hàng” cho vào cá. Còn “cá thu kho mía” đích thị là gu của người miền Nam.
Mình nhớ chi tiết này rất lâu bởi chính mình – cũng là một “nội tướng” rất thích nấu ăn, hay quan tâm tới ẩm thực- cứ lăn tăn, tại sao lại “cá thu kho giá?” Vì giá chỉ xào chứ không ai kho, mà lại kho với cá thì chắc là tanh lắm. Sau này hỏi lại, mới hay đó là “cá thu kho mía”
Nhắc lại chi tiết “cá thu kho mía” thành “cá thu kho giá” chỉ để nói một điều, sự thật lịch sử vẫn cứ là sự thật lịch sử, dù có cố tình phủ nhận hay bóp méo!
Chính trị vốn vậy, đầy thủ đoạn, tàn nhẫn và thiếu sòng phẳng!
Xin đăng bài viết này để bạn đọc chia sẻ- nhân ngày giỗ đầu ông- 1/7 Âm lịch
——————— 
Tôi gặp Bùi Tín lần đầu vào một chiều mùa hè năm 1980 tại Hà Nội. Tôi gặp ông lần cuối cũng vào mùa hè 2017 tại California. Tôi không bao giờ nghĩ rằng đó là lần cuối.
Những buổi chiều ngắn ngủi bên ông. Chúng tôi đi dạo trong khuôn viên thinh lặng, mêng mông của một trường đại học miền Nam California. Ông dừng lại như để lấy thêm hơi thở rồi hỏi tôi, có biết loài cây này không. Tôi cố cười để giấu sự dốt nát của mình. Tôi trả lời thành thật. Tên tiếng Việt của nó tôi còn chưa biết nói gì đến tiếng Anh.
Ông nói tên tiếng Anh và tiếng Việt của nó. Ông giải thích vì sao nó tới đất này. Thì ra đó là loài phượng tím. Tôi đã đi trên con đường này bao lần. Hoa tím vương đầy lối mà tôi thật vô tâm. Chẳng khi nào dừng lại mà tự hỏi đó là cây gì, hoa gì? Rồi tôi suy ngẫm về thân phận con người. Thì ra không phải chỉ có loài người đi tìm nơi lánh nạn, mà cả loài cỏ cây, gỗ đá cũng kiếm nơi trú ẩn.
Ông và tôi ngồi nghỉ dưới vòm phượng tím, không gian yên tĩnh, nắng chiều Cali thật dịu dàng. Tôi hỏi ông về câu chuyện trưa 30/4/1975. Khi ông còn ở Việt Nam, sử sách viết rõ: Ông là sỹ quan cao cấp nhất có mặt vào thời điểm đó. Ông đại diện cho Quân đội Nhân dân bước vào Dinh Độc Lập nhận bàn giao từ Tổng thống Dương Văn Minh. Từ khi ông bỏ Đảng, trở thành nhà bất đồng chính kiến, tên ông bị đục bỏ khỏi khoảnh khắc bi thương và oan nghiệt nhất của lịch sử Việt Nam đương đại.
Huy Đức khẳng định: Bùi Tín không có mặt ở Dinh Độc Lập vào thời điểm đó. Huy Đức là một người viết được cho là tử tế. Cuốn Bên Thắng Cuộc của anh do nhà xuất bản Người Việt tại Hoa Kỳ phát hành, không bị kiểm duyệt. Tại sao Huy Đức lại loại tên ông ra. Lẽ nào Huy Đức nhầm lẫn. Lẽ nào Huy Đức lại ngụy tạo lịch sử trắng trợn đến cỡ đó. Ông cười nhẹ nhàng, nhưng không trả lời rồi bảo: Cho đến giờ ông vẫn còn ân hận vì đã quá lời với Dương Văn Minh lúc đó. Ông vẫn còn nhớ như in khi ông đọc tờ thực đơn của bữa ăn trưa cuối cùng của tống thống Việt Nam Cộng Hòa: Cá thu kho mía và gân bò hầm sâm.
Ngày ông mất, truyền thông phương Tây tràn ngập những bài về ông. Con trai cưng của một Thượng thư Bộ Hình lẫy lừng trong triều đình Huế. Một người lính đã can dự vào trận Điện Biên Phủ và bị thương ở đó. Một phóng viên chiến trường cự phách. Một sỹ quan quân đội đã tham gia thẩm vấn những phi công Mỹ tại nhà tù khét tiếng Hỏa Lò. Một người đã tiếp nhận sự đầu hàng của vị Tổng thống Nam Việt Nam. Một sĩ quan cao cấp của Quân đội Nhân dân đào ngũ. Một nhà bất đồng chính kiến kiên cường. Một kiếp lưu vong bất khuất.
Tôi xót xa cho những năm tháng lưu đày lênh đênh thương nhớ vô tận của ông. Tôi hỏi ông có nghĩ đến cơ hội trở về. Ông bảo: “Người ta” có bắn tiếng sẽ cho ông về, sẽ phục hồi mọi quyền lợi cho ông, với một điều kiện. Ông phải im lặng. Ông không được viết lách phát biểu gì. Làm sao Bùi Tín có thể im lặng trước nỗi đau đớn tủi nhục của đồng bào mình.
Như bao nhiêu người Việt Nam khác cùng thế hệ, ông đã can dự vào cả bốn cuộc chiến liên tục, đẫm máu, dai dẳng và tàn khốc nhất trong lịch sử Việt Nam. Đánh Pháp. Đánh Mỹ. Đánh Khmer Đỏ. Đánh bá quyền Trung Quốc. Ông đã giành cả thời trai trẻ để tham dự vào đoàn quân quyết đập vỡ mặt nền Cộng hòa Pháp, quyết đánh bể đầu nền Tự do Mỹ.
Nhưng rồi, chính Pháp và Mỹ đã giang rộng vòng tay cưu mang ông những năm tháng lưu vong tận tuyệt. Cũng chính Pháp và Mỹ đã cho ông nếm hương vị của bầu khí quyển tự do vô tận mà ông cùng các đồng chí của ông hằng đánh đuổi. Cuộc đời ông là một bi kịch khổng lồ, một trò nhạo báng vĩ đại, một nghịch lý siêu phàm, một tấn hài cay đắng, một nhầm lẫn lịch sử.
Giữa ông và tôi rất khác nhau. Ông lừng danh. Tôi vô danh. Ông nổi tiếng tầm cỡ quốc tế. Tôi nổi tiếng tầm cỡ gia đình. Ông dày dạn. Tôi non kém. Ông sâu sắc. Tôi nông cạn. Nhưng ông và tôi giống nhau một điểm. Cả hai đến từ miền Bắc Việt Nam. Nguời anh em Cộng sản gọi chúng tôi là “bọn phản động”. Người anh em Cộng hòa coi chúng tôi là “bọn nằm vùng”. Chúng tôi lưu vong ngay giữa gia đình.
Dưới vòm phượng tím, bầu trời đang tối dần. Ông đọc bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?” của cô giáo Lam, ở Hà Tĩnh. Tuổi 90, tay chống gậy, Bùi Tín bước từng bước chậm chạp và khó nhọc, nhưng giọng ông hùng hồn, mạch lạc và sang sảng. Ông nhấn từng chữ, gởi cả tâm tư vào câu hỏi đầu tiên của mỗi khổ thơ: Đất nước mình ngộ quá phải không anh? Đất nước mình lạ quá phải không anh? Đất nước mình buồn quá phải không anh? Đất nước mình thương quá phải không anh?
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu…
Những tia nắng cuối cùng trong ngày hắt lên. Ông nhọc nhằn ngồi xuống phiến đá lặng im như một pho tượng. Màn đêm nhạt nhòa buông xuống. Tôi đọc cho ông nghe câu thơ của Salvatore Quasimodo “Mỗi người đứng bơ vơ trên trái tim trái đất. Lòng xuyên qua một tia nắng mặt trời. Và chưa chi chiều đã tắt”.
Thi sỹ trẻ tuổi người Mỹ gốc Việt Ocean Vương vừa cho ra đời cuốn tiểu thuyết “On Earth We’re Briefly Gorgeous” – Trên mặt đất chúng ta chỉ huy hoàng trong chốc lát. Ngạn ngữ Việt có câu “Đời người sống gởi thác về”. Trịnh Công Sơn hát “Có đường phố nào vui. Cho ta qua một ngày”. Chúa Giê Su trước giờ lâm chung Ngài cầu nguyện: “Xin Cha ở với con giờ này. Mọi việc trên đất đã xong xuôi cả rồi”. Cuộc dạo chơi trên đất của Bùi Tín cũng đã xong xuôi.
Ông và thế hệ của ông đã đánh thức lương tri, đã gieo mầm mơ ước, đã thắp lên những tia hy vọng, tự do, đã đốt lên đốm lửa trong đêm dài tăm tối. Ông như người lính đã hoàn thành nhiệm vụ. Ông như người nông dân vừa cày xong thửa ruộng. Ông xứng đáng được yên nghỉ.
Giỗ đầu ông. Đốt nén nhang lòng, truy điệu một người lính đã nằm xuống. Ông sống khôn chết thiêng. Mong ông tha thứ. Tôi hứa đưa ông về nhà chơi, nhưng chưa kịp. Ông đã ra đi và chưa chi chiều đã tắt.

13 bài học cuộc sống nên ghi nhớ

Tác giả: theo FB người Trung Niên- (Sưu tầm). Nguồn: New Dharma Readers

KD: Bạn bè gửi cho stt này. Đọc mà lặng đi, suy ngẫm vì quá thấm thía. Người viết hẳn phải rất trải đời, chiêm nghiệm cùng quan sát. Từng yêu, từng đau, từng tri kỷ, từng chia xa, từng cay đắng, từng bao dung…
————— 
1. Trong bất cứ mối quan hệ nào, nếu bạn nhận thấy mình không được tôn trọng, hãy ra đi cho dù là tình bạn hay tình yêu.
2. Đôi khi chúng ta phải chấp nhận việc quên đi một số người trong quá khứ. Bởi vì một lý do đơn giản: Họ không thuộc về tương lai chúng ta!
3. Tôi không sợ bị ai đó đâm lén từ phía sau. Tôi chỉ sợ, khi quay lại nhìn người đã đâm mình thì đó lại chính là người mà tôi đã dành cả trái tim để đối đãi.
4. Nếu ai đó ghét bạn, mắng chửi bạn. Bạn cứ bình tĩnh nghe và mỉm cười với họ. Đó mới là cao nhân.
5. Thời gian là câu trả lời đúng đắn nhất cho một tình yêu.
6. Càng trưởng thành, con người càng lười giải thích. Có khi ai đó hiểu lầm, ta thậm chí muốn để họ tự tìm ra câu trả lời theo thời gian. Ta chỉ cần những người ta thương là đủ, còn lại, tùy! Cuộc sống là để sống, không phải để giải thích.
7. Trong quá khứ có rất nhiều mối quan hệ từng được coi là mãi mãi, nhưng rồi cuối cùng vẫn phải kết thúc.
8. Bạn bè đến rồi đi, người yêu cũng đến rồi đi. Chỉ có những kẻ soi mói và nói xấu bạn là ở lại và ngày một nhiều hơn mà thôi.
9. Trong cuộc sống, bạn nhất định sẽ gặp một người, người ấy phá vỡ những nguyên tắc, thay đổi thói quen trở thành ngoại lệ của bạn.
10. Khi bạn phải lòng ai đó, não bộ tự động bỏ qua tất cả nhược điểm, khiến chúng ta nghĩ rằng người đó “hoàn hảo”.
11. Đa số các mối quan hệ kết thúc vì một người suy nghĩ quá nhiều, người còn lại im lặng không muốn giải thích. Im lặng để chia tay, nghe nhẹ nhàng nhưng thực ra lại đau đớn.
12. Khi bạn hoàn toàn tin tưởng một ai đó, bạn sẽ nhận được một trong hai kết quả: hoặc là một người tri kỉ thật sự hoặc là một bài học cay đắng để đời đến già.
13. Bạn bè tốt là khi thấy ngã thì đỡ chứ không phải đợi lúc mình tắt thở rồi mới thắp nhang.

