31 tháng 1, 2017

Tại sao nước Mỹ vĩ đại?



Abraham Lincoln
Tổng thống thứ 16
của nước Mỹ
canhco's blog: "Nước Mỹ vốn vĩ đại vì một yếu tố khác vô cùng quan trọng đó là nó có chính sách chia sẻ quyền làm người, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do phát biểu cũng như tự do báo chí tuyệt đối. Nó bênh vực, bảo vệ những quyền căn bản ấy của người dân các nước, bất cứ nơi nào mà nước Mỹ đặt tòa Đại sứ của nó. 
Nước Mỹ cũng vĩ đại vì tuy giàu có nó vẫn không ngần ngại mở rộng và cổ vũ các hiệp định thương mại tự do, tức là phần nào nó giúp kéo những nước đang phát triển đứng lên, chia sẻ lợi nhuận chung để cùng thịnh vượng và phát triển. Người nào giàu mà biết chia sẻ và giúp đỡ người khác thì đều được kính trọng và yêu mến." 
Câu slogan của Tổng thống Donald Trump “Khiến nước Mỹ vĩ đại trở lại” làm cho nhiều người ngẫm nghĩ. Phải chăng nước Mỹ đã dần dần mất đi sự vĩ đại nó vốn có từ sau thế chiến thứ II khi Nhật chính thức đầu hàng và Mỹ trờ thành đầu tàu cho cả thế giới để chống lại khối cộng sản? 
Liên Xô sụp đổ kéo theo toàn bộ Đông Âu làm cho nước Mỹ vững vàng hơn trong tư thế lãnh đạo thế giới. Trung Quốc nổi lên, như một định luật từ xưa tới nay không một cường quốc nào không bị cạnh tranh chiếc ghế độc tôn thế giới và Trung Quốc là nước có khả năng này. Trung Quốc vừa là món lợi về kinh tế cho các nước cần nhập khẩu sản phẩm giá rẻ vừa lo lắng ngày một lớn mạnh và không che giấu tham vọng bá chủ toàn cầu của Bắc Kinh. Mỹ là nước duy nhất có đủ thế và lực để cản trở ý tưởng đại Hán. Và một lần nữa cả thế giới biết rất rõ điều này. 
Tổng thống Trump đã giải quyết một phần câu hỏi. Ông không ngần ngại tỏ thái độ cứng rắn từ khi còn tranh cử. Sau khi chiến thắng ông cho Trung Quốc thấy vấn đề Đài Loan vốn nhạy cảm và bị các đời tổng thống Mỹ xưa nay tránh né thì ông xắn tay áo, kéo Đài Loan về phía mình một cách công khai. Ông chọn một nội các mà trong đó 2/3 có khuynh hướng xem Trung Quốc là mối họa. Từ Ngoại trưởng Rex Tillerson thẳng thừng tuyên bố vấn đề Biển Đông có ý răn đe Trung Quốc cho tới Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis có biệt danh cực kỳ ấn tượng “Mad dog”, về kinh tế ông có người đứng đầu Hội đồng tư vấn thương mại quốc gia là Peter Navarro, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Chết dưới tay Trung Quốc” khiến Bắc Kinh phải ngày đêm họp kín tìm phương cách đối phó. 
Tổng thống Donald Trump đã làm được một việc quan trọng mà nhiều chính phủ thời trước xem thường, kể cả chính phủ Obama vốn được thế giới ngưỡng mộ vẫn vấp phải sự chần chừ, ngờ ngợ vê một nước Trung Quốc có dã tâm lớn vẫn luôn bị các nước láng giềng của nó dè chừng. 
Nhưng nước Mỹ từ xưa tới nay còn cần những yếu tố khác để làm nó vĩ đại. 
Nhân bản là yếu tố đầu tiên, lớn nhất làm cho Mỹ trở thành vĩ đại. Bản tuyên ngôn độc lập mà thế giới truyền tụng là của Hoa Kỳ. Rồi di dân là một thí dụ khác rõ ràng nhất việc bảo vệ người chạy trốn các chế độ độc tài cần sự đưa tay ra cứu vớt, trong đó hình ảnh của hơn một triệu thuyền nhân Việt Nam vẫn in hằn trong lịch sử nước Mỹ. 
Hợp chủng quốc là cái tên gọi chính thức của nước Mỹ. Đất nước của toàn thế giới hợp lại và những người di dân từ bốn phương ấy đã làm cho nước Mỹ vĩ đại. 
Nước Mỹ giàu có và nước Mỹ không nhỏ mọn. Nó là nơi có những tỉ phú bỏ hết sản nghiệp của mình ra giúp thế giới từ đói nghèo tới bệnh tật lẫn giáo dục. Nước Mỹ được thế giới ngưỡng mộ và song song với sự hào phóng thiện nguyện ấy nước Mỹ có được thứ quyền lực mềm khiến thế giới nể phục. Mạnh về quân sự nhưng thiếu tính trắc ẩn thì nước Mỹ cũng chỉ như Nga hay Trung Quốc là cùng. Mạnh mẽ nhưng không thể nào vĩ đại. 
Nước Mỹ vốn vĩ đại vì một yếu tố khác vô cùng quan trọng đó là nó có chính sách chia sẻ quyền làm người, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do phát biểu cũng như tự do báo chí tuyệt đối. Nó bênh vực, bảo vệ những quyền căn bản ấy của người dân các nước, bất cứ nơi nào mà nước Mỹ đặt tòa Đại sứ của nó. 
Nước Mỹ cũng vĩ đại vì tuy giàu có nó vẫn không ngần ngại mở rộng và cổ vũ các hiệp định thương mại tự do, tức là phần nào nó giúp kéo những nước đang phát triển đứng lên, chia sẻ lợi nhuận chung để cùng thịnh vượng và phát triển. Người nào giàu mà biết chia sẻ và giúp đỡ người khác thì đều được kính trọng và yêu mến. 
Tổng thống Donald Trump không thích tự do mậu dịch. Ông bảo vệ người lao động Mỹ nhưng coi thường sự khó khăn của các nước khác. Ông không muốn nước Mỹ được tiếng vĩ đại nhưng mất phần lợi nhuận. 
ng thống Donald Trump không muốn di dân vào Mỹ phạm tội và vô công rỗi nghề hay lợi dụng chính sách di dân để khủng bố. Những chính quyền khác từ trước tới nay cũng không hề muốn như vậy và chính sách di dân của Mỹ chưa bao giờ để lọt khủng bố như các nước Châu Âu. Tội phạm di dân không thấm gì so với tội phạm người bản xứ. Những lý do ông đưa ra không thuyết phục người Mỹ gốc di dân từ đó tính vĩ đại của nước Mỹ bị phán xét. 
Và quan trọng nhất, sự vĩ đại của nước Mỹ sẽ bị nghi ngờ khi Tổng thống Donald Trump không chú ý đúng mực tới những giá trị phổ quát của nhân loại khi ông đóng sập cánh cửa dân chủ, nhân quyền đối với người nói khác tiếng nói của đất nước ông. 
Vậy thì “Khiến nước Mỹ vĩ đại trở lại” có ý nghĩa thật sự nằm ở đâu khi ông vất vào thùng rác sự vĩ đại vốn có để tìm kiếm những thứ khác viễn vông và đầy dấu hỏi?