9 tháng 8, 2019

Công ty Gateway của bà Trần Hồng Hạnh: Mang tên giáo dục nhưng lại kinh doanh bất động sản

Tác giả: Hoàng Lan 
Mặc dù tên là Công ty Cổ phần Giáo dục Gateway Việt Nam nhưng doanh nghiệp do bà Trần Thị Hồng Hạnh (chủ tịch hội đồng nhà trường trường quốc tế liên cấp Gateway) làm giám đốc lại chỉ đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản, đến nay có vốn điều lệ 75 tỷ đồng.
KD: Thực chất cũng là kinh doanh GD thôi, nên hành vi của các vị khi xảy ra sự cố hết sức thiếu chuyên nghiệp. Thông cáo báo chí về sự tử vong của bé trai vừa lạnh lùng, vô cảm, và trả lời cha mẹ học sinh lại dối trá. Đề nghị Sở GD Hà Nội xử lý nghiêm khắc, nên đóng cửa trường này. Thầy bà gì mà vô cảm và dối trá đến vậy?
Ở trên mạng, các cư dân mạng của làng Phây Vũ Đại đang xôn xao bàn luận và đồn nhau thông tin này. Chẳng biết thực hư ra răng:
1. Trần Thị Hồng Vân sinh năm 1986 là con gái của Trần Văn Vệ – Trung tướng, Phó thủ trưởng Thường trực Cơ quan Cảnh sát điều tra, Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an. Ông nguyên là Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an, nguyên Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình.
2. Trần Thị Hồng Hạnh (1982) và Trần Thị Huyền (1985) là con gái của Trần Văn Đình – Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á. Ông Đình là anh trai của Trần Văn Vệ.
3. Nguyễn Thị Xuân Trang sinh năm 1986 là con gái của Nguyễn Xuân Phúc – Thủ tướng Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mấy thông tin trên cũng đủ để cho thấy sự phát triển mạnh một cách bất thường ở CTCP Tập đoàn Giáo dục Quốc tế Edufi”.
Nếu đúng như vậy, thì các “tiểu thư” đều là dân cành vàng lá ngọc, “có máu mặt” cả

——————- 


Ngoài giáo dục, bà chủ trường Gateway Trần Thị Hồng Hạnh còn kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản.
Tối 6/8, sự việc một bé trai học lớp 1 tại trường quốc tế liên cấp Gateway tử vong vì bị bỏ quên trên xe đưa đón của trường gây rúng động.
Tìm hiểu về trường Gateway và Chủ tịch hội đồng nhà trường Trần Thị Hồng Hạnh, VietnamFinance được biết bà Trần Thị Hồng Hạnh là giám đốc hàng loạt doanh nghiệp, bao gồm: Công ty cổ phần giáo dục Edufit, Công ty cổ phần giáo dục Gateway Việt Nam, Công ty cổ phần hợp tác giáo dục Việt Nam, Công ty cổ phần Zusso Việt Nam, Công ty TNHH giáo dục Edusmart Tây Hồ và Công ty cổ phần giáo dục Nguồn sáng.
Trong đó, mặc dù được đặt tên là Công ty Cổ phần giáo dục Gateway Việt Nam – trùng với tên của hệ thống trường liên cấp Gateway – nơi vừa xảy ra vụ tai nạn thương tâm của bé trai học lớp 1 nhưng doanh nghiệp này không kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục mà ngành nghề chính theo đăng ký kinh doanh là bất động sản.
Theo tài liệu của VietnamFinance, công ty Gateway được thành lập ngày 4/5/2017, trụ sở chính tại số 6 ngõ 1, khu 5 đường Hà Trì, phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật là bà chủ trường Gateway – Trần Thị Hồng Hạnh. Tại thời điểm thành lập, công ty Gateway có vốn chủ sở hữu 50 tỷ đồng. Tuy nhiên, kết thúc năm 2018, vốn chủ sở hữu của Gateway đã tăng vọt từ 50 tỷ đồng lên 75 tỷ đồng.
Về hoạt động kinh doanh, năm 2018, công ty Gateway không ghi nhận doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ mà chỉ ghi nhận doanh thu từ hoạt động tài chính với vỏn vẹn 1,799 triệu đồng. Chi phí quản lý doanh nghiệp của công ty trong năm 2018 là 78,9 triệu đồng. Do vậy, kết thúc năm 2018, công ty Gateway ghi nhận khoản lỗ nhỏ là 77,1 triệu đồng.
Tại ngày 31/12/2018, tổng tài sản của công ty Gateway đạt 75,199 tỷ đồng. Trong đó, phần lớn là tài sản dở dang dài hạn nằm ở chi phí xây dựng cơ bản dở dang, chiếm 71,8 tỷ đồng. 
Trong kỳ, nợ phải trả của công ty Gateway giảm mạnh từ 30,9 tỷ đồng xuống còn 300 triệu đồng, chủ yếu là nợ ngắn hạn.
ng ty Cổ phần Giáo dục Gateway Việt Nam có 3 cổ đông sáng lập và không có cổ đông nước ngoài
Không chỉ công ty Gateway mà Công ty cổ phần giáo dục Edufit do bà Trần Thị Hồng Hạnh làm giám đốc cũng đăng ký kinh doanh bất động sản và các dịch vụ tư vấn, môi giới, đấu giá bất động sản, đấu giá quyền sử dụng đất
Công ty Edufit được cho là tập đoàn mẹ của hệ thống trường Gateway và Sakura Montessori do bà Trần Thị Hồng Hạnh làm Chủ tịch. Hệ thống trường mầm non Sakura Montessori đã mở 9 trường trên toàn quốc, trong khi hệ thống trường Gateway mở tại Hà Nội, chi nhánh Hải Phòng đi vào hoạt động từ tháng 7/2019 và dự án Gateway Staralake tại Tây Hồ Tây sẽ đi vào hoạt động năm 2020.
Ngay trước khi sự việc nam sinh lớp 1 tử vong trên xe đưa đón của trường xảy ra, Edufit của bà Trần Thị Hồng Hạnh đã nhận được khoản đầu tư 34 triệu USD cho dự án xây dựng trường Phổ thông liên cấp Quốc tế Gateway Tây Hồ Tây từ công ty Toshin Development Co., Ltd (nhà phát triển bất động sản thuộc tập đoàn Takashimaya, một trong những tập đoàn kinh doanh bách hóa thương mại hàng đầu Nhật Bản) tại Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam – Nhật Bản ở thủ đô Tokyo.
Được biết, mức học phí tại trường Gateway và Sakura Montessori của bà Trần Thị Hồng Hạnh tương đối cao, từ 110 triệu đồng/năm trở lên. Ngoài ra, còn có tiền ăn khoảng 26 triệu đồng/năm, tiền đồng phục 6 triệu đồng, phí dự tuyển 1 triệu đồng và phí phát triển trưởng 8,8 triệu đồng/năm.

5 tháng 8, 2019

Chính phủ ‘ôm nợ’ tỉ đô cho nhiều ‘ông lớn’

Tác giả: Bảo Ngọc
Nhiều dự án trong lĩnh vực ximăng, giấy và thủy điện… được Chính phủ bảo lãnh hoàn toàn mất khả năng trả nợ và đang phải thanh lý tài sản để thu hồi vốn hoặc phải tái cơ cấu do nợ quá hạn cao…
KD: Chính phủ ôm nợ các ông lớn, thì nhân dân đóng thuế trả nợ.
—————–
Nhà máy sản xuất bột giấy Phương Nam, tỉnh Long An mất khả năng trả nợ và đang phải thanh lý tài sản – Ảnh: S.LÂM
Nhiều “ông lớn” trong lĩnh vực điện, hàng không, ximăng… được Chính phủ bảo lãnh vay vốn, phát hành trái phiếu hút vốn lên tới hàng chục tỉ USD, trong đó không ít dự án làm ăn thua lỗ, Chính phủ phải dùng nguồn tiền từ quỹ tích lũy trả nợ quốc gia trả nợ thay.
Bảo lãnh lĩnh vực điện vay 17,3 tỉ USD!
Báo cáo tình hình bảo lãnh chính phủ năm 2018 được Bộ Tài chính gửi tới Thủ tướng ghi nhận dư nợ bảo lãnh ngành điện hiện chiếm tỉ trọng lớn trong danh mục bảo lãnh vay vốn của Chính phủ cho các lĩnh vực quan trọng. Các dự án đầu tư nguồn điện đảm bảo lượng điện tiêu thụ và có hợp đồng bán điện dài hạn nên có nguồn thu ổn định và bảo đảm khả năng trả nợ tốt hơn lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, bảo lãnh vay nợ của Chính phủ trong lĩnh vực điện tập trung chủ yếu tại một số tập đoàn lớn như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (EVNNPT).
Theo đó, Chính phủ đã cấp bảo lãnh vay nợ cho EVN khoảng 10,1 tỉ USD, PVN khoảng 3,3 tỉ USD, TKV khoảng 678 triệu USD, EVNNPT 615 triệu USD và các công ty khác 2,69 tỉ USD. Tổng giá trị bảo lãnh vay vốn của Chính phủ trong ngành điện khoảng 17,3 tỉ USD. 
Riêng trong năm 2018, Chính phủ cấp bảo lãnh cho doanh nghiệp vay 1,64 tỉ USD để đầu tư 2 nhà máy nhiệt điện Sông Hậu 1 và Vĩnh Tân 4.
Trong lĩnh vực hàng không, Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VNA) và Công ty CP Cho thuê máy bay (VALC) cũng được Chính phủ bảo lãnh cho vay hàng tỉ USD. Trong đó, VNA được bảo lãnh vay nợ 1,03 tỉ USD, VALC được bảo lãnh cho vay nợ 297,4 triệu USD.
Lũy kế đến hết năm 2018, Chính phủ đã bảo lãnh vay vốn cho các dự án đầu tư quan trọng khoảng 27,7 tỉ USD, trong đó 23,6 tỉ USD vốn vay nước ngoài, 4,1 tỉ USD vốn vay trong nước.
Ngoài ra, Chính phủ tiếp tục bảo lãnh cho 2 ngân hàng chính sách phát hành trái phiếu để huy động vốn. Năm 2018, Ngân hàng Chính sách xã hội đã phát hành thêm 9.670 tỉ đồng trái phiếu, nâng tổng dư nợ trái phiếu lên 39.331 tỉ đồng. Bảo lãnh cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành thêm 16.545 tỉ đồng, nâng tổng dư nợ trái phiếu lên 118.406 tỉ đồng.
Dư nợ bảo lãnh của Chính phủ qua các năm so với nợ công, GDP – Đồ họa: T.ĐẠT
“Cục nợ” ximăng và nỗi lo mất vốn
Bộ Tài chính cho biết trong năm 2018, quỹ tích lũy trả nợ đã phải ứng ra chi trả cho một số khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Riêng với dự án Nhà máy giấy Phương Nam, quỹ tích lũy trả nợ phải chi 97 triệu USD để trả nợ gốc và lãi vay nước ngoài. Nhưng đến nay, Bộ Công thương và Tổng công ty Giấy VN vẫn chưa thể xử lý xong tài sản dự án Nhà máy giấy Phương Nam để thu hồi vốn trả quỹ tích lũy trả nợ.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, dự án Nhà máy giấy Phương Nam hoàn toàn mất khả năng trả nợ và đang phải thanh lý tài sản để thu hồi vốn. Dự án khó khăn về tài chính nên không thể trả nợ các kỳ từ năm 2008 đến nay và quỹ tích lũy trả nợ buộc phải ứng tiền trả nợ thay.
Một loạt dự án đầu tư dây chuyền sản xuất ximăng được Chính phủ bảo lãnh nợ vay trong những năm qua cũng đang gặp khó khăn, có nợ quá hạn cao, phải tái cơ cấu nợ vay như dự án ximăng Thái Ngu
Dự án ximăng Thái Nguyên khó khăn tài chính, mất khả năng trả nợ từ năm 2011, đến nay Tổng công ty Xây dựng công nghiệp Việt Nam phải vay tạm ứng từ quỹ tích lũy trả nợ 30,79 triệu EUR để trả nợ nước ngoài. 
Dự án ximăng Hạ Long do Tổng công ty Sông Đà đầu tư cũng thua lỗ nên không trả được nợ từ 2012 – 2015. Tổng công ty Sông Đà phải vay từ quỹ tích lũy trả nợ 52,21 triệu USD để trả nợ vay nước ngoài đến hạn. Cuối cùng, dự án ximăng Đồng Bành dù đã đi vào sản xuất ổn định thời gian gần đây vẫn phải vay 16,55 triệu USD để có tiền trả nợ.
Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng: Giao các bộ Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chủ động thực hiện các biện pháp quản lý bảo lãnh vay nợ của Chính phủ đúng quy định pháp luật hiện hành, bảo đảm công tác quản lý bảo lãnh chặt chẽ, hạn chế thấp nhất rủi ro.
* Tổng dư nợ được Chính phủ bảo lãnh đến hết năm 2018 khoảng 437.372 tỉ đồng, chiếm khoảng 13,5% nợ công, tương đương 7,9% GDP. Giá trị bảo lãnh vay nợ của Chính phủ đã giảm 18.550 tỉ đồng so với năm 2017.
TTO – Nợ công tăng thêm của năm 2017 là 204.413 tỉ đồng và tiếp tục tăng trong khi ngân sách trung ương chưa có thặng dư để trả nợ. Việc ứng trước dự toán ngân sách lớn, có xu hướng tăng khiến nghĩa vụ bố trí ngân sách khó khăn.

Suy nghĩ về một bài ca dao và thái độ của người dân trước thời cuộc

Huỳnh Ngọc Chênh
"Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ ơ của đa số người dân trước thời cuộc, trước vận mệnh của đất nước."
Hồi còn nhỏ tôi được học một bài ca dao:
” Con cò đậu ở bờ tre/ 
Thằng Tây nó bắn cò què một chân/ 
Mai cò ra chợ Đồng Xuân/ 
Chú khách mới hỏi sao chân cò què/ 
Cò rằng tôi đứng bờ tre/ 
Thằng tây nó bắn tôi què một chân”
Bài ca dao này cứ ám ảnh tôi mãi, không phải vì nó có nội dung hay nghệ thuật đặc sắc gì mà vì thông điệp không rõ ràng của nó đối với người đọc. Tôi nhớ sách giáo khoa (không nhớ rõ lớp nào và năm nào) có giải thích: – qua nhân vật con cò tố cáo tội ác của giặc Pháp!
Tuy nhiên, ”con cò” ở đây không hề có thái độ thù hằn gì “Thằng tây” cả, thậm chí, cũng không thực sự đau buồn hay giận dữ!. Đổi lại, thái độ của ”cò” hoàn toàn dửng dưng: ”- cò rằng tôi đứng bờ tre/ thằng tây nó bắn tôi què một chân”! Hết!
Thái độ dửng dưng này là một dấu hỏi lớn trong tâm trí tôi suốt thời đi học. Sau này được tiếp cận một khối lượng lớn thông tin và qua suy xét của bản thân tôi dần dần nghiệm ra ý tứ sâu xa mà tác giả vô danh muốn gửi tới người đọc.
Bài ca dao trên gắn với một giai đoạn đau buồn trong lịch sử dân tộc, đó là khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
Xem lại lịch sử giai đoạn này, ngoài quyết tâm đánh pháp của Trương Công Định và các văn thân, sỹ phu với nhưng tấm gương hy sinh anh dũng (thực ra cả Triều đình Nhà Nguyễn cũng quyết tâm đánh Pháp) còn có các sự kiện khác mà người Việt Nam có lương tri nào khi xem lại cũng cảm thấy xấu hổ.
Chỉ có 120 binh lính Pháp do một đại úy chỉ huy cộng với vài chục lính mộ người Việt và người một số nước Châu Á khác đi theo hỗ trợ(10 người âu, 30 người châu á, 150 lính mộ Vân Nam) cùng với 08 khẩu pháo mà hạ thành Hà Nội do một vị đại tướng của Việt Nam chỉ huy với 7 ngàn quân, chỉ trong nháy mắt! (chưa đến 1 tiếng đồng hồ trong ngày 20/11/1873)
Trận thành Hà Nội
Đại úy Garnier yêu cầu nộp thành, ta không theo. Y ra lệnh công thành. Nên nhớ, quân ta đông gấp vài chục lần quân Pháp, lại là một dân tộc văn minh chứ không còn ở giai đoạn bán khai như người da đen ở châu Phi hay còn dùng công cụ đồ đá như người Azteca ở Mexico. Nếu xáp chiến thì chỉ cần dùng quả đấm cũng có thể đè bẹp quân Pháp. Nên nhớ vũ khí thời đó của quân Pháp cũng khá thô sơ. Tiếc thay, chỉ vài loạt đạn của quân Pháp quân ta vứt súng chạy như vịt còn trơ lại vị Tổng đốc bị thương. Con trai Cụ là Nguyễn Lân cũng bị bắn chết.
Đại uý Garnier, 34 tuổi
Các sự khiện tiếp theo còn bi thảm hơn. Ngày 05/12/1873, chỉ có 7 lính Pháp và 2 lính mộ đi ca nô đến thành Ninh Bình bắt quan tuần phủ và hạ thành; lúc đó trong thành có 1700 quân trấn giữ. 
8 lính Pháp hạ thành Ninh Bình
Chỉ có 50 lính pháp và một số lính mộ tấn công thành Nam Định có hàng ngàn quân. Việc quân Pháp dùng ngay các thanh chướng ngại làm thang leo lên mặt thành cũng đủ thấy sức kháng cự của quân ta không đáng kể. Thành Hải Dương còn thất thủ một cách khôi hài hơn. Chỉ có hơn hai chục lính pháp tấn công thành; táo tợn đến mức đu người lên cánh cửa để nhòm vào trong thành. Sau vài loạt đạn, lãnh binh Vi Văn Đông vội vàng bỏ trốn, quan binh thấy thế cũng trốn sạch. Quân Pháp phá cổng vào thành, thành mất.
Hạ thành Nam Định
Tại sao một dân tộc đã từng đánh thắng hàng vạn quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại bạc nhược như vậy. Cũng vẫn dân tộc ấy thôi 80 năm sau, bằng vũ khí cũng kém hơn đã đánh bại chính đế quốc pháp trang bị tối tân hơn nhiều?! 
Nhiều người cho rằng ta thua Pháp vì súng đạn ta không bằng Pháp. Điều đó không sai nhưng thực ra không hoàn toàn đúng. Súng đạn của quân Nhà Nguyễn cũng được nhập từ phương Tây và chỉ thua súng đạn của pháp một thế hệ. Thậm chí bằng lò rèn thủ công mà ông Cao Thắng ở núi rừng Vụ Quang còn chế tạo được gần giống súng của Pháp.
Ta thua pháp về tổ chức chiến tranh nhưng điều này có thể học hỏi và thay đổi được vì cuộc chiến tranh pháp – việt kéo dài 30 năm (1859 – 1888).
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ ơ của đa số người dân trước thời cuộc, trước vận mệnh của đất nước.
Trở lại bài ca dao, người dân ở đây được hình tượng hoá ở hình ảnh con cò. Cò ta đứng ở bờ tre để xem quan quân triều đình đánh nhau với Tây. Cò dửng dưng như người ngoài cuộc đứng xem một việc không liên quan đến mình. Không may ”thằng Tây” nó bắn phải ”cò”, thế thôi!
Người dân dửng dưng trước thời cuộc, trước nguy cơ mất nước vì xã hội Việt Nam đã chia rẽ sâu sắc. Nguyễn Hàn Ninh có bài thơ vịnh đèn kéo quân rất hay nói lên thực trạng của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là:
” Một lũ ăn mày, một lũ quan
Quanh đi quẩn lại chỉ một đoàn”
Thân phận người lính cũng vậy:
”Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan 
đẽo tre đẵn gỗ trên ngàn…”.
Các quan chỉ coi lính như lũ người hầu, làm việc không công: ”nước sông công lính”. Ngay các quan cũng chẳng quan tâm gì đến việc luyện tập, võ bị. Lực lượng vũ trang bị coi thường:
”Văn thì thất phẩm đã sang 
võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu”.
Tựu trung, quan lại là lũ người chỉ nghĩ đến mình, ra tay vơ vét, chiếm đoạt. Người dân đã nhìn rõ thực trạng này về hàng ngũ công chức bất tài, vô hạnh này:
”Khi bình làm hại dân ta 
Túi tham vơ vét chẳng tha thứ gì
Đến khi hoạn nạn lâm nguy 
Mặt trông lơ láo, chân đi tập tềnh!”
Rồi:
” Đồn rằng quan tướng có danh 
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai”
Ông Ích Khiêm phải kêu lên:
” Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu
Đến khi đánh giặc phải nhờ Tầu…”
Trong tình hình quan chức như vậy, người dân vừa khinh vừa ghét. ”Cò” không nói ra nhưng có khi còn hả hê trưóc cảnh quan quân bị Tây bắn, chạy như vịt:
”- Cho chúng mày chết!”
Một dân tộc đã chia rẽ như vậy thì mất nước là tất yếu!
Sỹ quan Pháp phát súng cho lính mộ tình nguyện người Việt
Khác hẳn 600 năm trước khi giặc mạnh phương Bắc lăm le cướp nước, chính quyền đã mở hội nghị Diên Hồng để tạo sự đồng thuận toàn dân; mở hội nghị Bình Than để thống nhất ý chí của quý tộc.
Điều đó cho thấy, đối diện với nguy cơ mất nước càng cần đối thoại để thống nhất ý chí. Muốn có đối thoại cần có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Điều này Nhà Nguyễn đã không làm được. Những vị vua dốt nát, yếu đuối và đội ngũ quan lại tham nhũng, bất tài, mua quan bán tước của nhà Nguyễn không thể nào trở thành hạt nhân đoàn kết dân tộc được nữa. Họ không làm được điều các quý tộc nhà Trần đã làm. Quý tộc Nhà Trần là những anh hùng, hào kiệt, con cháu của những người bình dân chài lưới mới chiếm được chính quyền từ tay Nhà Lý rệu rã bằng võ công và trí tuệ.
Giữa những trang hào kiệt:
” Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn 
Hỏi rằng chi đó bảo rằng than!”
Và lũ công chức tham nhũng, bạc nhược là khoảng cách rất xa về chất người.
Chúng ta vẫn có thể thua Pháp vì trình độ phát triển của họ lúc bấy giờ hơn hẳn ta nhưng thua như kiểu vua quan nhà Nguyễn là một nỗi nhục lớn lao mà không nên quên. Bởi vì nếu quên, nếu cố tình không sòng phẳng với lịch sử có thể dân tộc Việt Nam lại lặp lại sai lầm tương tự trong tương lai./. 

LÀM ĐẠI SỨ TẠI TRUNG QUỐC (Trich hồi kí của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh)