4 SỰ KIỆN TRONG THÁNG 1/2017- “SẮC MÀU” CHÍNH TRƯỜNG VIỆT ?;

Phạm Viết Đào
Liêp tiếp 4 sự kiện nổ ra một cách không ngẫu nhiên trong tháng 1/2017; những sự kiện này nhìn qua tưởng như không liên quan gì với nhau; Thế nhưng, với ai am tường, hiểu sâu thế sự Việt Nam trong giai đoạn hiện này thì sẽ lờ mờ nhận thấy chúng liên quan mật thiết với nhau. 
Những sự kiện này đã được lập trình cẩn thận, tính toán chi ly quy ra bằng “tiền tươi thóc thật”; những sự kiện này không là những thao tác chính trị ngẫu nhiên, ngẫu hứng…diễn ra dồn dập vào thời điểm năm cùng tháng tận của năm con Khỉ chuyển qua năm con Gà ! 
Xin được nêu 4 sự kiện này:
-1. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc từ ngày 12-15/1/2017
-2. Chính phủ Việt Nam cho biết trên website của mình rằng Thỏa thuận khung Phát triển dự án và Hợp đồng bán khí Cá Voi Xanh vừa được ký hôm 13/1 giữa Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) và Công ty TNHH Thăm dò Khai thác Dầu khí ExxonMobil Việt Nam (ExxonMobil).
Dự án khai thác và mua bán khí đốt lấy từ mỏ Cá Voi Xanh nằm ngoài khơi Quảng Ngãi là dự án khí lớn nhất Việt Nam cho tới nay, được trông đợi đạt dòng khí đầu tiên vào năm 2023.
-3. 23/1/2017, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đồng ý điều chỉnh công năng, quy mô, quy hoạch của Khu bến cảng Cà Ná thuộc Cảng biển Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.
-4. Bắt giam 2 nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Văn Oai và Trần Thị Nga…
-Ngày 19.01.2017, anh Nguyễn Văn Oai đang đi trên đường 36 thuộc Xã Quỳnh Vinh, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, thì bị một nhóm người được phục kích và bắt giữ.
- Ngày 21/1/2017 bắt chị Trần Thị Nga tại nhà riêng Phủ Lý- Hà Nam…
Về sự kiện thứ 2:
Như thông tin báo chí đã đưa: Đây là một bước phát triển cụ thể, rõ ràng trong quan hệ Việt-Mỹ thông qua hành động thực tế, có tính toán. 
Hoa Kỳ không chỉ tuyên bố chung chung mà bằng việc tham gia đầu tư khai thác mỏ khí đốt Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Ngãi, rất gần với khu vực Trung Quốc xây đảo Gạc Ma.
Sự có mặt của Tập đoàn ExxonMobil cho thấy quyền lợi của Hoa Kỳ liên quan tới Biển Đông không chỉ trên phương diện luật pháp hàng hải mà có “ quả thực” cụ thể được Việt Nam chủ động ký kết…
Sự có mặt của một công ty hàng đầu của Hoa Kỳ tại vùng biển Quảng Ngãi cho thấy Hoa kỳ sẵn sàng đối mặt với những uy hiếp, thách thức từ phía Trung Quốc trên Biển Đông.
Một điều đáng lưu ý: Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã bổ nhiệm ông Rex Tillerson, giám đốc tập đoàn dầu khí đa quốc gia Exxon Mobil, đảm nhận chiếc ghế Ngoại trưởng. Trước khi nhậm chức, ông này đã có những tuyên bố khá cứng rắn với Trung Quốc xung quanh vấn đề Biển Đông…
Qua sự bổ nhiệm này cho thấy đường lối đối ngoại mới của Chỉnh phủ Hoa Kỳ: quyết tâm can dự và ra tay bảo vệ những “ quả thực “ của mình ở Biển Đông và “ quả thực “ này đã có địa chỉ…
Về sự kiện thứ 3:
Mặc dù dự luận đang choáng váng sau sự cố Formosa, nhiều chuyên gia lên tiếng phản biện về Dự án Thép Cà Ná do chủ Đầu tư là Tập đoàn Hoa Sen đề xuất; nhưng Thủ tướng Chính phủ vẫn ký quyết định đồng ý điều chỉnh công năng, quy mô, quy hoạch của Khu bến cảng Cà Ná thuộc Cảng biển Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận?
Mọi người đều biết: Dự án xây dựng nhà máy luyện thép này chắc chắn có yếu tố Trung Quốc, có bàn tay, vốn liếng của các nhà đầu tư Trung Quốc ?
Và theo một số nguồn thạo tin: Khu bến cảng này được điều chỉnh lên 1500 ha và nhận được một ưu tiên đặc biệt: miễn tiền thuế thuê đất trong cả đời dự án ?
Đây là một dự án được gấp rút bổ sung quy hoạch sau chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. 
Viêc điều chính và mở rộng quy hoạch cảng Cà Ná này tạo điều kiện và bật đèn xanh cho các nhà đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam như tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Trung Quốc trước đó…
Như vậy, có khả năng chuyến thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng đã khớp nối các thao tác kinh tế- ngoại giao nhằm mục đích phân chia, cân bằng 2 thế lực đang gầm ghè nhau “miếng bánh” Biển Đông: Việt Nam chia phần, hợp tác với cả hai…
Đây là một hình thái ngoại giao: Đưa người cửa trước rước người cửa sau...
Sự kiện kiện thứ 4 có liên quan gì ?
Việc cấp tốc bắt giam 2 nhà hoạt động bất đồng chính kiến đó là anh Nguyễn Văn Oai, vừa mới mãn hạn tù năm 2015 và chị Trần Thị Nga ở Phủ Lý Hà Nam vào dịp này là tín hiệu,“ 2 nắm đấm” mà nhà cầm quyền Việt Nam dứ ra để “bảo hiểm” cho chính sách “ đu dây” của mình…
Dư luận lâu nay vẫn cho rằng: “Lệ thuộc Trung Quốc thì mất nước; bắt tay với Hoa Kỳ thì mất Đảng”…
Để tránh bị rơi vào “ tử lộ” của những thái cực quan hệ kể trên; để “bảo hiểm” cho chính sách “ đu dây”: Bên cạnh việc tăng cường mua sắm vũ khí, củng cố các liên minh với các nước có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật, Ấn Độ; Việt Nam đã chìa tay với Trung Quốc để tránh không bị Trung Quốc gây ra những khó dễ nhãn tiền, còn lâu dài thì tính sau, chia nhau chịu đựng; đồng ý chấp nhận cho Trung Quốc vào đầu tư một số dự án ở những khu vực then chốt như Formosa, Cà Ná-Ninh Thuận…
Thao tác này được triển khai đồng hành với thao tác mời Mỹ vào vùng biển Quảng Ngãi để khai thác mỏ khí đốt Cá Voi Xanh, một mỏ khí lớn…
Để đề phòng việc “Chú Sam” ( Hoa Kỳ) cùng với việc mang tiền, thiết bị sang đầu tư làm ăn tại Việt Nam, mang theo cả “món hàng” dân chủ là thứ rất nhó nhằn, rất là “dị ứng” với “ cơ địa” của chính quyền Việt Nam cộng sản. Để dằn mặt những kẻ kinh doanh mặt hàng này, Việt Nam tăng cường bắt bớ những nhà bất đồng chính kiến để phát tín hiệu cảnh báo răn đe…để chứng tỏ các nhóm lợi ích của Đảng vẫn mạnh tay, mạnh cánh…
Qua 4 sự kiện nay cho thấy số phận đắng cay, “ trăm dâu đổ đầu tằm” của con dân đất Việt trước những biến thiên của thời cuộc, đất nước; trước những rủi ro tiềm ẩn của những cú " đu dây"…Họ thường hưởng những phần quà nhỏ nhất nhưng lại gánh những gánh nặng nhất của số phận, đất nước.
Trăm họ con dân đất Việt lại phải chịu bao nhiêu hệ lụy không chỉ chi riêng đời họ và con cháu nhiều đời mai sau bởi họ đang sụn lưng vì: phải gánh cõng trên vai mình những toan tính của biết bao thế lực cường bạo !

PHIẾM DẬU PHÚ

Cao Bồi Già

Tiễn biệt năm Thân;
Cà kê chuyện Dậu.
.
Tức nhau tiếng gáy, đích tính nhà gà;
Gọi bạn lời gào, đúng tuồng chị mão.
Chửa tàn đêm, o ò ó, đầu xóm rúc vang;
Chưa rạng sáng, tẻ tè te, cuối thôn gáy báo.
Phận gia cầm,cả hàng cả họ, suốt ngày chăm chỉ kiếm ăn;
Đời mẫn cán,dắt lũ dắt bầy, khắp ngả siêng năng bới xáo.
Tối tối về chuồng thủ phận hiền ngoan;
Ngày ngày đẻ trứng đãi người thơm thảo.
Gà ỷ quen chuồng lớn tiếng cục ta;
Chó cậy gần nhà to mồm gâu gấu .
.
Tùng tùng cắc cắc:
Ngày tư ngày tết hội chọi trâu chen kèn;
Dịp hội dịp hè trường đá gà đông đảo.
Diệu võ giương oai giữa sân chọi, võ sĩ so tài;
Xù lông khoe cựa nơi trường gà, đối phương quyết đấu.
Phía nửa cân, dù cánh tả tơi vài chục phút, chả hề núng nao;
Bên tám lạng, dẫu máu bết bê mấy ôm nhang , vẫn còn xông xáo.
Cựa dài lại rắn ấy hạng thần kê;
Cựa ngắn thì mềm rõ hàng thải dậu.
.
Ô kìa kìa:
Gà đòn ra miếng, không tử thì sưng cổ bươu đầu;
Gà cựa giở đòn, chẳng toi cũng toác da đổ máu.
Vân khâu đá đâu thắng đấy, trâu đổi cũng không;
Vân cán bán được mại ngay, bạc thua chắc hảu.(1)
Sở trường-sở đoản-dáng hình-tính cách, được cả nhân gian nghiên cứu viết sách Kê Kinh;
Kỹ thuật-kỹ năng-điệu bộ-giống nòi, khiến bao người thế mẩn mê nhập môn kê giáo.
Nhưng chớ lậm, chớ lậm vì:
Bộn anh đắm ham cờ bạc, khiến cửa nhà vụt chốc tan hoang;
Lắm chú mê mẩn độ gà, mà tài sản theo nhau đi ráo.
.
Xưa nay:
Ca dao nhiều ý để đời;
Tục ngữlắm câu truyền khẩu.
Gà con mất mẹ, phần số thương tâm;
Gà trống nuôi con, câu ca cảm não.
Trái nọ chung giàn, ắt phải đùm thương
Gà kia cùng mẹ, sao hoài ó gấu.
Ăn quẩn cối xay, phận gã gà què;
Đóng hoài lính lệ, phần anh kép xấu.
Dây đậu mà đun củ đậu, muôn nỗi đau thương;
Chân gà lại bới ruột gà, trăm phần nhốn nháo.
Quằn quại như đỉa dính vôi;
Rụt rè tựa gà phải cáo.
.
Kinh nghiệm xưa truyền:
Ráng mỡ gà thì ắt gió giông;
Ráng mỡ chó y rằng mưa bão.
Chớp đông nháy, gà gáy thì mưa;
Gió Heo may, chuồn bay ắt bão.
Lông trắng chân chì, người ca vạn lẽ, lắc đầu chị chê;
Lông đen chân trắng, mẹ mắng bao lời, quyết lòng em tậu .
Chim chi tuyệt hơn chim ra ràng ;
Gà nào ngon bằng gà đi dạo.
.
Chà chà:
Lầu son gác tía, ai kẻ chẳng ham ;
Cá gỏi cơm gà, ai người không hảo.
Hầm tiềm- xối mỡ, ôi quả sướng mồm;
Nướng chanh- hấp cải, ái chà khoái khẩu.
Lòng mề xào mướp, bà nếm sạch boong ;
Đầu cổ xáo măng, ông xơi rau ráu.
Nhì cổ cánh khoái khẩu gã lưu linh;
Nhất phao câu hợp gu chàng bợm nhậu.
Thiếu vị củ giềng dồi chó sao ngon ;
Có miếng lá chanh thịt gà rõ hảo, .
.
Lại còn hiếu đạo:
Thấy cha kiệt sức, bắt chú trống choai ngâm đậu ninh hầm;
Thương mẹ yếu đau, mổ ả mái tơ vo kê nấu cháo.
Lễ cưới cheo có thủ lợn nhắm mắt tiến dâng;
Mâm cỗ cúng thì chú gà ngửa mình kính cáo.
Cỗ liên hoan, không bia không rượu, ắt chẳng vui vầy;
Tiệc cưới hỏi, thiếu vịt thiếu gà, làm sao chu đáo .
.
Tán phễu chuyện Dậu, gẫu sang chuyện đời:
Đã bao kẻ trông gà hóa cuốc, vộ ăn nói tào lao;
Lại lắm người tưởng cáo là mèo, chả nghĩ suy tỉnh táo.
Tội quá bút sa gà chết, bao chú mổ cò;
Thương thay chữ vụng thân tàn, lắm anh nhà báo.
Đầu gà đít vịt, rõ chuyện ẩm ương ;
Khẩu phật tâm xà, đích đồ gian xảo.
Vận đỏ vận may, trúng đề chả đặng, trúng số đừng mơ;
Cái xui cái rủi, vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đáo.
Ấy ông nói gà bà nói vịt bao kẻ vỡ đầu
Còn anh ăn chả ả ăn nem, có người đổ máu.
Kẻ làm quấy nói càn, ắt lúng túng y gà mắc tóc, mặt mũi hổ ngươi;
Đứa ăn xằng đớp bậy, là hệt gà nuốt thun, số phần thảm não.
Thói thường gà vọc niêu tôm rõ chủ vắng nhà ;
Không lạ chó nhảy bàn độc đúng thời vô đạo .
Bao bậc Chúa rước voi giày mả tổ, lời bỉ khinh đeo đẳng ngàn sau;
Mấy đời Vua cõng rắn cắn gà nhà, tiếng nguyền rủa dẳng dai mai hậu .
.
Chớ dại, chớ dại:
Kẻo bỏ ba đồng thóc, được một tiền gà;
Lại lội năm quãng đồng, ăn một bát cháo.
Đã nhiều kẻ tham lam hám lợn mất bò;
Cũng lắm người dại dột lấy gà nhử cáo.
Chớ khinh kẻ gà mờ;
Kẻo đụng thằng bụng cáo.
.
Rõ lạ, rõ lạ:
Hiền lành nhút nhát, nhưng sao tên đặt gà ác gà hung;
Quỷ quái ranh ma, đã đành người gọi mèo già mèo cáo.
Chết quéo mà còn cục cựa, kỳ thay chỉ gã gà nòi;(2)
Sống nhăn nhưng cứ ngay đơ, lạ gì chính chàng cá sấu.
.
Năm mới năm me, mừng chị Gà anh Dậu:
Xưa “cục tác” đã lên tranh Đông Hồ;
Nay “tẻ te” cũng kín bìa lịch báo.
Kẻ kẻ đều mơ đồng sinh lúa tốt, thái quốc an dân;
Người người cũng ước gà đẻ trứng vàng, no cơm ấm áo.
Mừng Tân Xuân họ họ lộc tràn;
Chúc Năm Mới nhà nhà phúc đáo.
Hân hoan năm mới mấy ý viết càn;
Vui vẻ Ngày xuân đôi dòng tán láo.
Ghi chú:
(1): Con gà có một vảy liền vấn ngang chân trên cựa thì gọi là “vấn khâu đổi trâu không đổi”, gà nầy ra trường đá gà đối phương chết vào ôm nhan thứ ba, khoản 30-40 phút. Ngược lại nếu có một vảy liền nhau vấn ngang đầu gối thì gọi là “vấn cán không bán cũng thịt”, nếu đem ra trường mười lần thua đủ tám hay chín.
(2): Con gà nòi có “cục cựa” ở chân, chết rồi thì vẫn còn “cục cựa” đó , chứ nào mất đi đâu, hi hi…

TUYÊN NGÔN ĐINH DẬU

Bóng Tà Dương – Bùi Nghiệp


Mãn nhiệm Bính Thân;
Đến kỳ Đinh Dậu.
Khỉ đỏ đít thoái trào;
Gà hồng mao khởi tấu.
.
Từ khởi điểm:
Ta nguyên thuỷ thiên kê;
Tớ cội nguồn địa điểu.
Nhận Thiên hoàng chỉ thị, họng rền vang trưa nắng đưa tin;
Vâng Ngọc đế loan truyền, mồm đon đả đêm sương gáy báo,
.
Suốt kiếp trung thành;
Một đời tiết tháo.
Đúng giờ quy định, vỗ cánh xoè bảy nhịp hùng hồn;
Ngay khắc thời gian, vươn cổ gáy ba hồi táo bạo.
.

Kê mình bất kỷ - mặc cho đất động rung;
Phong vũ như mai - thây kệ trời mưa bão.(*)
Nhân - Tín trực đường hoàng;
Dũng – Đức – Văn tiết tháo.(**)
.
Đến hôm nay:
Lúc nhúc thay tông giống rất nhiều;
Lao nhao lắm tộc dòng đông đảo.
Đó bạch mao giống ác, khoe móng nghệ tỏ rõ hình hài;
Kìa ô vũ nòi di, lộ chân chì phô trương tướng mạo.
.