Nguyễn Trọng Vĩnh
 
Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh vừa bước sang tuổi 104. Cụ là lão thành cách mạng, trải các chức vụ Bí thư tỉnh ủy (3 tỉnh), Phó Ban thường trực Ban Tổ chức TW, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN tại Trung Quốc (12 năm, từ năm 1974 đến năm 1987) kiêm Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Hồi giáo Pakixtan, Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam. Cụ là một trong 3 ủy viên trung ương đảng Cộng sản Việt Nam khóa III hiện còn sống. Và hiện nay chỉ còn duy nhất cụ là tướng do cố Chủ tịch Hồ Chí Minh phong. 
Được phép của Lão tướng, chúng tôi đăng tải Hồi ký "Kể lại cuộc đời" của cụ, do chính tay cụ viết và để lại cho con cháu.
CHƯƠNG BẢY
1
Đầu năm 1974, thấy tôi xong nhiệm vụ ở Lào rồi mà chưa có việc gì khác, nhân đồng chí Ngô Thuyền đau ốm xin về, trên Trung ương Đảng mới quyết định cử tôi sang làm Đại sứ nước ta ở Trung Quốc. Lúc đó Việt Nam còn coi Liên Xô, Trung Quốc như anh cả anh hai cho nên để tỏ ý trọng thị, ta vẫn cử Ủy viên Trung ương Đảng làm Đại sứ hai nước đó. Trước khi lên đường đi sứ, nhân còn thời gian rỗi, tôi tranh thủ đi thăm một số tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để nắm bắt một số tình hình cần thiết cho việc làm Đại sứ, hơn nữa tôi cũng muốn biết tình hình đất nước mình nói chung vì từ khi nhận nhiệm vụ giúp bạn Lào, tính ra đã mười năm xa rời thực tế của đất nước mình rồi. Lúc đó đất nước còn đang chiến tranh, đời sống nhân dân còn rất khó khăn, ở đâu quang cảnh cũng đìu hiu, trầm trầm không có gì là khởi sắc. Ngay cả những nơi bây giờ là khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như Tam Đảo, Sa Pa cũng thưa thớt bóng người, dân chỉ trông vào trồng lúa, nuôi lợn, nuôi gà đủ ăn và làm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh thôi. Nhà cửa lâu đài biệt thự ở Tam Đảo, Sa Pa bỏ hoang phế, đổ nát, mặc cho dơi bay cú rúc… Nhưng lúc đó cũng có cái hay là môi trường còn nguyên sơ trong lành lắm, động vật hoang dại còn chưa bị săn lùng ráo riết như bây giờ. Còn nhớ khi lên Tam Đảo, một bác nông dân đang chăm ruộng lúa, bắt được con rùa vàng, bác liền vui vẻ tặng ngay cho cu Dũng nhà tôi vì thấy nó có vẻ lạ lùng và thích thú lắm. Một tối chúng tôi và trú nhờ ở huyện lỵ Bảo Thắng (lúc đó thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn), ăn cơm với huyện ủy, đồng chí Bí thư huyện còn tỏ ý rất tự hào vì “cả huyện tôi không có một cái chợ nào”, cho rằng quản lý như vậy là chặt chẽ và giữ được địa bàn trong sạch, không để cho việc buôn bán làm vẩn đục môi trường xã hội, chỉ có sản xuất mới là việc làm đúng đắn cần thiết. Lúc đó cả tôi cũng chẳng lấy thế làm ngạc nhiên, mà cũng chưa biết rõ rằng không có chợ buôn bán thì chính sản xuất cũng không thể phát triển nổi, chỉ quẩn quanh trong vòng tự cấp tự túc mà thôi.
Khoảng giữa năm 1974, tôi lên đường sang Trung Quốc. Từ khi đó cho đến tháng tư năm 1975 thì quan hệ Việt - Trung vẫn còn bình thường. Sau ngày thắng lợi của ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, Trung Quốc có cử một đoàn đại biểu cao cấp do ông Đặng Tiểu bình dẫn đầu đến Sứ quán ta chúc mừng thắng lợi. Ngày hôm sau, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Thiên An Môn để chào mừng chiến thắng của Việt Nam. Trong cuộc mít tinh đó, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn, tôi đọc đáp từ. Trong đáp từ tôi cũng có nói “nhân dân Việt Nam rất biết ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn cho nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của Việt Nam không tách rời khỏi sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc”. Trong thực tế, khách quan mà nói Trung Quốc giúp ta nhiều thật: vũ khí, lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, nếu không có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc, ta cũng khó thắng Mỹ. Nhưng việc đánh ta, giết hại đồng bào ta, phá sạch nhà cửa của cải của ta năm 1979 đã xóa sạch ân nghĩa đó.
Cũng trong thời gian đó, ông Xi-ha-núc (Quốc vương Cam-pu-chia) và bà hoàng Mô-nic cùng sống ở Bắc Kinh, họ được Trung Quốc dành cho một biệt thư riêng. Họ quan hệ khá tốt với Đại sứ quán ta, với tôi. Có lúc ông Xi-ha-núc mời tôi và một số Đại sứ thân tình đến đánh cầu lông trong biệt thự riêng. Ngày Quốc khánh của Việt Nam, ông ta cũng đến chúc mừng. Cũng có lúc tôi viết thiếp mời hai ông bà sang Sứ quán ta ăn cơm. Trước đây đã có thời Xi-ha-núc ở Việt Nam khá lâu, cũng được dành một biệt thự ở phố Nguyễn Du Hà Nội, ăn Tết Nguyên đán ở Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời, ông ta có vẻ thân và kính trọng Thủ tướng lắm. Có lần ở Bắc Kinh, ông ta còn ngỏ ý với tôi là muốn được sang Việt Nam ăn Tết. Tuy ăn ở tại Trung Quốc nhưng xem ra ông ta thích ở Việt Nam hơn Trung Quốc. Ngay cả bọn Pôn-pốt Yêng-sa-ri sau này phản bội đem quân đánh Việt Nam, thi hành tội ác diệt chủng ở Cam-pu-chia, nhưng trước đó cũng có quan hệ tốt với Việt Nam, vì cùng chung kẻ thù là bọn Mỹ xâm lược. Khi Mỹ dựng lên chính phủ Lon-non, lật đổ Xi-ha-núc thì Đảng của Pôn-pốt đứng ra đánh Lon-non. Đã có vài lần chính Yêng-sa-ri sang xin viện trợ của Trung Quốc đã phải đến Sứ quán ta nhờ tôi điện về xin Chính phủ ta chuyển giúp vũ khí của Trung Quốc vào Cam-pu-chia giúp họ; cũng có lúc tôi đã mời Yêng-sa-ri ăn cơm ở Sứ quán. Nhớ lại lúc tôi còn làm việc ở Lào, ba nước còn chiến đấu chống Mỹ và bọn tay sai của Mỹ, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn cũng đã từng mời đồng chí Kay-xỏn Phôm-vi-hản và Pôn-pốt (lúc đó gọi là đồng chí Thanh) sang hội đàm giữa ba Tổng bí thư. Hôm chiêu đãi hai Tổng bí thư Đảng Lào và Cam-pu-chia, tôi cũng được mời đến dự.
Lại nói chuyện Trung Quốc đối với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin, khi sang đến Trung Quốc đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm Tỉnh Cương sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, thì cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, cố dọn cho đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng (thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào?).
Tiếp đó lại đến vụ “nạn kiều”, ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam bắt tay với Mỹ để tìm kiếm nguồn vốn là kỹ thuật từ Mỹ và đồng minh, để họ thực hiện mục tiêu “Bốn hiện đại hóa” của họ. Nói cho khách quan, thì phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ 5 của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh. Không những gây ra vụ “nạn kiều”, lên án Việt Nam xua đuổi Hoa kiều, Trung Quốc còn ngầm xui Khơ-me đỏ (Pôn-pốt Yêng-sa-ri) quay giáo đánh vào biên giới Tây Nam của ta, khiến Việt Nam vừa kết thúc cuộc chiến tranh lâu dài gian khổ với đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với chiến tranh Tây Nam, đánh nhau với người “bạn cũ”, hòng làm cho Việt Nam không bao giờ đủ mạnh để thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Xét về nguyên nhân sâu xa, có thể nói: với tư tưởng bá quyền nước lớn vốn thâm căn cố đế, đã từ lâu, Trung Quốc muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng của họ, bắt ta phải thuần phục họ. Hơn nữa, những người cầm quyền Trung Quốc cũng thường có thói quen đối xử với các nước nhỏ theo phương châm “thuận ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (theo lời ta thì được tốt đẹp, chống lại ta thì ta cho chết). Tuy biết họ như vậy nhưng phía ta mà khôn khéo hơn thì khó để họ lấy cớ gây hấn với ta, bởi vì Trung Quốc lại còn cái bệnh giả nhân giả nghĩa, rất muốn và rất cần che đậy dã tâm của mình. Trong thời gian sau năm 1976, ở Việt Nam cũng có những cái đầu nóng, khi Trung Quốc cố ý gây hiềm khích qua vụ “nạn kiều” thì phía ta lại cũng có ý “tát nước theo mưa”, thành kiến với người Hoa, kỳ thị người Hoa ở Việt Nam, bất kể có người đã là Đảng viên là anh hùng đã đóng góp thực sự cho cách mạng Việt Nam. Tiếp đó ta lại vội vã ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô (vào tháng 11 năm 1978) nên cũng góp thêm phần làm cho Trung Quốc ra mặt thù địch với Liên Xô). Cho đến khi Việt Nam buộc phải đánh cho Pôn-pốt một đòn đau, tiến quân vào tận Nông-pênh thì Trung Quốc càng có cớ để động binh, thực sự gây chiến tranh với Việt Nam mà theo Trung Quốc nói công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” (về “tội” câu kết với Liên Xô và đánh Cam-pu-chia), Trung Quốc nói cần phải “chi viện” các đồng chí Khơ-me đỏ. Cuộc chiến tranh tháng 2/1979 tuy trên phương diện quân sự thì Trung Quốc thua, buộc phải rút quân về nước còn bị ta bắt sống nguyên một đại đội; nhưng Trung Quốc cũng đã đạt được nhiều mục đích riêng của họmà mục đích hàng đầu vẫn là để cầu thân với Mỹ (vốn là kẻ thù số một của ta vừa bị Việt Nam đánh cho thua đến “lấm lưng trắng bụng”) và phá hoại ba tỉnh của ta là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai.
2.
...Lược lại một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc - Việt Nam, thì thấy: ngay từ những năm 50 của thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường như sách báo, các đoàn cố vấn, các mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận tư tưởng đó. Bằng chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như việc cải cách ruộng đất đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức cũng tổ chức đấu tố “phản tỉnh” trong nội bộ. Sau này, khi phát hiện cải cách ruộng đất là sai lầm, gây tổn thất nghiêm trọng, ta mới tỉnh ngộ, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông và không tổ chức thực tiễn theo phương pháp của Trung Quốc nữa. Thất bại trong việc chinh phục bằng lý luận tư tưởng, Trung Quốc chuyển sang chính sách chinh phục ta bằng kinh tế. Từ năm 1954 về sau. Trung Quốc đã giúp ta xây dựng hàng loạt nhà máy xí nghiệp (như Gang thép Thái Nguyên, Phân đạm Bắc Giang, Cao su - xà phòng - thuốc lá Thượng Đình Hà Nội, Bóng đèn phích nước Rạng Đông v.v….) nhưng chất lượng sản phẩm không cao bằng được Trung Quốc, một mặt vì họ cung cấp thiết bị và công nghệ cũ, mặt khác dù có công nghệ tốt họ cũng không chuyển giao cho ta.
Giúp nhiều như vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cũng còn một mục tiêu là giúp Việt Nam là để giữ an toàn cho phía Nam Trung Quốc (nếu để Mỹ chiếm được cả Việt Nam thì sẽ diễn ra việc như vụ Mỹ ném bom sông Áp-lục sát biên giới và cả vào đất Trung Quốc hồi chiến tranh Triều Tiên). Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc. Nhưng khi Mỹ đã gây hấn ném bom ra miền Bắc, đổ quân vào miền Nam thì Trung Quốc vẫn giúp ta về vũ khí trang bị, về quân nhu hậu cần để an toàn cho họ. Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ giao động quyết tâm, ta cũng thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.
Qua nhiều sự việc Việt Nam chỉ làm theo ý mình mà không làm theo ý họ, rồi các nhà máy giúp Việt Nam cái thì kém hiệu quả, cái thì bị chiến tranh làm hư hại… Trung Quốc thấy việc lấy kinh tế để điều khiển Việt Nam có vẻ không thành công họ bèn chuyển sang thời kỳ ép ta về quân sự từ hai phía hòng khiến ta phải quy phục: phía Bắc nước ta thì họ làm nhiều con đường ra sát biên giới Việt Nam, phía Nam nước ta thì họ giúp tài chính và trang bị cho Pôn-pốt để nắm vững quân bài, hình thành hai gọng kìm kẹp hai đầu đất nước ta và đồng tình cho Pôn-pốt đánh ta làm cho ta tổn thất và không yên ổn để xây dựng lại đất nước.
Trong bối cảnh như vậy, quá trình tôi làm Đại sứ ở Trung Quốc đúng là một quá trình chủ yếu là tranh cãi và đối phó. Thường xảy ra việc như thế này: Mỗi khi có đoàn đại biểu nào của Việt Nam sang Trung Quốc thì tối hôm đó, trên đài truyền hình và phát thanh của Trung Quốc đều nói đến vấn đề “chủ quyền của Trung Quốc trên các đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa là không thể tranh cãi” (tức các quần đào Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam). (Đối với các đoàn từ cấp Phó thủ tướng là họ đều làm như thế). Từ khi xảy ra vụ “nạn kiều” và việc ta ký hiệp ước hợp tác hữu nghị với Liên Xô thì các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc lúc nào cũng ra rả lăng mạ “tập đoàn Lê Duẩn”. Khi tôi cho trưng bày hình ảnh Pôn-pốt đánh phá biên giới Tây Nam nước ta ở bảng thông tin của sứ quán (đặt ngoài hàng rào) từ phía Trung Quốc mời tôi lên Bộ Ngoại giao để gặp Thứ trưởng Hàn Niệm Long, ông ta lên tiếng phản đối, đòi ta phải dỡ bỏ những hình ảnh và lời tố cáo đó. Nhưng tôi lại nói: “Những việc mà tôi trưng bày ra, đó đều là sự thật, chẳng lẽ Trung Quốc lại sợ sự thật? Hơn nữa, cái bảng thông tin mà chúng tôi treo ảnh trên hàng rào Sứ quán đó là nằm trong phạm vi chủ quyền của nước tôi, tôi không dỡ bỏ”. Ông ta nói: “Trung Quốc không cho phép nước nào nói xấu nước thứ ba trong lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”. Tôi nói: “Đồng chí nói sai rồi, cách đây ba hôm, tôi thấy đồng chí còn giúp cho Đại sứ của Pôn-pốt họp báo nói xấu Việt Nam chúng tôi và cuộc họp báo đó có nhiều cán bộ Trung Quốc làm phiên dịch cho họ”. Nói xong tôi ra về.