Bia ghi vang dội, đây Hoàng Kê – Dũng Điểu - Hắc ó – Bắc Phong;
Sử chép hùng hồn, nọ Tử Mị - Hùng Bàng - Thanh Đao – Đông Tảo…
Hoàn cầu nể sợ tài năng: Đâu là Quan Vũ, một tuần nhang bay sọ đứa huyênh hoang;
Thế giới kinh hoàng bản lãnh: Há phải Vân Trường, ba hồi trống móc diều quân thách đấu.
.
Luôn ghi tâm truyền thống, chồng ó o khí phách trượng phu;
Vẫn khắc cốt kỷ cương, vợ cục cục tâm hồn từ mẫu.
Chẳng tay ôm dưỡng trẻ tròn đầy;
Không vú bú nuôi con tuyệt hảo.
Đương đầu vuốt diều hâu;
Chống đỡ nanh chồn cáo.
Bày rắn ráo thua lui;
Lũ mèo hoang bại tẩu.
.
Vậy mà:
Tiếng để đời phải chịu lời nhơ;
Danh lưu thế đành mang tiếng xấu.
Nhiều câu tục ngữ chê bai, bới quanh xó bếp, đồng tông mà mổ loạn cào cào;
Lắm tiếng ca dao chế nhạo, ăn quyện cối xay, cùng giống lại đá bừa châu chấu.
.
Khối mỉa mai bọn nuốt dây thung;
Đầy cạnh khoé loài quanh góc giậu.
Dương dương bên nải chuối , ngự bàn thờ loã thể nhởn nhơ;
Tự đắc cạnh lư hương, toạ đĩa cúng trần truồng lơ láo.
.
Có biết chăng:
Dưỡng loài người trao trứng luộc chiên;
Nuôi nhân loại hiến mình xào nấu.
Từ cưới xin buổi sáng mân xôi;
Đến tang lễ canh khuya chén cháo.
.
Kia hầm ninh dưỡng lão, tra họng cụ già;
Đó ruốc xé nuôi em, đút mồm đồng ấu.
Người cần cù thu vén lông tơ;
Đứa hám hố không chừa xương xẩu.
.
Tấm tắc lũ ma men;
Gật gù băng bợm nhậu.
Ồn ào ngậu xị, lắc phao câu một cốc phải tuân hành;
Huyên náo ngả nghiêng, xoay thủ cấp nguyên ly đành dính chấu.
Gặm liên hồi liếm mép trơn tru;
Nhai bằng hết mài răng rau ráu.
.
Kẻ vắt óc phát minh;
Người vò đầu sáng tạo.
Tranh thủ ra tay;
Thi nhau động não.
.
Nhiều trò chế biến, cà ry – nướng ngói- chiên bơ;
Đủ món thực đơn, ngũ vị - hấp hèm– áp chảo.
Nọ xé phay – luộc xả - kho nghệ - rán giòn;
Này trộn gỏi – nướng lu – hầm gừng – bóp thấu….
.
Trên thằng mèo nghênh cổ láo liên;
Dưới đứa chó há mồm hau háu.
Giãi sao cùng tâm sự bi ai;
Bày chẳng hết nỗi lòng ảo não….
.
Thời cơ nay:
Mặc nhân loại xúc xiểm dèm pha, cờ đến tay phải phất, nguyện đoan thề chắc chắn móng hia;
Kệ loài người vô ơn tức tối, kiếm sát nách cứ vung, cương quyết giữ vững bền áo mão.
Để mời kêu người hiền hậu ngay lành;
Hầu cảnh tỉnh đứa ác tâm hung bạo.
.
Cổ suý bậc thiện lương;
Răn đe phường thô lậu.
Lấy quyền nhiếp chính, đủ mười hai tháng bệ son;
Dùng lệnh trị vì, dư ba trăm ngày ngai báu.
.
Trống truyền!
Loa báo!
.
(*)Phong vũ như mai, Kê mình bất kỷ (Tạm dịch:Mặc dù ngoài mưa gió,Gà không ngớt tiếng gáy) Câu đối trên bàn thờ tổ sư võ phái Thiếu lâm Tây Sơn Nhạn.
.
(**)Năm tính tốt của gà trống:
- Nhân : Khi chiến đấu, địch bỏ chạy mà không truy sát.
Đức:Tìm thấy mồi thì gọi đàn, không bao giờ đánh gà mái, gà con.
Dũng: Không sợ kẻ mạnh, quyết chiến đến cùng.
Tín: Sáng nào cũng gáy đúng giờ.
Văn: Áo mão đầu tóc láng mượt trịnh trọng.

25 tháng 1, 2017

SỚ TÁO QUÂN BÍNH THÂN – PHÚ

Trần Nhương
Cao Bồi Già

Ảnh minh họa. Nguồn: Trần Nhương
Thu khứ đông tàn;
Mai khoe đào nở.
Năm Khỉ tàn lui;
Niên Gà lấp ló.
Hăm ba tháng chạp, Táo Việt:
Yết chầu Ngọc Đế, cưỡi gió đằng vân;
Giã biệt nhân gian, thăng thiên thẳng lộ.
Lòng người thế giờ mong giãi tường;
Chuyện trần gian nay xin tâu rõ.
Nửa năm khí hậu ẩm ương, sông ngòi ngập mặn lửng lơ;
Sáu tháng tiết thời đỏng đảnh, đồng ruộng khô cằn nứt lở.
Đám gia súc kiệt quệ tiêu vong ;
Người nông dân khốn cùng khổ sở.
Việc trợ nông trễ nải, dân lãnh đủ mọi bề;
Tiền cứu hạn loay hoay, bạc ngủ yên một chỗ.
Thiên tai chửa qua ;
Nhân tai họa đổ.
Đầu tháng Tư:
Cua mực bầy bầy trồi sóng, kéo lũ phơi thây;
Cá tôm lớp lớp, dạt bờ tranh nhau tắt thở.
Đám đám rong tảo tức tưởi chết khô;
Rặng rặng san hô kinh hoàng gục đổ.
Tận Đà Nẵng ngược ra Xứ Nhệ, khắp trùng khơi trăm dặm tan hoang;
Từ Kỳ Anh chạy xuống Lăng Cô, dưới biển xanh muôn loài tận số.
Bờ cát trắng thành bãi tàng ô;
Đáy biển sâu hóa hầm huyệt mộ.
Ngư phủ đà phát hiện ống xả ống ngầm;
Nhân dân đã tỏ tường nguyên do nguyên cớ.
Thế mà:
Nào là hô hào viện sĩ khoa học vũ trụ, tiếng nức danh lừng nhăm nhăm nghiên cứu khui tường;
Rồi cả huy động giáo sư vật lý địa cầu, đao to búa lớn “quyết quyết điều tra làm rõ”.
Quan “Tài” leo lẻo tôm chết bởi “Địa chấn rung”;
Sếp “Môi” khăng khăng cá toi do “Hoa tảo nở”.
Lại còn:
Mấy ông đầu tỉnh tắm bơi làm mẫu ấy tớ không teo;
Dăm vị đầu ngành ăn cá nêu gương rằng quan chả sợ.
Y hệt xui trẻ ăn cứt gà;
Khác gì đẩy dân xuống đáy mộ.
Lời gian chẳng thể thông;
Sự thật rồi cũng lộ.
Thép Hưng Nghiệp phơi lòng hiểm, nói uế ô chính xưởng nó tuôn;
Fố-Mồ-Sa lòi dạ hung, nhận chất độc là tay chúng đổ.
Giả lả một lời “ngụy” xin lỗi, xong lì lợm vẫn sáng tối khói mù;
Lòe xòe nửa tỷ “đô” đền bù, rồi nghênh ngang vẫn ngày đêm lửa đỏ.
Xỉ bùn độc hại âm thầm chốn chốn đào chôn;
Chất thải hiểm nguy lén lút nơi nơi giấu đổ .
Hại nòi giống diệt vong;
Khiến nhân dân phẫn nộ.
Kẻ kẻ đồng tâm thét lác đuổi xua;
Người người nhất trí hô hào tống cổ.
Thảm thương thay:
Ngư dân thủy thủ gác chèo bó gối, quặn đau nhìn sóng bạc xiết mấy giận căm;
Thuyền bé tàu to ghếch mũi nằm bờ, buồn bã ngắm biển xanh biết bao thương nhớ.
Nhà hàng- khách sạn hoang lạnh, biệt tăm người viếng không kẻ muốn vào;
Rờ Soọt- bãi tắm đìu hiu, vắng ngắt khách du chẳng ma nào ngó.
Ngành buôn cá giãy đành đạch hết cửa làm ăn;
Nghiệp nuôi tôm chết đứ đừ chẳng phương cứu gỡ.
Cả triệu người khốn đốn mất nghề thất nghiệp lâm cảnh bần hàn;
Hàng vạn hộ lao đao hết gạo không tiền vướng vòng tử lộ.
Thảm họa khôn cùng, tai ương hiển hiện, vẫn cố xuê xoa bảo chút lỡ lầm;
Nguy cơ vô kể, bệnh tật tiềm tàng, mà cứ ất ơ cho là sự cố.
Quan rước tai ương vẫn cứ điềm nhiên thăng cấp, chẳng chút ăn năn;
Kẻ gây thảm họa còn được an hưởng nuông chiều, không hề khởi tố .
Họa tai “Vũng Áng” vẫn đằm đẵm bao trùm;
Mối hiểm “Hoa Sen” lại thập thò lấp ló.
Coi khinh sự khuyên can cảnh báo, miệng đại phú: ngu gì;
Bất chấp lời phản biện cản ngăn, gã đồng hao: ngoan cố.
Ôi! Giống nòi Việt sao quá thê lương;
Ôi! Đất nước Nam thật là khốn khổ.
Rõ họa vô đơn chí:
Một máy bay chiến đấu mất dạng lúc luyện ngoài khơi ;
Hai chiến sĩ phi công bung dù khi nghe tiếng nổ .
Phương tiện cứu nạn trên không hiện đại kiếm soi cả vùng;
Lực lượng săn tìm dưới biển tối tân lùng sục khắp xó.
Chim lạc biển Nghệ An;
Anh tìm khơi Bắc Bộ.
Nên mãi mụ mị mày mò
Rồi cứ loay hoay lỗ mỗ.
Thật xót đau phi đội săn tìm lại lâm nạn bạc phần;
Rõ bi thảm cánh chim cứu nạn cũng rụng rơi chung số.
Rốt cuộc chính nhân dân:
Cứu mạng thương binh lâm nạn, dù thuyền thúng nào ngại hiểm nguy;
Phát hiện liệt sĩ hy sinh, dẫu tay không chẳng cần hỗ trợ.
Dân vẫn mãi anh hùng;
Ai có hay xấu hổ.
Vào mùa mưa giông:
Vũ một cơn Tân Sơn Nhất đà lênh láng ao chuôm ;
Mưa một trận Thành Sài Gòn hóa mênh mông bể sở.
Chống ngập mãi, nay lụt khắp nơi ;
Chạy lụt hoài, giờ tìm đâu chỗ.
Người bì bõm vô kể ngán ngao;
Xe ngóp ngoi muôn vàn khốn khổ.
Thương khúc ruột miền Trung:
Giữa đêm dân Hà Tĩnh chạy trối, nước cuồn cuộn y hệt triều dâng;
Nửa khuya đập Hố Hô xả tràn, lũ ào ào tựa như thác đổ.
Thiên họa bởi Trời đổi tiết gây chỉ đôi phần;
Nhân tai do kẻ ác tâm nhân lên bội số.
“Đúng quy trình” hàng chục thủy điện hùa nhau mở xả, mặc dân chúng tiêu vong ;
Chẳng thông báo cả mấy tỉnh thành kiệt sức ngoi bơi, thây đồng bào khốn khổ.
Lũ chồng lũ xiết mấy của tan;
Người khóc người biết bao lệ đổ.
Táng tận thay:
Quan chức xã xà xẻo luôn của góp quyên;
Đầy tớ dân ăn chặn cả tiền cứu trợ.
Chuyện Bộ Công Thương:
Xí nghiệp mười năm đắp chiếu tan hoang;
Nhà máy nghìn tỷ đua nhau thua lỗ .
Nào xí nghiệp phân, rồi nhà máy sợi mặc tình lấy bạc ra thiêu;
Cả nhà máy giấy, cùng xí nghiệp cồn thỏa sức đem tiền đi đổ.
Bạc Nước xài tựa giấy bồi;
Tiền dân xem như rác cỏ.
Thấy bàng hoàng gấp mấy sấm giông;
Nghe kinh khiếp còn hơn bão tố.
Nợ xấu phình nở lút đầu ;
Nợ công dâng cao ngập cổ.
Nợ chí tử oằn cổ dân đen;
Nợ bẩm sinh lõm đầu con đỏ.
Lạm phát thây lạm phát, cứ tăng phí để bù;
Bội chi mặc bội chi, vẫn vung tay cho bõ.
Đoàn Thể họp hành ăn nhậu sạch sẽ két kho;
Ủy Ban tiếp khách liên hoan dầy cui sổ nợ.
Săn tìm chuột , chuột chạy sang Tây;
Soi kiếm sâu, sâu chui xuống lỗ
Kẻ đục moi giả khám bệnh, êm ả chân bay;
Kẻ phá hoại vờ chữa thương, âm thầm cánh vỗ.
Phê bình ông sếp cựu, ngặt quá chừng đồng chí hoang mang;
Cách chức lão quan hưu, nghiêm đến nỗi nhân dân bỡ ngỡ.
Diệt bọ sâu như bóng tầm bóng, nên cực khó trật trầy;
Chống tham nhũng là “ta đánh ta”, ắt vạn nan thách đố.
“Chuẩn cơ chế”, tỉnh tỉnh thành thành chia ghế cả dòng;
“Đúng quy trình”, đây đây đó đó làm quan cả họ.
Nhân viên độc một anh gánh việc cả phòng;
Lãnh đạo bốn mươi vị tranh chen một rọ.
Chẳng e dưới trông soi;
Không sợ trên dòm ngó.
Thế nên:
Bất minh trong mối giao lưu;
Mâu thuẫn trong việc phân bổ.
Cấp trên đè cấp dưới, đất Trấn Yên tung tóe máu phun;
Quan bé bắn quan to, tỉnh Yên Bái rền vang súng nổ.
Trách nhiệm vờ, xoa tay dẻo miệng, trơ trẽn câng câng;,
Lợi ích nhóm, chia bánh xẻ phần, thản nhiên lồ lộ.
Ngó qua Bộ Học:
Kẻ chức cao tự lộng xuất lệnh cấp dưới bưng rót rượu trà;
Cô giáo trẻ bị ép hầu bàn quan trên họp vui tiệc cỗ.
Nể nang chuốc lắm nỗi ê chề;
Say xỉn gây bao điều thất thố.
Giáo viên khôn cùng uất dạ ngán ngao;
Bộ trưởng chả hề đau “nòng” phẫn nộ.
Dâng hương cho học trò giỏi, rõ đúng bi hài;
Lộ tầm của lãnh đạo “cao”, quả là xấu hổ.
Mắc bệnh, ốm đau:
Đi bác sĩ, trăm sự lo teo;
Vào nhà thương, vạn điều chuốc khổ.
Mất cẳng cụt tay, bởi thầy lang kém cỏi, đành nín hờn tự nhủ đen phần;
Thiệt thân vong mạng, vì bác sĩ lơ là, cố nuốt hận âu do bạc số.
Vô cảm ư? Đâu tội của lãnh đạo, mụ mắng ngay thuộc cấp nhân viên.
Quá tải hả?Nào lỗi của bộ Y, bà xử liền giám đốc cơ sở .
Chết thì bó chiếu lẳng lặng mà về;
Thác cứ cột xe thong dong tự chở.
Xã hội ôi ngán ngao:
Suy đồi đạo đức muôn mặt, vì phép tắc tựa thể buông tuồng;
Ô nhiễm môi trường khắp nơi, bởi quản lý tuồng như bỏ ngỏ.
Nhồi thuốc cấm vật nuôi trò đoạt mạng khối kẻ giam tham;
Tẩm hóa chất thức ăn tội giết người chả ai khởi tố.
Thế nên cá tôm xuất khẩu, bạn hàng lắc đầu trả lui;
Để rồi lúa gạo chào sân, đối tác quay lưng chẳng ngó.
Khoác tiếng phơi bày sự thật, lại lừa thế đảo điên;
Mang danh bảo vệ tiêu dùng, mà hại người chết dở.
Nước mắm công nghiệp sém giành sân vì báo chí cùng quỷ bắt tay;
Nước mắm gia truyền suýt phá sản bởi truyền thông hóa ma ăn cỗ.
Cướp bóc cứ ngang nhiên;
Ma túy như thách đố.
Nạn tai thảm khốc từ nam chí bắc, rõ quả tang thương;
Chém giết hung tàn khắp đó cùng đây, thật là kinh sợ.
Bão bùng lắm đợt cố cấy cầy đành hết vốn đẫm suối châu rơi ;
Cháy nổ khắp nơi vui ca hát chợt thiệt thân trong vòng lửa đỏ.
Dự dựng xây xây hiện đại, nay tắc lối chả cách khai thông;
Quy quy hoạch hoạch cao tầm, giờ kẹt xe hết đường xoay sở.
Phi cảng đà bí lối vào;
Máy bay chả còn chỗ đỗ.
Mà khách sạn trơ mặt thi gan;
Cùng sân gôn ưỡn mình thách đố.
Xiết mấy tan hoang nát bét, chả áo mão nào rơi;
Bao nhiêu khốn khổ đau thương, cứ đầu dân mà đổ.
Mùa màng mất trắng, hàng ngàn hộ mong nhận hảo tâm ;
Hũ gạo trống huơ, mười chín tỉnh phải xin cứu trợ.
Tâu thưa Ngọc Đế:
Lòng nhân thế chất đến muôn vàn;
Chuyện trần gian kể còn vô số.
Xiết bao sự người thế van kêu;
Bấy nhiêu điều lệ thần chan đổ .
Nguyện dạ Trời xót thương;
Mong Ngọc Hoàng thấu tỏ.
Cho năm mới năm me mưa thuận gió hòa;
Cho mùa sau mùa tới trái sai quả rộ.
Thêm người tâm đức, cho Nước thoát nghèo;
Bớt kẻ tham tàn, để dân đỡ khổ.
Hạnh phúc trên quê Cha;
Thanh bình nơi đất Tổ.
Để muôn kẻ kẻ theo Kê gáy giòn;
Để chẳng ai ai như khỉ nhăn nhó.
Bái biệt Ngọc Hoàng;
Cạn dòng Táo Sớ.

Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm

Trần Hữu Dũng
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Khi mới từ nước ngoài trở về Việt Nam, không ít người có cảm giác lạ lẫm khi đọc báo thấy những trí thức khoa bảng luôn được kèm theo danh hiệu Giáo Sư (GS), Phó Giáo Sư (PGS), Tiến Sĩ (TS), và nhất là khi những danh hiệu này đi kèm nhau: GS TS, PGS TS.[1] Thậm chí, nhiều bạn đã có tiến sĩ, là giáo sư ở nước ngoài, cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi “được” gọi như vậy trên các phương tiện truyển thông đại chúng, không liên hệ gì đến học thuật, ở Việt Nam. Hơi ngượng, khá bối rối, nhưng rồi lại không dám yêu cầu báo chí không gọi là tiến sĩ vì như thế lại e bị hiểu lầm là lập dị, là “kênh kiệu ngược” (reverse snobbery)
Thực ra, so với vô số đại sự của quốc gia thì chuyện danh xưng này quả là “nhỏ như con thỏ”, nhưng nhân dịp Tết nhứt, xin có đôi dòng phiếm luận để giải khuây cho bạn đọc.
Bằng tiến sĩ chứng tỏ điều gì và để làm gì?[2]
Ai đã lấy PhD ở Mỹ đều biết rằng bằng cấp này chỉ là một cái vé vào cửa để được phỏng vấn khi đi xin việc ở các đại học, các viện nghiên cứu ở nước ngoài. Thế thôi. Theo nhà kinh tế nổi tiếng Michael Spence (Nobel 2001) thì bằng cấp (do một đại học có uy tín cấp) cốt yếu là một tờ giấy chứng nhận cho những người không có cách nào khác để chứng tỏ khả năng (trong đó có sự kiên trì) của mình. Spence giải thích: Một người có thực tài, ai nhìn cũng thấy ngay, thì không cần bằng cấp khi đi xin việc! Nói theo thuật ngữ kinh tế: Bằng cấp là một “tín hiệu cho thị trường”.
Tiến sĩ là một bằng cấp tối hậu (terminal degree) của hệ thống giáo dục hiện đại, nhưng nó chỉ là một (trong nhiều) chỉ dấu của trí thức. Và ngay khi là chỉ dấu như thế, nó cũng không là chỉ đấu tột bực. Ở các nước có một nền học thuật lâu đời, bằng tiến sĩ chỉ là một tấm vé để bước chân vào ngưỡng cửa của cộng đồng nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học. Nó không phải là “vinh quang” tối hậu của một sự nghiệp học thuật. Uy tín của một nhà nghiên cứu, của một giáo sư tùy thuộc hoàn toàn vào những thành tựu của người ấy sau khi đã có tiến sĩ (Einstein, chẳng hạn, không cần ai gọi mình là GS TS!). Thậm chí, một nhà khoa học xuất chúng, dù không có bằng tiến sĩ vẫn được xã hội nễ trọng hơn những người có tiến sĩ, nếu người ấy có một sự nghiệp học thuật tầm vóc.
Đi đâu cũng tự xưng, hay đòi người khác gọi mình là Giáo Sư Tiến Sĩ (dù là giáo sư tiến sĩ thật, không phải dỏm), không chỉ là làm dáng, phô trương, nhưng còn cho mình một cảm giác (thường) sai lầm về những thành tụu thật sự của bản thân, rằng mình hiện đã đạt đến tột đỉnh của học thuật, và khó tránh khỏi sự tự mãn đầy kiêu căng. Không gì “phản trí thức” hơn phong thái ấy.
Tự xưng và gọi nhau là GS TS thì có hại gì?
Nhiều người sẽ bảo, dù các cơ quan truyền thông có tâng bốc các giáo sư tiến sĩ, không bao giờ quên kèm theo học vị học hàm khi viết tên họ, thì có hại gì ai? Sao không xem đó như phản ảnh sự kính trọng “kẻ sĩ” của văn hóa Việt Nam? Vâng, nhìn từ một góc cạnh nhỏ hẹp thì quả việc này là không đáng kể so với những vấn đề trọng đại đất nước. Tuy nhiên, nó có thể liên hệ đến những hiện tượng khác làm suy giảm chất lượng đòi sống của chúng ta. Chẳng hạn như:
Bằng cách tung hô danh xưng GS, PGS, TS… các cơ quan truyền thông vô tình đơn điệu hóa thang trí thức học thuật, và từ đó, đến giá trị xã hội. Bởi, như đã nói, những học hàm, học vị này là chức vụ trong lãnh vực giáo dục, là một chỉ dấu của khả năng nghiên cứu. Chúng không nhất thiết có hàm ý nào về giá trị toàn diện của con người (mà phần chính, hiển nhiên, là đạo đức). Gắn kết học vị học hàm, mà không một đặc điểm nào khác, với danh tính một người là mặc nhiên đưa nó lên vị trí hàng đầu. Nói thẳng ra, theo ý người viết bài này, chính “thói quen” này của giới truyền thông đã giúp duy trì nạn “sính bằng cấp” trong xã hội Việt Nam.
Nạn sính bằng cấp, từ đó, sẽ có hậu quả dễ hiểu đến chất lượng tiến sĩ: Khi mà sự ham muốn bằng cấp không thể được thỏa mãn vì khả năng học tập và nghiên cứu của “đương sự” là “có hạn” thì tất nhiên sẽ sinh ra những tiến sĩ dỏm, những luận văn không đáng được gọi là luận văn. Báo chí đừng gọi họ là tiến sĩ nữa thì chất lượng tiến sĩ sẽ khá lên, vì lúc ấy chỉ những người thật sự có năng lực, có trí tuệ, đam mê nghiên cứu, giảng dạy… mới bỏ công dùi mài kinh sách trong một chương trình tiến sĩ, loại bỏ những “phần tử” “sinh ra không phải để theo đuổi học thuật” (mà trong một xã hội bình thường là hoàn toàn bình thường, không có gì để mặc cảm), chạy chọt lấy “tiến sĩ’ chỉ vì hám danh. Gạn lọc những phần tử “không thích hợp” này thì chất lượng tiền sĩ đương nhiên sẽ khá lên!
“Giải pháp”
Báo chí vô tình cũng là tòng phạm trong hiện tượng này. Vì thói quen, hay để “tâng bốc” đương sự, báo chí ít khi quên gọi một giáo sư tiến sĩ là GS/PGS TS. Bởi vậy, tôi nghĩ, các giáo sư tiến sĩ khi được phòng vấn, hãy nói thẳng với phóng viên là không cần để là GS TS trước tên ông/bà. 
Song, phải nhìn nhận, đây là một tập quán khó thay đổi. Nếu một cá nhân muốn như thế và yêu cầu người phỏng vấn mình làm như thế thì cũng chưa chắc nhà báo sẽ nghe theo, vì nhà báo cũng muốn được hãnh diện là họ phỏng vấn một vị “giáo sư, tiến sĩ” chứ không phải “thường dân”!
Vậy, có vài đề nghị:
(1) Nếu người ấy có hiện giữ một chức vụ khác (Bộ trưởng, Chủ tịch…) thì chỉ nên dùng những chức vụ hiện tại, không cần phải thêm là GS TS gì cả.
(2) GS, hoặc TS là đủ, không cần gọi cả hai (GS TS). Ở các quốc gia có những danh hiệu này lâu đời, hầu hết giáo sư đều có tiến sĩ, gọi GS TS là thừa. Nên để ý rằng tiến sĩ có thể không là giáo sư (chẳng hạn như những nhà khoa học làm việc trong các viện nghiên cứu)
(3) Chỉ tự xưng là giáo sư hay tiến sĩ trong những hoàn cảnh mà danh hiệu ấy chuyển tải một thông tin có ich cho người đọc/nghe, và nếu người đối thoại không biết thông tin ấy.[3] Theo tôi, chỉ nên gọi giáo sư (hoặc tiến sĩ, không cần cả hai) trong khuôn viên đại học, viện nghiên cứu, hoặc trong các hội nghị, hội thảo khoa hoc.
Tôn vinh những người có đạo đức, thực tâm, thực tài là một điều xã hội nên làm. Nhưng để tôn vinh những người xứng đáng, và với sự trân quý thật lòng, xã hội không nên dừng lại ở danh hiệu tiến sĩ mà phải chịu khó tìm biết xem người ấy có những công trình nghiên cứu, những đóng góp khoa học nào, dạy ở trường nào, bao nhiêu năm… và thể hiện sự nễ trọng (nếu thấy họ xứng đáng) bằng cách nghiêm túc lắng nghe ý kiến của họ, đọc những gì họ viết. Dù rằng việc kiểm chứng ấy sẽ không dễ đối với đa số không quen thuộc với môi trường học thuật (nhưng lắm khi Google vài phút là biết ngay!), song đó cũng là một cách nâng cao kiến thức của mọi người. Một trí thức đích thực sẽ vô cùng cảm kích khi đối thoại với một người quan tâm đến nghiên cứu của mình, được nghe những câu hỏi phản ảnh một sự hiểu biết về công việc và những thành tựu của trí thức ấy. Đó là cách tốt nhất để tôn vinh “tiến sĩ”!
_____
[1] Nhiều quốc gia khác, như Nga, Đức, cũng có phong tục này, nhưng tôi không biết nhiều về bối cảnh xã hội và truyền thống lịch sử của họ nên chỉ xin nói về trường hợp Việt Nam. Đèn nhà ai nấy sáng!
[2] Xin nói rõ, đây là nói về bằng tiến sĩ “thật”. Dường như vấn nạn tiến sĩ dỏm, tiến sĩ kém chất lượng, cũng rất trầm trọng ở Việt Nam, nhưng đó là một vấn đề khác.
[3] Ví dụ, nếu trên máy bay có một hành khách ngả bệnh, và nếu bạn là bác sĩ, thì bạn có quyền (đúng ra là bổn phận!) hô lớn: Tôi là bác sĩ! Nhưng bạn không cần phô trương học hàm học vị của bạn với người bán cà phê chẳng hạn!