Ngày đến ngày 19-5, Sứ quán ta dự định chiếu phim Hồ Chủ Tịch vào buổi tốm hôm 19-5, đúng ngày sinh nhật Người. Ta đã gửi giấy mời đến Sứ quán các nước (lúc đó ở Bắc Kinh có độ trăm Sứ quán nước ngoài) trước đó bảy ngày. Đúng buổi chiều hôm ta đã mời, Trung Quốc lại điện tất cả các Sứ quán, mời đích danh các vị Đại sứ đúng 17 giờ đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Thong thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18 giờ chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái trò trẻ con của phía Trung Quốc!
Rồi lại rất buồn cười là dạo đó Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ đi nó cũng đi theo.
Một lần nữa Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên, đưa công hàm phản đối Chính phủ Việt Nam xua đuổi và tước đoạt “nạn kiều” Trung Quốc. Tôi nói: “Chính phủ Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước đã làm lỡ cả một số công việc của chúng tôi tại nơi mà họ đang đảm nhiệm trong cơ sở sản xuất và công sở. Hơn nữa, vào năm 1953, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thỏa thuận với nhau là người Hoa ở Việt Nam được coi như công dân Việt Nam, do Việt Nam quản lý. Do đó, ở miền Bắc nước tôi đã không có Hoa kiều nữa. Vậy lẽ nào chúng tôi lại xua đuổi công dân của chúng tôi, cho dù họ là gốc Trung Quốc. Còn ở miền Nam, trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền, người Hoa đều đã đăng ký quốc tịch Việt Nam. Vậy cho đến nay trên cả nước Việt Nam đều không có ai là Hoa kiều nữa”. Hàn (Niệm Long) nói: “Vậy các ngài cũng công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu à?” - Rồi cuộc đối thoại cũng kết thúc.
Trong năm 1977, lại một lần nữa Trung Quốc mời tôi, cũng lại tranh cãi vấn đề Hoa kiều và người Hoa, không bên nào chịu bên nào. Sau khi đấu khẩu như vậy, Trọng Hi Đông (Thứ trưởng Ngoại giao, nguyên là tướng trong quân đội) nói: “Sống hòa bình với nhau thì tốt hơn, chiến tranh thì phức tạp đấy”. Tôi nói: “Tôi cũng đã là tướng, tôi cũng biết thế nào là chiến tranh. Và chúng tôi đã thắng Pháp và thắng Mỹ”.
Một lần khác, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại mời tôi lên gặp một Thứ trưởng Ngoại giao. Ông ta nhờ tôi gửi công hàm về cho Chính phủ ta, đồng thời thông báo: “Do chính phủ Việt Nam bức hại Hoa kiều nên Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định đưa hai tàu Trường Lực và Minh Hoa vào cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn để đón nạn kiều của chúng tôi”. Tôi nói: “Tôi sẽ chuyển công hàm về cho Chính phủ. Nhưng trước hết tôi nói ở Việt Nam không có nạn kiều. Và Chính phủ chúng tôi còn xem xét, tàu Trường Lực và Minh Hoa có được phép vào Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh hay không đã, vì hai cảng đó thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai được tự tiện vào”.
Khi tôi từ Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra về, các phóng viên báo chí quốc tế xúm lại hỏi tôi, tôi nói lại sự việc vừa rồi và nói thêm: “Cảng thành phố Hồ Chí Minh và cảng Hải Phòng đâu phải là cái ao nhà của Trung Quốc mà họ tự ý quyết định đưa tàu vào được”. Sau đó các phóng viên đã đưa tin ra thế giới và tỏ ra thú vị với cách ông Đại sứ nói “cảng Việt Nam không phải là cái ao nhà của Trung Quốc”.
Ngoài những lần như vậy, còn có nhiều lần khác nữa, Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn mời tôi lên, ngoan cố vu cáo Việt Nam ta, lần nào tôi cũng phải đấu lý với họ. Về nguyên tắc, lập trường thì mình rất kiên quyết giữ vững, nhưng về thái độ mình phải đúng mực. Thường là họ phải chịu mình vì họ đuối lý.
3.
Một lần tôi về nước báo cáo (lúc đó muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh sang Mát-xcơ-va mới bay về được Hà Nội). Ra sân bay Bắc Kinh, nhân viên sân bay muốn bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý, tôi không chịu, tôi nói: “Tôi là Đại sứ, tôi được “miễn trừ ngoại giao” theo nguyên tắc quốc tế, nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngày vi phạm công ước quốc tế”. Nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo thỉnh thị cấp trên. Sau đó mở cho tôi đi theo đường cửa không soát hành lý.
Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại định bắt tôi đưa hành lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an ninh thôi mà. Tôi nói: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các người? Tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng, nếu các người cố tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về chính phủ, để bên Việt Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các người khi xuất cảnh. Mà nước tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại, nhân viên Việt Nam sẽ phải mời Đại sứ các người đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Nhân viên Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do, không kiểm tra hành lý nữa.
Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả ! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang phần đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa (chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với Đại sứ nước nào đó).
Trong trường Đại học Bắc Kinh có nhiều sinh viên nước ngoài, có lần Trung Quốc đã xúi bẩy số sinh viên các nước thân Trung Quốc đến biểu tình trước Sứ quán ta. Ta đối phó việc đó bằng cách tuyên truyền vận động để họ hiểu biết sự thật, ai phải ai trái, phần lớn họ hiểu ra và thôi không tụ họp ở đó nữa. Nhưng cũng còn có 4,5 sinh viên cả trai lẫn gái còn ở lại chỗ gốc cây bên kia đường đối diện của Sứ quán ta. Tôi phải cho người đóng cửa Sứ quán vào và cử đồng chí Lê Công Phụng (lúc đó làm phiên dịch tiếng Anh) ra giải thích cho đám sinh viên đó. Vì cửa đóng sinh viên không vào được bên trong, họ ném trong bì thư (có lẽ bên trong viết nhưng nội dung phản đối Việt Nam) vào sân của Sứ quán. Đồng chí Phụng cầm phong bì ném ra, họ lại nhặt ném vào, đồng chí Phụng lại ném ra và nói: “Các bạn đã bị Trung Quốc lừa rồi, hãy về mà chăm chú học đi thôi”…
Cứ cái cách như vậy thật mệt. Sau này gặp đồng chí Ngô Thuyền, người tiền nhiệm của mình, tôi nói đùa: “Anh thì sang Trung Quốc uống rượu, tôi thì sang cãi nhau!”.
Trong thời gian quan hệ hai nước căng thẳng thì các đường đi lại giữa ta và Trung Quốc bị cắt hết: cả máy bay, tàu hỏa, điện thoại. Chúng tôi ở Sứ quán giữa Bắc Kinh mà cứ như ở đảo. Hàng ngày chỉ có hai ca liên lạc VAC, một ca buổi sáng, một ca buổi tối để liên hệ và nhận chỉ thị từ trong nước. Thành thử có nhiều việc xảy ra, chúng tôi phải tự động đối phó. Cũng vì vậy, nên mỗi lần tôi hết nhiệm kỳ Đại sứ, Bộ Ngoại giao báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì đồng chí lại bảo: “Cứ để đồng chí Vĩnh ở đấy”. (Hơn nữa, trong tình hình khó khăn như vậy, chẳng ai muốn sang thay. Lúc ấy lương tôi chỉ được có 90 đô la một tháng, trong khi lương Đại sứ Thái Lan cùng ở Bắc Kinh là 3.000 đô la. Đến năm 1990, đồng chí Đặng Nghiêm Hoành sang làm Đại sứ ở Bắc Kinh, lương được 600 đô la một tháng. Lái xe của sứ quán Lào cũng được 400 đô la một tháng).
Do đã ở liền vài nhiệm kỳ ở Bắc Kinh, nên theo thông lệ quốc tế, tôi trở thành Trưởng đoàn ngoại giao một thời gian khá dài. Ngoại giao đoàn rất coi trọng chức trưởng đoàn đó, các Đại sứ mới đến Trung Quốc, sau khi đi chào các vị lãnh đạo của nước chủ nhà thì đều phải đến chào trưởng đoàn ngoại giao; khi tổ chức ngày Quốc khánh nước mình thì cũng đến mời trưởng đoàn ngoại giao, mà lại bố trí ngồi chỗ trang trọng nhất trước mặt mình. Khi có Đại sứ nào rời nhiệm, nếu có tổ chức gặp gỡ để chào từ biệt ngoại giao đoàn, thì cũng mời trưởng đoàn ngoại giao và trưởng đoàn ngoại giao sẽ thay mặt các Đại sứ phát biểu ý kiến tiễn biệt. Trong suốt thời gian làm Trưởng đoàn ngoại giao, tôi đã phải làm đến 60 bài diễn văn ngắn để chào mừng hoặc tiễn biệt những người đồng nghiệp. Tuy ngắn vậy thôi, nhưng cũng không phải dễ làm, bởi vì mỗi vị Đại sứ đại diện cho mỗi nước khác nhau, quan hệ với ta cũng khác nhau, 60 bài đòi hỏi phải sát hợp với những hoàn cảnh khác nhau đó. Có lần ông Đại sứ Thụy Điển đã nói với tôi: “Tôi theo dõi thấy ngài phát biểu không lần nào giống lần nào”.
Có chuyện ông Đại sứ Mỹ, khi đến nhận chức thì không đến chào tôi, nhưng khi rời chức, tổ chức gặp gỡ để từ biệt thì lại đến Sứ quán ta thông báo cho tôi là đã hết nhiệm kỳ và mời tôi đến dự. Tôi nói: “Khi ngài mới đến, hoặc là ngài còn hận Việt Nam, hoặc ngài sợ Trung Quốc nên đã không đến chào tôi. Nhưng hôm nay ngài đã đến và mời tôi tới dự buổi gặp mặt từ biệt, tôi nhận lời và sẽ phát biểu ý kiến tiễn chân ngài”. Cái khó là trong trường hợp này là, ca ngợi ông ta thì không được mà nói xấu ông ta cũng không xong. Tôi phải tìm những câu vô thưởng vô phạt để nói, cuối cùng thì cũng chức sức khỏe ông ta và gia đình, chúc ông ta lên đường gặp mọi sự may mắn. Các Đại sứ khác nghe vậy cũng thấy là được.
Mặc dù Trung Quốc lúc đó chẳng ưa gì Đại sứ Việt Nam, lại càng không ưa gì một người luôn đấu lý (và lại hay làm họ cứng họng) như tôi, nhưng cũng vì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nên dịp mừng Quốc khánh của họ hay dịp các nguyên thủ các nước đến thăm mà Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi trọng thể, bao giờ họ cũng phải mời tôi ngồi bàn danh dự.
Rõ ràng phía Trung Quốc không muốn tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao nhưng không có cách gì truất chức đó của tôi, nên lắm khi họ bày ra những chuyện nực cười, rất trẻ con để chọc phá tôi.
Cái lần đoàn ngoại giao đi thăm tỉnh An Huy của Trung Quốc, khi kết thúc hành trình, lãnh đạo địa phương tổ chức tiệc chiêu đãi tại một công viên. Trước khi vào phòng tiệc, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc đến nói với tôi: Những lần trước ngài đã phát biểu rồi, lần này nên làm khác đi, để ông Đại sứ Tan-za-nia (người thứ hai sau trưởng đoàn) phát biểu ý kiến. Tôi nói: “Nếu không cần phải phát biểu ý kiến gì thì thôi, còn nếu có, thì theo thông lệ quốc tế, tôi sẽ phát biểu chứ không phải người khác. Nếu các ngài cố ý làm trái, tôi sẽ không dự bữa tiệc này. Vả lại tôi cũng chẳng nói xấu gì về nước các ngài”. Cán bộ Trung Quốc nói: “Sẽ không có ai phát biểu cả”. Vậy mà ngay lúc đó, phía Trung Quốc lại đi vận động ông Đại sứ Tan-za-nia phát biểu trong bữa tiệc. Nhưng ông Đại sứ Tan-za-nia nói: “Không được! Phát biểu là quyền của ông Đại sứ Việt Nam. Chỉ khi nào ông ấy ủy quyền cho tôi thì tôi mới được nói”. Trong khi các Đại sứ khác đều đi vào phòng tiệc, tôi vẫn đi ở vườn hoa chưa vào. Lúc sau, cán bộ ngoại giao Trung Quốc ra mời tôi vào ngồi ở bàn số Một, đối diện với Tỉnh trưởng An Huy. Bên cạnh tôi vẫn còn chỗ trống, thì ra ông Đại sứ Tan-za-nia cũng ngại nên vẫn loanh quanh ngoài vườn hoa chưa vào. Họ lại phải đi tìm và mời vào chố trống đó. Lúc khai tiệc, chắc theo đạo diễn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Tỉnh trưởng không nói gì. Tôi vẫn chủ động đứng lên nâng cốc, cảm ơn về chuyến đi, chúc sức khỏe Tỉnh trưởng cùng Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc đi cùng và tôi quay lại chúc sức khỏe các bạn đồng nghiệp. Tôi chúc xong mọi người mới bắt đầu cầm đũa.
Trong thời kỳ làm Đại sứ, thỉnh thoảng tôi có tổ chức họp báo, lúc thì để giới thiệu tình hình nước ta, lúc thì để tố cáo bọn Pôn-pốt khiêu khích đánh phá biên giới Việt Nam. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi cũng họp báo và tố cáo rằng: “Trung Quốc đang dùng 3 sư đoàn tiến đánh Việt Nam”. Một nhà báo Mỹ đứng lên nói: “Ngài Đại sứ nói quá lên thế chứ, còn theo tình báo của chúng tôi thì đâu có nhiều quân đến thế?”. Tôi nói: “Việc chúng tôi thì chúng tôi biết hơn ai hết. Còn tình báo của các ngài thì chúng tôi cũng đã biết. Tết Mậu Thân năm 1968, quân chúng tôi vào đánh khắp nơi, đánh cả vào Sứ quán Mỹ, mà trước đó tình báo Mỹ có biết gì đâu!”. Các nhà báo cười ồ cả lên. (Đến đây tôi chợt nhớ một chuyện về ngài Đại sứ, cũng là Mỹ ở Trung Quốc: Khi đến nhận chức ở Bắc Kinh, ông ta không đến chào tôi, vì vậy sau đó mỗi khi đứng cương vị Trưởng đoàn ngoại giao có việc gì cần gửi thông báo đến các Đại sứ, tôi không gửi cho Sứ quán Mỹ và cho ông ta. Một số Đại sứ khác ở Trung Quốc thấy tôi có thái độ “tẩy chay” Đại sứ Mỹ, đã đến vận động tôi đừng làm như vậy. Nhưng tôi nói, khi đến ông ta cậy thế nước lớn không đến chào tôi, vì vậy tôi cũng không việc gì phải giao thiệp với ông ta. Không biết có phải ông Đại sứ Mỹ đã được chuyển đến tai câu nói đó của tôi hay không, mà khi tổ chức chiêu đã rời nhiệm sở, ông ta lại phải đến tận nơi mời tôi?).
4.
Làm Đại sứ ở Trung Quốc trong những năm Trung Quốc cố tình khiêu khích và biến Việt Nam thành kẻ thù, đã đành là rất căng thẳng thần kinh và hao tổn thể chất; nhưng với tôi, cũng không phải là hoàn toàn chỉ có vất vả gian khổ. Cũng có những khi được “đắc ý” chứ. Ấy là niềm vui sau những cuộc đấu lý với Trung Quốc. Họ thì hùng hùng hổ hổ, đập bàn đập ghế, dùng những lời lẽ đao to búa lớn để vu cáo trắng trợn và đe dọa ta. Tôi thì vận hết “nội công” cố sức kiềm chế để không bị cuốn vào cái kiểu hùng hổ bất lịch sự, phi ngoại giao đó, để tìm những lý lẽ và ngôn từ đích đáng, đập lại họ, buộc họ phải rút dù. Sau mỗi cuộc như vậy, tôi thấy như người đánh cờ, thắng được một ván là có được một niềm vui.
Hơn nữa, cũng có những lúc mình được hưởng cái sung sướng thực sự, đó là vào những cuộc “lữ hành ngoại giao” mà phía Trung Quốc, với cương vị nước chủ nhà đã tổ chức cho đoàn ngoại giao đi chơi thăm thú các nơi phong cảnh đẹp hoặc lạ ở trên đất nước họ. Tôi nghĩ nếu không có dịp làm Đại sứ thì đã mấy khi mình được du lịch không mất tiền nhiều như vậy?
Năm 1974, khi mới sang Trung Quốc, tôi được đi chuyến “lữ hành ngoại giao” thăm Côn Minh, đó là một thành phố đẹp và loại nhất của Trung Quốc, thuộc tỉnh Vân Nam sát với Việt Nam ta. Côn Minh còn được người Trung Quốc gọi là “Xuân Thành” vì khí hậu rất tốt, quanh năm mát mẻ như mùa xuân. Ở Côn Minh có rất nhiều phong cảnh đẹp và kỳ lạ như Thạch Lâm, Hồ Điền Trì, Ôn Tuyền v.v… rất nhiều chùa chiền đẹp và khuôn viên rộng lớn, sạch sẽ. Vì Côn Minh ở độ cao trên 1.500m nên người dân lúc nào cũng mặc áo len, trông lại càng nhiều màu sắc bắt mắt, ở đây cũng lưu truyền câu nói “nhất vũ thành đông” (tức là hễ có một trận mưa là rét như mùa đông). Ở đây có hai vị thuốc quý là đông trùng hạ thảo và tam thất (ở Vân Nam trồng thì gọi là Điền thất, Điền thất là thứ tam thất hàng đầu của Trung Quốc). Ở Côn Minh, chúng tôi được thưởng món đặc sản “bún qua cầu” rất lạ. Một sợi bún dài như vô tận được cho đi qua một bát nước dùng mà trên mặt có váng mỡ để giữ cho được nóng lâu. Người ăn cứ việc hút sợi bún đó mà ăn đến no thì dừng lại. (Phải mở ngoặc là lúc đó Trung Quốc còn chưa trở mặt với ta, tôi còn được vợ đồng chí Lý Thế Thuần đưa đi và làm phiên dịch - Khi tôi đã nghỉ hưu, đồng chí Lý Thế Thuần làm Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội).
Năm 1975, tôi lại được cùng đoàn ngoại giao đi Tân Cương, đó là nơi biên giới xa xôi, giáp với Liên Xô. Ở đây cuộc sống và phong tục rất khác lạ. Họ cho ăn thịt cừu và uống sữa ngựa. Thứ sữa đó mùi vị như bia, uống vào thấy hơi say say, họ nói chỉ có khách quý mới được uống, còn thì chỉ dành cho bệnh viện, nhất là cho người bị bệnh lao. Ở Tân Cương có giống dưa lưới và đào bẹt (gọi biển đào), ăn cực ngon. Chúng tôi đến Tân Cương đúng vào mùa đào chín, họ cho vào vườn tha hồ hái, ăn chán thì thôi. Chúng tôi cũng gặp nhiều người dân địa phương ở đây, họ ăn mặc rất rực rỡ, đàn ông thì cao lớn, phụ nữ thì xinh đẹp như tiên, trông họ có vẻ như lai Á lai Âu, nét mặt thật sáng sủa.
Năm 1976, lại được đi chơi núi Thái Sơn (thuộc tỉnh Sơn Đông). Mặc dù không phải núi cao và lớn hàng đầu của Trung Quốc, nhưng Thái Sơn (cao 1.500m so với mặt nước biển) lại rất nổi tiếng, đã đi vào câu nói hàng ngày và văn thơ của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta thường nói “có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn” hoặc “nặng như Thái Sơn”… Ngay cả trong thơ ca Việt Nam cũng có câu “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” v.v… Phong cảnh ở đây rất đẹp, y như trong tranh thủy mặc ở Trung Quốc vậy. Và rất tự hào là trong chuyến đi đó, cả đoàn ngoại giao, chỉ có tôi và hai vợ chồng ông Đại sứ Hung-ga-ri là trèo được mấy ngàn bậc đá lên tận đỉnh Thái Sơn, đứng đó để ngắm ra tận biển Đông của Trung Quốc được xem mặt trời mọc từ biển lên rất hay. Tận trên đỉnh cao như vậy mà người Trung Quốc từ xưa đã xây được lâu đài đình các nguy nga, kể cũng đáng nể.
Năm 1980, sau khi Trung Quốc đã gây hấn đánh Việt Nam rồi, nhưng vì vẫn có chuyến “lữ hành ngoại giao” và vì tôi là Trưởng đoàn nên họ phải mời tôi cùng đoàn đi chơi tỉnh An Huy, thăm thắng cảnh Hoàng Sơn, cũng là một trong những cảnh đẹp hàng đầu của Trung Quốc, có nhiều cây thông cổ thụ mọc trên vách đá cheo leo, đủ hình đủ thế, theo đường núi lên đến đỉnh thì thấy đền đài cổ kính, xây cất rất đẹp và công phu. Từ cổ xưa, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã hay tìm những nơi có cảnh thiên nhiên đẹp, cho xây dựng lên những công trình tráng lệ và cũng may cho đất nước Trung Quốc là ít bị chiến tranh tàn phá nên bây giờ các công trình còn lại khá nhiều.
Thông thường đoàn ngoại giao đi đến tỉnh nào thì Tỉnh trưởng ở đó tiếp đón và khi kết thúc chuyến đi thì Tỉnh trưởng lại đãi tiệc. Trước bữa tiệc, sau khi Tỉnh trưởng phát biểu thì đến Trưởng đoàn ngoại giao thay mặt các Đại sứ đọc đáp từ. Thời kỳ quan hệ hai nước đang căng thẳng thì tôi làm Trưởng đoàn ngoại giao, khi nói đều phải tránh không ca ngợi lãnh đạo và thành tích của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chỉ ca tụng cảnh đẹp của địa phương, sự đón tiếp của những nơi đoàn đến thăm, các sản vật quý của địa phương, chúc sức khỏe các vị lãnh đạo địa phương để lãnh đạo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân trong địa bàn… (Riêng lần đi An Huy này thì có chuyện buồn cười như đã thuật ở phần trên).
Thời gian ở Bắc Kinh, tôi cũng tạo được điều kiện cho vợ chồng Minh Hà (con gái thứ 3 lấy chồng người Đức là Verner) từ Đức sang thăm Trung Quốc. Và một lần từ Trung Quốc bay sang Mát-xcơ-va, tôi và bà xã cũng tranh thủ đi xe lửa sang chơi bên Đức, thăm nhà con gái.
Cũng nhờ việc làm Đại sứ ở Bắc Kinh nên tôi còn được biết cả thủ đô các nước Triều Tiên, Ap-ga-nit-xtan, Pa-kit-xtan nữa.
Vào mùa hè năm 1977, có Hội nghị quốc tế về nông nghiệp do Triều Tiên đăng cai. Bên nước điện sang cử tôi và anh phiên dịch tiếng Anh đi dự, vì vậy có dịp thăm quan thành phố Bình Nhưỡng thủ đô Triều Tiên. Thành phố đó không gọi là lớn nhưng rất đẹp, các công trình kiến trúc cũng đẹp, có vẻ phô trương, đồ sộ. Ví dụ có một nhà hát chỉ độ 500 chỗ nhưng khuôn viên khá lớn và trang trí rất lộng lẫy. Đường phố hai bên trồng toàn cây ngô đồng, đang mùa hè nên lá rất xanh tốt. Tôi được ăn một bữa tiệc ngồi cùng bàn với ông Kim Nhật Thành và lần đầu tiên được biết món “kim chi” nổi tiếng của Triều Tiên, rất ngon.
Một lần tôi đi tháp tùng đồng chí Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) đi thăm Ap-ga-nit-xtan, đến thủ đô Ca-bun, thật tiếc là thủ đô đó chẳng gây cho mình ấn tượng và cảm xúc gì. Sau khi đi thăm Ap-ga-nit-xtan (lúc đó có chính quyền thân Liên Xô), đoàn sang thăm Pa-kit-xtan nhưng chẳng được việc gì, họ đối xử rất nhạt nhẽo vì họ đang theo Trung Quốc, mâu thuẫn với Ap-ga-nit-xtan. Ở Pa-kit-xtan không được uống bia rượu và ăn thịt lợn, vì nước đó theo đạo Hồi. Pa-kit-xtan lúc đó rất nghèo và phụ thuộc Trung Quốc. Có một con đường lớn nối từ thủ đô Is-la-ma-bat đến Trung Quốc men theo sườn dãy Hi-ma-lay-a, được biết là do Trung Quốc làm giúp. Thành phố Ca-ra-si, nơi có sân bay quốc tế, gọi là lớn nhưng lúc đó cũng rất lèo tèo.
Có một việc dường như cả những người thân cũng ít biết đến, đó là thời gian tôi được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Trung Quốc, thì cũng kiêm luôn cả chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam ở Pa-kit-xtan. Khi bay từ Bắc Kinh sang Is-la-ma-bat, qua dãy Hi-ma-lay-a nóc nhà thế giới, nhìn thấy tuyết phủ dày trắng, mấy người cũng đã nói đùa với nhau: giá mà rơi xuống đây thì đố có ai tìm được! Đến thủ đô Pa-kit-xtan tôi phải đi trình quốc thư; rất ấn tượng với nghi lễ của nước này: họ cho xe song mã, có lính bồng súng rất trang trọng và rất oai đến đón. Đại sứ được ngồi xe song mã, đằng sau có 6 người lính cưỡi ngựa cầm giáo hộ tống vào phủ Tổng thống.
Lại nói chuyện về đi lại ở Trung Quốc, ngoài những chuyến đi với đoàn ngoại giao, còn có một chuyến đi đáng nhớ nữa. Đó là chuyến đi theo đường sắt Côn Minh - Thành Đô vào năm 1977. Dạo đó ở thành phố Côn Minh, ta có một cơ quan Tổng lãnh sự, lại có khá đông các gia đình Việt kiều. (Số bà con đó trước làm thợ hỏa xa phục vụ đường sắt Hải Phòng - Côn Minh từ thời Pháp, sau ở lại Côn Minh). Vì vậy tôi có xuống thăm cơ quan và bà con. Bình thường xuống Côn Minh, tôi vẫn đi theo đường xe lửa phía Đông, từ Bắc Kinh qua Trịnh Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Quý Dương rồi đến Côn Minh và ngược lại. Đồng thời, theo quy định của Trung Quốc thì khách nước ngoài muốn mua vé xe lửa phải mua qua “lũ hành xã” (kiểu như du lịch quốc doanh bên ta) mới được. Những lần đó không hiểu sao anh em ở cơ quan Lãnh sự quán lại tự đi mua được vé, mà lại mua được vé theo con đường phía Tây. (Tức đường từ Côn Minh đến Thành Đô rồi qua Tây An, Thái Nguyên về Bắc Kinh). Tôi cũng thích đi theo con đường đó vì chưa đi lần nào, hơn nữa lại nghe nói rất nhiều về việc hoàn thành đoạn đường Thành Đô - Côn Minh mới làm, Trung Quốc coi là thắng lợi lớn vì đoạn đó rất khó thi công… Tôi đi cùng hai đồng chí Bí thư ở Sứ quán. Trên đường, qua quan sát thì thấy quả là “danh bất hư truyền”, không thể không ngạc nhiên thán phục công trình hoành tráng như thế. Xe lửa phải đi trên sườn núi đá dài rất hiểm trở, vì vậy có nhiều hầm tuy-nen chui qua núi, nhiều cầu cạn chênh vênh bắc giữa hai ngọn núi và nhiều đoạn leo đèo dốc quanh co. Có đoạn qua sông Kim Sa nổi tiếng hung dữ (đã được nhắc đến trong truyền thuyết thày trò Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đi Tây Trúc lấy kinh). Trên tàu, chúng tôi vô tư dùng tiếng Việt nói chuyện với nhau nên đã gây chú ý cho nhân viên xe lửa Trung Quốc, có lẽ vậy họ mới đi gọi điện báo cho người ở đâu đó. Một lúc sau, thấy hai nhân viên ăn mặc sắc phục đường sắt đến ngồi bắt chuyện với chúng tôi. Khi đến Thành Đô, họ nói: “Xe lửa bị hỏng, đề nghị các vị xuống phòng đợi”, họ xách hộ hành lý cho chúng tôi. Sau đó họ nói tầu bị nghẽn còn lâu mới sửa xong. Họ đưa chúng tôi vào một khách sạn trong Thành Đô. Ngày hôm sau chúng tôi đường dẫn đi xem thành phố, được thăm nhà lưu niệm thi hào Đỗ Phủ. Tối về họ nói: “Thôi các vị phải đi máy bay về Bắc Kinh thôi”. Tôi nói: “Chính phủ chúng tôi cấp tiền có hạn, không đủ tiền mua máy bay”. Họ nói, sẽ giúp đòi lại tiền tàu của cơ quan đường sắt để các vị mua vé máy bay. Tôi nói, dù có lấy lại được thì số tiền đó cũng không đủ mua vé máy bay, chúng tôi còn nghèo, phải tiết kiệm. Chúng tôi sẽ đợi đến bao giờ xe lửa thông thì chúng tôi sẽ về Bắc Kinh. Không còn cách nào, cuối cùng họ phải nói thẳng: “Tuyến đường xe lửa này, Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không cho phép người nước ngoài đi”. Lúc này chúng tôi mới biết họ là công an mật đã lên kèm chúng tôi từ giữa đường đến Thành Đô. Sau đó phía Trung Quốc phải bỏ tiền lấy vé máy bay cho đoàn chúng tôi về Bắc Kinh. Thì ra đường sắt Thành Đô - Côn Minh mà Trung Quốc cố làm cho bằng được đó là con đường chiến lược bí mật của họ. Năm 1979 khi Trung Quốc tấn công ta thì cũng có một cánh quân xuất phát từ Đại quân khu Thành Đô vào đánh ta ở hướng Lào Cai. Ta bắt sống được một Đại đội, họ khai rằng, họ là quân của sư đoàn 150, quân đoàn 50 thuộc Đại quân khu Thành Đô, được chở bằng xe lửa từ Thành Đô đến biên giới Việt Nam qua Côn Minh.