19 tháng 1, 2017

Ông Nguyễn Phú Trọng quyết tâm ‘Hán hoá’ đội ngũ lãnh đạo Việt Nam?

Lê Anh Hùng
TBT Nguyễn Phú Trọng, CTN Trung Quốc Tập Cận Bình cùng phái đoàn hai nước dự tiệc trà ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Ảnh: Tin tức/ TTXVN
Từ đào tạo cán bộ đến đào tạo cán bộ cấp cao
Lãnh đạo quốc gia thường là người ghi dấu ấn lớn nhất, thậm chí trong nhiều trường hợp là quyết định, đến tiến trình đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không phải là ngoại lệ. Chính vì vậy, chuyến thăm Trung Quốc của nhà lãnh đạo số 1 Việt Nam từ ngày 12 – 15/1/2017 đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng bộc lộ cuồng vọng bá quyền, thách thức ngôi vị bá chủ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, còn cường quốc số 1 thế giới này thì sắp sửa chứng kiến cuộc chuyển giao quyền lực giữa Tổng thống Barack Obama và người kế nhiệm Donald Trump.
Mặc dù mới chỉ làm Tổng Bí thư 6 năm, nhưng chuyến thăm Trung Quốc lần này của ông Nguyễn Phú Trọng đã là chuyến thứ ba trên cương vị đó. Chừng ấy đủ cho thấy mức độ thần phục của ông ta đối với thiên triều trong mắt công chúng. Hai lần thăm Trung Quốc trước của ông Nguyễn Phú Trọng là vào tháng 10/2011 và tháng 4/2015, với kết quả là hai bản Tuyên bố chung Việt – Trung vô cùng tai hại, đẩy nước nhà ngày càng rơi vào vòng kiềm toả của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, chừng ấy xem ra vẫn chưa đủ nên lần này quyết tâm của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc biến Việt Nam thành “một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc” lại càng mãnh liệt hơn. Điều đó thể hiện qua các văn kiện hợp tác được ký kết giữa hai bên trong chuyến thăm này. Trong số 15 văn kiện hợp tác thì văn kiện đầu tiên là “Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc”, cùng hàng loạt văn kiện nguy hại khác như “Công thư trao đổi về việc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng” hay “Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025”, v.v.
Trong bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 11 – 15/10/2011, việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai bên chỉ được ghi chung chung là “mở rộng và đi sâu hợp tác đào tạo cán bộ Đảng, chính quyền” và “tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ [giữa hai Bộ Quốc phòng]”.
Bản Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 7 – 10/4/2015 cũng ghi chung chung là “đi sâu hợp tác về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ Đảng và chính quyền” và “tăng cường hợp tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ [giữa hai Bộ Quốc phòng]”.
Ngày 5/11/2015, tại Trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư/Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chứng kiến lễ ký kết nhiều văn bản, thoả thuận hợp tác giữa hai bên, trong đó có “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016 – 2020”.
Trong bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc ngày 14/9/2016 nhân chuyến thăm cấp nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến Trung Quốc có nội dung “thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng (2016 – 2020)” mà hai bên đã ký kết ngày 5/11/2015.
Như vậy, dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đi từ những chỉ đạo chung chung tháng 10/2011 và tháng 4/2015, đến “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc giai đoạn 2016-2020” tháng 11/2015, và cuối cùng là “Thoả thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao” tháng 1/2017.
Thỏa thuận hợp tác đào tạo năm 2017 khác với kế hoạch hợp tác đào tạo năm 2015. Tức là, những cán bộ Việt Nam được đưa sang Trung Quốc đào tạo theo thoả thuận hợp tác mới nhất này thuộc diện cán bộ cấp cao, hoặc là cán bộ nguồn cho những vị trí chủ chốt trong bộ máy.
Bàn tay lông lá của tình báo Hoa Nam
Cựu tù nhân lương tâm Phạm Văn Trội là người bị bắt ngày 11/9/2008 và bị Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội kết tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự ngày 8/10/2009 với bản án bốn năm tù giam, bốn năm quản chế. Thời gian bị giam ở trại giam Nam Hà, anh được tiếp xúc với rất nhiều tù nhân phạm tội làm gián điệp cho Trung Quốc bị giam giữ ở đây. Thành phần làm gián điệp cho Trung Quốc rất đa dạng, có người là bộ đội biên phòng, có người làm trong ngành hải quan, có người là gián điệp của Việt Nam đánh sang Trung Quốc nhưng bị phát hiện rồi quay sang làm gián điệp cho địch, có người hoạt động kinh doanh, v.v. Đặc biệt nhất trong số tù nhân này là Phạm Minh Đức, sinh năm 1957, quê quán Hà Nội, từng là Phó ban Tổ chức Trung ương Đảng. Với sự can thiệp từ phía Trung Quốc, ông ta chỉ phải nhận bản án 5 năm tù dù là “gián điệp loại 1”.
Tìm hiểu từ các đối tượng từng làm gián điệp cho Trung Quốc, anh Phạm Văn Trội cho biết: “Từ năm 1993 đến 2008 có 632 đoàn cán bộ Việt Nam sang Trung Quốc học tập mô hình ‘chủ nghĩa xã hội mang mầu sắc Trung Quốc’. Mỗi đoàn khoảng 20 đến 30 người, từ các ngành như quân đội, công an, hành chính, y tế, giáo dục, đặc biệt là hải quan, v.v. Tuần đầu sang Trung Quốc, họ được đưa đi thăm thú các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Quốc. Sau đó, người của Cục Tình báo Hoa Nam dưới những vỏ bọc khác nhau sẽ tham gia đào tạo họ. Ngày thì học tập, tối thì mỗi cán bộ Việt Nam ở một phòng VIP và có mỹ nữ phục vụ. Dĩ nhiên, họ sẽ bị ghi hình lén để rồi rơi vào vòng khống chế của Trung Quốc lúc nào không hay. Chương trình đi học tập này do Ban Tổ chức Trung ương tổ chức. Khi về nước, thông qua bàn tay chỉ đạo của Bắc Kinh, họ sẽ được đề bạt vào các chức vụ rồi dần dần vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt. Đây là một hình thức cài cắm người của Tình báo Hoa Nam.”
Với bản chất “thâm như Tàu”, không cần phải nói thì ai cũng biết Trung Quốc là “bậc thầy” trong việc dụ dỗ, mua chuộc, gài bẫy… đối tượng, hoặc thậm chí là lung lạc, đe doạ đối tượng khiến họ đi đến chỗ bị thu phục.
Nguy cơ đội ngũ lãnh đạo cấp cao bị ‘Hán hoá’
Việc cử cán bộ sang Trung Quốc để được họ “đào tạo” rõ ràng là rất nguy hiểm, tiềm ẩn những hệ lụy khôn lường không chỉ về chính trị mà đặc biệt là về an ninh quốc gia. Trong trường hợp những người được “đào tạo” là cán bộ cấp cao thì mức độ nguy hiểm lại càng lớn.
Việt Nam thì không thể “đào tạo cán bộ cấp cao” cho Trung Quốc được – đó là điều không cần phải bàn cãi. Vì vậy, thông qua văn kiện “hợp tác đào tạo” mới được ký kết ngày 12/1 vừa qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Việt Nam sẽ dần dần bị Trung Quốc kiểm soát, khống chế và thao túng, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mưu đồ thôn tính Việt Nam của Bắc Kinh.
Với quyết tâm “Hán hoá” đội ngũ cán bộ lãnh đạo từ thấp đến cao như vậy, lịch sử rồi đây sẽ “vinh danh” ông Nguyễn Phú Trọng như thế nào?