5.
Khoảng cuối năm 1985 (tức cuối kỳ làm Đại sứ), bỗng nhiên tôi bị những cơn tim đập nhanh (140 nhịp một phút), phải đến bệnh viện Trung Quốc để khám. Nhưng đi đến giữa đường thì cơn tim đó lại dừng nên đến bệnh viện khám không thấy gì. Lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba thì cùng với cơn tim đập nhanh lại kèm theo sốt nhẹ, tôi phải vào nằm viện để điều trị. Bệnh viện cũng làm đủ mọi động tác xét nghiệm cần thiết như: đo điện tim, siêu âm tin phổi thận, rửa ruột, xét nghiệm máu, soi dạ dày v.v… Sau một loạt khám nghiệm cẩn thận như thế mà họ cũng chỉ kết luận được là “tim đập nhanh đậu tính kèm theo sốt”. Tôi đề nghị điều trị theo cách Đông – Tây y kết hợp. Họ chấp nhận nên hàng ngày cho thuốc viên đồng thời sắc thuốc bắc cho tôi. Họ bố trí tôi nằm riêng một phòng có điều hòa nhiệt độ và mắc vào người tôi những dụng cụ để theo dõi nhịp tim thường xuyên, có màn hình hiện lên trước mặt, nằm ở giường cũng có thể trông thấy. Hễ hơi động cựa mình hoặc dãy chân một tý là màn hình hiện lên con số 150 nhịp/ phút ngay. Về ăn uống bệnh viện cũng lo rất khá, 5 bữa một ngày. Sáng sớm thì bánh bao hoặc sủi cảo, giữa buổi uống sữa, trưa ăn cơm, 2-3 giờ chiều ăn bánh ngọt hoặc hoa quả, tối ăn cơm. Điều trị được ba, bốn ngày, bệnh tim vẫn không chuyển biến. Thế là lại phải nhịn ăn, lấy máu xét nghiệm, lại rửa ruột… vẫn không tìm ra nguyên nhân gì. Rồi đến một lúc tôi không ăn được, không ngủ được, thỉnh thoảng lại còn bị cảm (sau mới biết là nằm trong phòng có điều hoà nhiệt độ thường xuyên, tôi không quen nên mới bị cảm lạnh). Tình hình cứ thế kéo dài, tôi ngày càng gầy sút, chân tay trở nên uể oải không có lực. Đến nỗi việc tắm rửa cũng không tự mình làm được, phải nhờ anh em trong Sứ quán mình vào tắm giúp. Rồi đến lúc giơ tay lên đánh răng rửa mặt cũng thấy mỏi rã ra. Sau một tháng tôi sút mất 10 cân, chân tay lẩy bẩy, đi lại phải vịn, phải lần. Tôi nghĩ nếu cứ nằm đây thì sẽ suy sụp đến chết mất. (Trong khi đó ở Sứ quán, anh em đã họp bàn với nhau, nói đến việc nếu Đại sứ chết thì chôn ở Bắc Kinh hay đưa thi hài về nước). Tôi nói với bệnh viện là mình đỡ rồi, xin về Sứ quán chữa ngoại trú, tôi không dùng máy điều hoà nhiệt độ, chỉ dùng quạt ở mức nhẹ nhất, cho quay đi quay lại phe phẩy thôi. (Ngoài trời lúc đó đang là nóng nhất trong năm). Về ăn uống thì chú Quế (nấu cơm cho tôi đã lâu năm rất tận tình) thường đi mua thịt bò về làm cho chín tái đi rồi ép lấy nước cho tôi, hoặc chú nấu cháo gà cho, nhưng tôi vẫn chỉ ăn được một chút. Tôi thấy ngủ được hơn trong bệnh viện và uống được chút nước thịt cũng hấp thu tốt hơn. Hàng ngày tôi vào bệnh viện cho họ bắt mạch và cắt thuốc bắc về uống, vì hàng ngày vẫn còn sốt âm ỷ. Tôi xem đơn thuốc họ kê cho thì thấy trong đó có nhiều vị tác dụng tư âm thanh nhiệt, lần nào cũng thế. Từ trước tôi đã có mua và đọc nhiều sách thuốc của Trung Quốc, đã có chút hiểu về Đông y; vì vậy khi đọc đơn thuốc đó, tôi suy nghĩ: đã tư âm thanh nhiệt mãi mà không khỏi sốt, ắt trong người phải có chỗ viêm nhiễm nào đấy (mà có thể nó chưa đủ lớn để thày thuốc phát hiện được). Tôi nhờ anh Bảng phiên dịch tiếng Trung Quốc ra hiệu thuốc mua cho vị kháng sinh thực vật là bồ công anh, kim ngân hoa vàliên kiều về bỏ vào thang thuốc của bệnh viện sắc uống trong ba ngày. Uống xong ba ngày thì hết sốt, sau đó tôi thấy trong người ngày càng khá hơn lên, dần dần ăn được ít cơm. Tuy vậy người vẫn còn yếu. Tôi định rủ bà xã về nước (tôi nghĩ nếu có chết thì chết trong nước cho khỏi phức tạp, phiền hà đến cơ quan, tổ chức). Vừa lúc đó, chị Lan bác sĩ của Sứ quán lại phát hiện bà xã tôi bị vàng da, vàng mắt; đưa đi bệnh viện khám thì ra viêm gan cấp tính, phải nằm viện chuyên khoa cách ly điều trị một tháng. Khi bà xã tôi khỏi bệnh ra viện, chúng tôi cùng rời Bắc Kinh về nước. Khi ra sân bay, bác sĩ của Sứ quán vẫn phải đưa tôi đến tận chân thang máy bay. Về đến Hà Nội, bác sĩ của Bộ Ngoại giao ta phải ra tận máy bay đón tôi. Khi tôi có việc lên Bộ Ngoại giao, chỉ có thể đứng dưới nhắn người của vụ Trung Quốc xuống mà gặp. Tôi không còn đủ sức trèo lên tầng ba để làm việc. May mắn là tôi có đem về được hai hộp bột tam thất Vân Nam (là thứ tốt nhất hồi đó, ở Việt Nam hầu như không thể kiếm được). Tôi uống bột tam thất, đồng thời động viên bà vợ cùng ăn gạo lứt để chữa bệnh. Kiên trì ngày một bữa gạo lứt trong hơn hai tháng thì sức khoẻ tôi đã hồi phục như bình thường.
Người ta nói “trong cái rủi có cái may”, bị một trận ốm thập tử nhất sinh ở Bắc Kinh như trên đã nói, rõ ràng là chẳng ai muốn, nhưng qua trận ốm đó tôi lại học được nhiều việc, tôi trở nên chú ý suy ngẫm, rút kinh nghiệm về bảo vệ sức khỏe và thêm hứng thú đi sâu nghiên cứu Đông y hơn. Sau này khi có điều kiện, tôi đã mầy mò nghiên cứu học hỏi cho có bài bản và trở thành thày lang của gia đình, chữa được nhiều bệnh cho vợ con, cháu chắt, bạn bè….
Cái thời những năm 80 thế kỷ trước, ở trong nước mọi thứ hàng hóa đều khan hiếm. Mỗi lần về nước là cán bộ nhân viên Sứ quán ta đều tranh thủ mua các thứ hàng tiêu dùng đem về, kỳ cho hết tiêu chuẩn trọng lượng hàng được phép theo quy định của hàng không mới thôi. Chú Quế đầu bếp của tôi cũng vậy, mua cả táo tàu (thứ táo nhỏ của Tàu sấy khô, quả nhăn nheo màu đỏ nâu hoặc đen) đem về ngâm vào phích nước nóng để uống. Một hôm chú khoe với tôi: “Cái ruột phích của em ngâm táo tự nhiên lại sáng choang như mới”. Nghe vậy, tôi bèn nghĩ: có lẽ trong táo tàu có chất a-xít gì đánh tan được cặn can-xi bám trong ruột phích nước. Rồi một lần về nước tôi cũng mua theo mấy cân táo tàu, về qua Thái Lan, ngủ ở nhà khách Sứ quán ta ở Băng-cốc cùng với một đồng chí cán bộ của ta cũng đi qua, tôi đem táo tàu mời đồng chí đó ăn. Đồng chí nói: “Trước đây tôi bị sỏi thận, có người bạn cũng cho tôi một cân táo tàu. Sau khi ăn ít hôm thì thấy đau bụng dưới nhiều, hai ba hôm mới khỏi”. Tôi hỏi: “Từ đó đến nay anh còn thấy đau nữa không?”. Đồng chí nói không. Thế là liên hệ việc này với việc cái ruột phích của chú Quế, tôi phát hiện ra rằng trong táo tàu có chất làm tan sỏi can-xi, khi ăn táo tàu nó bào mòn viên sỏi làm sỏi nhỏ đi đến mức có thể bài tiết ra ngoài qua đường niệu, trên đường đi ra, nó chà xát vào niệu quản làm đau. Đến lúc đồng chí Bảng được điều sang làm phiên dịch cho tôi thay một đồng chí khác đã hết nhiệm kỳ. Gặp tôi, Bảng nói: “Em bị sỏi thận đang điều trị thì Bộ bắt sang đây”. Tôi bảo Bảng ra ngoài hiệu thuốc mua lấy một cân rưỡi táo tàu, hai buổi, buổi sáng chiều trước bữa cơm đều ăn lấy một vốc. Mấy hôm sau Bảng nói với tôi: “Em có cảm tưởng sỏi nó đi đến gần xương cụt rồi”. Vài hôm sau nữa thì sỏi ra ngoài. Từ đó trở đi Bảng không bị đau thận nữa. Thế là chắc chắn “phát hiện” được thứ thuốc vừa ngon vừa lành là táo tàu nên dùng đủ liều lượng thì có thể làm tan sỏi can-xi trong thận!
Tôi nghĩ, 13 năm ở Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh căng thẳng với Bộ Ngoại giao Trung quốc, vừa phải chống đỡ bệnh tật, nếu mình không đọc sách và biết về thuốc, cứ phó thác thân mình cho các giáo sư bác sĩ ở bệnh viện Bắc kinh thì có lẽ đã chết từ lâu rồi. Tự mình cứu mình nên đã sống thêm được vài chục năm nữa. Vào năm 1985, sau khi quan hệ Trung Quốc – Việt Nam đã bình thường hoá trở lại, Hiệp hội Ngoại giao Trung Quốc đã mời tôi với đồng chí Ngô Minh Loan, đồng chí Nguyễn Minh Phương là ba Đại sứ cũ ở Trung Quốc sang thăm nước họ. Tôi lại làm Trưởng đoàn, Đại sứ Lý Thế Thuần lại hỏi tôi muốn đi thăm nơi nào? Tôi nói tôi đi thăm đã gần hết các tỉnh của Trung Quốc, chỉ còn Hàng Châu và Thâm Quyến là chưa được đi. Hiệp hội Ngoại giao đã đáp ứng một cách nhiệt tình mấy nguyện vọng của tôi, mời cả đồng chí Hứa Pháp Thiện (tên Việt Nam là Thanh) vốn là cố vấn của Cục Tổ chức chúng tôi trong kháng chiến chống Pháp đến dự buổi chiêu đãi của họ (trong bữa tiệc có cả Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đến dự). Cuộc gặp rất vui vẻ. Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng có buổi tiếp chúng tôi. Sau đó Hiệp hội cử một nữ Trưởng phòng là Trịnh Nại Linh tháp tùng chúng tôi đi thăm quan các nơi như Hàng Châu, Thâm Quyến. Đi đến đâu họ cũng bố trí cho chúng tôi ở khách sạn 5 sao, riêng tôi được bố trí ở phòng VIP bằng tiêu chuẩn Phó thủ tướng có phòng ngủ, phòng khách riêng. Ở địa phương nào cũng có Phó tỉnh trưởng đến tiếp đón. Tôi thấy chỉ mới cách 8 năm thôi mà Trung Quốc thay đổi ghê gớm. Thâm Quyến xưa chỉ là bãi đất hoang mà nay trở thành một thành phố hiện đại hoàn chỉnh. Trong thành phố có một công viên rất rộng lớn gọi là tiểu Trung Hoa, họ xây dựng tất cả các danh lam thắng cảnh (thu nhỏ) tiêu biểu của các tỉnh Trung Quốc (ví dụ trong đó có Cố Cung, Trường Thành, Tây Hồ, Thái Hồ…). Còn Quảng Châu, Bắc Kinh tựa hồ như đã lột xác, trở thành những thành phố tráng lệ sầm uất gấp hàng chục lần so với lúc tôi làm Đại sứ.
Khi tôi đã thôi nhiệm vụ Đại sứ về nước, thì ở Việt Nam, Trung Quốc đã lần lượt thay mấy đời Đại sứ: Lý Thế Thuần, Trương Đức Duy, Lý Gia Trung, Tề Kiến Quốc đến Hồ Càn Văn. Họ đều biết tôi từ khi họ còn là các cán bộ phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã dịch cho quan chức ngoại giao Trung Quốc “đấu đá” với tôi. Vì biết tôi là Đại sứ kỳ cựu nên mỗi khi có dịp chiêu đãi nhân Quốc khánh Trung Quốc hay nhân dịp kỷ niệm thành lập quan hệ ngoại giao hai nước, họ đều nhớ mời tôi.
Năm 1987, tôi được chính thức cho phép rời Sứ quán ở Bắc kinh sau khi đã hoàn thành tốt nhiệm kỳ Đại sứ dài dặc nhất trong lịch sử các Đại sứ Việt Nam ở nước ngoài: mười ba năm. Nghỉ ngơi trong một thời gian thì Bộ Ngoại giao yêu cầu tôi viết Hồi ký 13 năm làm Đại sứ ở Trung Quốc. Tôi đã viết xong và nộp cho Bộ Ngoại giao. Đến năm 1990 thì thực sự nghỉ hưu.
Khi về nước được hai năm, tôi gặp một đồng chí quan lúc đó là cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương. Đồng chí hỏi: “Anh được tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1987, anh đã nhận được chưa?”. Tôi bảo tôi không biết gì! Ban Tổ chức Trung ương bèn hỏi bên Bộ Ngoại giao. Thì ra Vụ Tổ chức Bộ Ngoại giao đã nhận, đem cất đi rồi quên mất (!) Vì vậy cho nên mãi đến năm 1990 trước khi tôi nghỉ hưu, Bộ Ngoại giao mới mời tôi lên. Đồng chí Bộ trưởng trao huân chương cho tôi và tặng một số tiền kèm theo là 100.000 đồng trong cuộc họp mặt có đông đủ cán bộ từ Vụ trưởng, Vụ phó trong Bộ. Lúc đó tôi mới tức cảnh làm bốn câu thơ:
“Vừa rồi được tấm Huân chương
Xa xôi nó phải đi đường hai năm
Bộ Ngoại giao tặng thêm một trăm
Đủ tiền làm một bữa nem ăn mừng!”.
Như vậy, năm 1990 đã kết thúc một quãng đời quan trọng của tôi mà tôi gọi là “thanh niên ba sẵn sàng”. Tôi luôn sẵn sàng chấp hành mọi sự điều động của Đảng, Nhà nước, không tính toán thiệt hơn, không hề có đề nghị, yêu cầu gì, nhận được mệnh lệnh là lên đường đi làm nhiệm vụ thậm chí không đợi cả làm đủ giấy tờ thủ tục, chẳng ngại sự thiệt thòi về lương bổng, về chế độ đãi ngộ, về nhà cửa. Với việc nào, tôi cũng chỉ đinh ninh một điều là làm sao cho tốt nhất so với năng lực của mình. Trong thời gian từ khi kết thúc kháng chiến chống Pháp đến năm 1990, tôi được phân công làm nhiều công tác như đã thuật ở trên, nhưng có thể nói có hai việc lớn và làm thời gian dài nhất là làm Cố vấn cho Bạn Lào và làm Đại sứ ở Trung Quốc (tổng cộng hơn 20 năm) và cũng là hai việc tôi có nhiều kỷ niệm đáng nhớ hơn cả và về cơ bản có thể nói là “đã đạt yêu cầu”. Vì vậy, tôi có thể mượn lời của con gái Nguyên Bình trong câu đối nôm na nó viết tặng tôi nhân buổi mừng sinh nhật 80 tuổi để làm câu kết cho câu chuyện đi sứ nước người của tôi:
Làm Cố vấn miền Tây, ghi lời Bác, không làm “lão Toàn quyền”*, 
luôn nhớ chữ “chủ quyền của bạn”.
Đi Đại sứ nước Tàu, theo ý Đảng, chẳng ngại “người Đại quốc”, 
giữ trọn điều “Quốc thể về ta”.
*Trước khi đi Lào nhận nhiệm vụ mới (làm Trưởng đoàn cố vấn giúp Lào – cuối 1964), Hồ Chủ tịch cho gọi ông Nguyễn Trọng Vĩnh tới ăn cơm và dặn dò một số điều. Người nói vui với Nguyễn Trọng Vĩnh: “Chú sang bên ấy, chú có ý kiến gì thì chú góp với Bạn để Bạn làm, chú không được làm thay và chú không được làm “Lão toàn quyền” đấy nhé!” – Chú thích của Bà Nguyễn Nguyên Bình, con gái Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh.
Hết chương 7

Trí tuệ của thợ mộc xưa: Ghế đi với số 3, giường đi cùng số 7, quan tài là số 8

Tác giả: Chân Chân biên dịch
“Ghế đi với số 3, cửa đi với số 5, giường đi với số 7, quan tài đi với số 8, bàn đi với số 9”, câu cửa miệng của thợ mộc ngày xưa đã thể hiện được trí tuệ hơn người.
KD: Bài viết rất thú vị. Xin đăng lên để bạn đọc chia sẻ
——————— 
Đối với người xưa mà nói, “Dịch kinh” là nguồn gốc của rất nhiều học vấn. Lỗ Ban được coi là tổ sử của ngành mộc, được các thợ mộc tôn kính, ông cũng là người rất tinh thông “Dịch kinh”.Lỗ Ban được coi là tổ sử của ngành mộc, các thợ mộc ai cũng tôn kính ông, Lỗ Ban cũng là người rất tinh thông “Dịch kinh”. (Ảnh: Zhuokearts)
Theo truyền thuyết, Lỗ Ban có lần điêu khắc ra một tượng người bằng gỗ, sau khi khắc xong, ông nhớ ở trong “Dịch kinh” có một câu “Nguyên hanh lợi trinh”. Bốn chữ này là ở trong quẻ Càn, đại biểu cho quy luật sinh tồn của thế gian vạn vật, tựa như một năm bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, sinh sôi không ngừng.
Vì vậy Lỗ Ban liền khắc lên sau lưng tượng gỗ bốn chữ “Nguyên hanh lợi trinh”, còn đặt tên cho tượng gỗ đó là “Tuệ Thông”, tiện tay đặt nó ở phía sau điện thờ, rồi cũng quên không nhớ tới nữa.
Ba tháng sau, Lỗ Ban vẫn như thường ngày làm lễ cúng, khi đó một bó nhang không biết tại sao lại rơi xuống sau điện thờ. Lúc Lỗ Ban đi nhặt bó nhang kia, vô tình nhìn thấy tượng người gỗ, ông vui mừng hô lên “Tuệ Thông”. Điều không ngờ là người gỗ có thể đáp lại, không những thế còn đứng lên đi về phía Lỗ Ban.
Nguyên nhân chính là do bốn chữ “Nguyên hanh lợi trinh” khắc vào tượng gỗ đã khởi tác dụng. Hơn nữa, tượng gỗ lại được đặt ở gần điện thờ, vừa khéo được con người cúng bái đúng 81 ngày, làm cho nó có được sinh mệnh. Cuối cùng lại gọi đến tên của nó, vậy nên nó đã tỉnh lại.
Sau chuyện này, Lỗ Ban càng nghiên cứu sâu hơn về “Dịch kinh“, khiến cho kỹ thuật kiến trúc và kỹ nghệ mộc của ông có những đột phá lớn.
Đệ tử của Lỗ Ban đã tổng hợp những tri thức sáng tạo cả đời của ông ghi chép lại, người về sau gọi là “Lỗ Ban kinh”, trong quyển sách cũng có viết lại câu chuyện về “Nguyên hanh lợi trinh”. Bởi vì “Lỗ Ban kinh” dựa trên cơ sở của “Dịch kinh”, nên đối với “Dịch kinh” là có quan hệ vô cùng mật thiết.
Trong sách có một câu: “Ghế đi với số 3, cửa đi với số 5, giường đi với số 7, quan tài đi với số 8, bàn đi với số 9”, đây là câu cửa miệng của thợ mộc ngày xưa. Bây giờ xem lại, những lời này ở một mức độ nào đó chính là thể hiện nguyên lý của “Dịch kinh”, trong đó chính là ngụ ý về sự mỹ hảo. Từ đó có thể thấy trong cuộc sống của người xưa, lúc nào cũng phải chú ý đến những điều may mắn, tốt lành.
1. Ghế đi với số ba, ngụ ý là cuộc sống hòa thuậnChiều dài của chiếc ghế gỗ không thể là một số nguyên, số đuôi của nó nhất định phải có chứa số 3. (Ảnh: Kknews)
Những chiếc ghế gỗ dài ngày xưa, có thể để cho nhiều người cùng ngồi một lúc. Chiều dài của chiếc ghế gỗ không thể là một số nguyên, số đuôi của nó nhất định phải chứa số 3, ví dụ như 2,3 xích, 4,3 xích (1 xích = 1/3m).
Bởi vì con số 3 thuộc về quẻ Ly, Ly là hỏa, hỏa đối ứng với “Lễ”. Ba người tạo thành số đông, bởi vậy mọi người muốn bình an vô sự ngồi cùng một chỗ với nhau, thì phải tuân thủ “lễ tiết” giữa người với người.
2. Cửa đi với số năm, ngụ ý là cả nhà tài phúc
Ngày xưa làm cửa bất kể là lớn nhỏ, dài rộng thế nào đều phải có số 5 ở đuôi. Bởi vì số 5, thuộc về quẻ Tốn, phương vị của quẻ Tốn là hướng Đông Nam.
Đối với người xưa mà nói, xây dựng nhà cửa, sẽ quay lưng về hướng Bắc, quay mặt về hướng Nam, như vậy sẽ dễ dàng lấy được ánh sáng.
Chỉ có nha môn của quan phủ mới làm cửa Nam, nhà dân bình thường đều muốn hướng về phía Đông một chút, vậy là làm cửa hướng Đông Nam.
Bởi vì người xưa cho rằng phương vị của quẻ Tốn (hướng Đông Nam) là hướng phát tài, mà cửa chính là cái “miệng khí” của cả gia đình, như vậy dễ dàng thu hút tài vận. Cho nên “Cửa đi với năm” cũng có ý tứ là 5 loại phúc tới nhà.
3. Giường đi với số bảy, ngụ ý là cuộc sống an ổn
Giường ngày xưa dù dài rộng lớn nhỏ thế nào, thì số đuôi phải có số 7, như 2,7 xích; 3,7 xích v.v. Bởi vì con số 7, thuộc về quẻ Cấn, quẻ Cấn đại biểu cho núi, có hàm ý là ổn định và an tĩnh.
Giường mà an ổn, chính là biểu tượng cho một cuộc sống bình yên. Cuộc sống thế nào là an ổn? Chính là buổi tối có thể ngủ ngon, tâm không lo lắng, không phải suy tư về ngày mai. Cũng có câu tục ngữ “Tâm an ổn, giường an ổn”, “Ngủ không yên, không thể oán giường nghiêng”.Giường mà an ổn, chính là biểu tượng cho một cuộc sống bình yên. (Ảnh: Kknews)
4. Quan tài đi với số tám, ngụ ý tích đức làm việc thiện để lại phúc cho con cháu
Thợ mộc ngày xưa đóng quan tài, bất kể là người qua đời cao thấp ra sao, tất cả quan tài đều làm tám thước, không nhiều hay ít hơn. Bởi vì con số 8, thuộc về quẻ Khôn, quẻ Khôn đại biểu cho quả đất, đức dày có thể chuyên chở vật.
Người đã chết, cái gì cũng đều không mang theo được, tích lũy tiền bạc ngược lại sẽ làm cho thế hệ sau ham ăn lười biếng, mang đến tai họa. Cho nên người khi còn sống, chi bằng tích đức làm việc thiện, để lại phúc báo cho con cháu.
5. Bàn đi với số chín, ngụ ý là gia đình thịnh vượng
Bàn ở đây là bàn vuông để ngồi ăn cơm, cái bàn dù là dài rộng cao thấp ra sao, cũng đều phải có số 9 ở đuôi, ví dụ như 2 xích 9 thốn, 3 xích 1 thốn 9 phân…
Trong “Dịch kinh”, số 9 đại biểu cho “Dương”, là một con số thần thánh và may mắn, có thể dùng để tượng trưng cho trời cao.
Người một nhà cùng ngồi chung với nhau, ăn uống sum vầy, cơm áo không phải lo nghĩ, gia đình như thế chính là thịnh vượng.

Trang