THỜI ĐIỂM CHÍN MÙI ĐÁNH GIÁ LẠI CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ

FB Huỳnh Ngọc Chênh
TBT Nguyễn Phú Trọng và CTN Tập Cận Bình gia tăng mối quan hệ lên tầm cao mới. Nguồn: internet
Chưa bao giờ Việt Nam lại được gắn chặt vào quốc gia to lớn phương Bắc như ngày hôm nay. 15 văn kiện được ký kết tại Bắc Kinh vào những ngày đầu năm 2017, đã mở ra một chương mới trong quan hệ gắn bó thân thiết giữa hai quốc gia vốn có truyền thống thù địch lâu đời. 
Hai bên, bằng sách lược hòa bình khôn khéo, đã đạt được những gì mà các thế hệ tiền nhân Trung Hoa hằng khát khao, dù đã từng đổ ra rất nhiều xương máu nhưng vẫn thất bại ê chề. 
Thời điểm đã chín mùi cho những nhà viết sử của đảng viết lại lịch sử và đánh giá lại những nhân vật lịch sử.
Các bậc tiền nhân như Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Lê Chiêu Thống… có công trạng lớn trong việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, gắn bó, thân thiện, hòa bình và hữu nghị Việt -Trung cần phải được đánh giá lại đúng mức.
Những người cực đoan dân tộc chủ nghĩa, kích động thù hằn, gây chia rẽ và đưa đến chiến tranh đổ máu vô ích giữa hai dân tộc anh em, mà lâu nay vẫn được xem là anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Lê Lợi, Quang Trung… cần phải được đánh giá lại cho đúng. 
Ngay cả nhân vật lịch sử gần đây dù là lãnh đạo của đảng như Lê Duẩn, Hoàng Văn Hoan cũng cần đánh giá và xem xét lại ai có công, ai có tội.
Trong chiều hướng đó, đánh giá đúng lại công trạng các bậc tiền nhân sau đây là điều đương nhiên, là tất yếu lịch sử, là mệnh lệnh con tim của người viết sử đương đại: Nhâm Diên, Tích Quang, Tô Định, Mã Viện, Hoằng Thao, Thoát Hoan, Ô Mã Nhi, Toa Đô, Vương Thông, Liễu Thăng, Sầm Nghi Đống, Tôn Sĩ Nghị…
Trên cơ sở đánh giá lại một cách khoa học và công bằng dưới ánh sáng thông cáo chung vừa được lãnh đạo cao nhất của hai đảng ký kết, việc quy hoạch lại hệ thống tên đường là điều không thể không nghĩ đến. Các thành phố trong cả nước xem xét lại qũy tên đường để chuẩn bị loại bỏ những tên đường bất hợp lý, thay bằng các tên hợp lý hơn.

Nâng cao quan trí

Từ khi chuyển từ Sài Gòn ra Hà Nội sống đến nay, thành tích duy nhất tôi thấy Hà Nội đã vượt xa Sài Gòn là về vấn đề kẹt xe. Sài Gòn hiện vẫn kẹt xe hai lần mỗi ngày vào giờ đi làm và tan tầm. Trong khi đó, Hà Nội chỉ kẹt xe một lần trong ngày, từ sáng đến tối. 
Khi tư duy của giới chức bế tắc thì kẹt đường là điều đương nhiên. Quan trí bất lực, chính quyền Hà Nội đã phải cậy nhờ dân trí bằng cách treo thưởng tới 300.000 USD để tìm ý tưởng giải quyết tình trạng tắc đường. 
Trong khi đó, người dân đã nhanh nhảu chuyền từ đường bộ sang đường hàng không. Vì thế, lượng hành khách hiện đã vượt tới 30% so với công suất thiết kế. Ở sân bay Tân Sơn Nhất, máy bay thường xuyên không có chỗ đậu. Thậm chí hôm nay, cảnh ùn tắc đã xảy ra ở cả dưới dất lẫn trên trời. 
Bộ trưởng Bộ Giao thông Trương Quang Nghĩa cho rằng, “hàng không đang vét hết khách của ngành đường sắt”. Giải pháp cho câu chuyện tắc cả trên trời là phân phối bớt tăng trưởng của ngành hàng không cho ngành đường sắt. 
Tiên đoán được tư duy rất đậm màu sắc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Bộ trưởng giao thông mới, Công ty vận tải Hà Nội đã đi tắt đón đầu, lặn lội sang tận Trung Quốc, định mua 160 toa tàu cũ, trong đó có toa dày dạn kinh nghiêm với tuổi thọ tới 20 năm. Đáng tiếc, kinh nghiệm không chào đón nên tổng giám đốc Công ty đường sắt Hà Nội bị cách chức. 
Công ty đường sắt Hà Nội còn có phó tổng giám đốc là ông Trần Anh Tú. Khi được báo chí hỏi về trách nhiệm của mình khi phụ trách dự án xe buýt nhanh của Hà Nội có nguy cơ vỡ trận, ông Tú nói: “Không hiệu quả không phải việc của chúng mày”; “Ùn tắc không phải việc của chúng mày”… 
Lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước phát ngôn như vậy cũng chẳng sao, có lẽ chuyện này đã thành bình thường… Nhưng con trẻ mắc lỗi thì tuyệt không thể coi là bình thường. Bằng chứng là nhóm học sinh ở Huế đã phải cúi đầu xin lỗi vì phát tán một clip trào phúng về kỳ thi THPT quốc gia năm 2016, mà vẫn bị ông Phạm Văn Hùng, giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Thừa Thiến Huế ra văn bản gửi cơ quan công an đề nghị vào cuộc. 
Qua điều tra đã phát hiện quán cafe Xin chào kinh doanh không phép, công an TP.HCM đã đề nghị khởi tố vụ án hình sự. 
Tại Cao Bằng, xây dựng chuồng gà cũng phải xin phép. Trước phản ứng của dư luận, chính quyền TP Cao Bằng đã phải lùa cả lực lượng quan chức liên ngành vào họp bàn, phân tích, tìm hướng giải quyết chuyện cái chuồng gà. 
Họp mải miết. Họp nhiều đến mức các đại biểu Quốc hội mờ mắt không phân biệt được đúng sai, dẫn đến bấm nút thông qua Bộ luật hình sự sửa đổi mà không biết có tới 90 lỗi sai. Sai thì phải họp tiếp, sửa tiếp và lùi thời điểm Bộ luật có hiệu lực sang 2017. 
Những chuyện này xảy ra trong năm 2016. Ngày cuối năm chợt nhớ một người có cái đầu hói rất uyên bác, đó là nguyên chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Nhớ năm xưa ông đã nói: “Sai thì phải sửa sai. Làm 10 việc tốt thì cũng có 1 việc sai. Nếu cứ cách chức hết thì lấy ai làm việc”. 
Tôi rất đồng ý, cách chức lấy ai làm việc. Tuy nhiên, cần có giải pháp điều trị triệt để bệnh tư duy phi thị trường hết sức ngô nghê, hành động hồ đồ của một bộ phận không nhỏ giới chức. 
Giải pháp nâng cao quan trí, theo tôi vô cùng đơn giản, chỉ cần yêu cầu họ sử dụng viên uống CumarGold hàng ngày. Sản phẩm này có chứa các chất chống oxy hoá, chống lão hoá mạnh, hạn chế sự lão hoá của các cơ quan trong cơ thể, phù hợp với những người đang trị các bệnh về thần kinh như thoái hoá thần kinh, sa sút trí tuệ. Uống CumarGold sẽ giúp họ minh mẫn hơn, sáng suốt hơn. 
Chưa kể nữa, CumarGold đã được nhiều người bệnh viêm loét dạ dày, tá tràng khen ngợi có hiệu quả rõ rệt. Các lãnh đạo làm việc vất vả, tiếp khách nhiều, rượu bia nhiều, sử dụng sản phẩm này là phù hợp.

Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa?

Ảnh chụp các bài báo Chính Luận về trận Hải chiến Hoàng Sa. Nguồn: internet 
Hải chiến Hoàng Sa, mới đó mà đã 43 năm, và đây cũng là khoảng thời gian chúng ta mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc. 
Ông Vũ Đức Đam từng nói, nếu đời này chúng ta không đòi được Hoàng Sa và một phần Trường Sa thì đời con cháu chúng ta sẽ đòi. Nhưng, con cháu chúng ta có cơ hội để đòi lại hay không khi mà hiện nay chúng ta vẫn cứ im lặng, vẫn nhẫn nhục nhìn Trung Quốc dùng chiến dịch “tằm ăn dâu” trên biển Đông khi họ khẳng định chủ quyền với những vùng đảo đã chiếm bất hợp pháp và biến các vùng không tranh chấp thành tranh chấp. 
Theo luật quốc tế, nếu quốc gia nào chiếm đóng 1 đảo mà không quốc gia nào lên tiếng thì sau 50 năm LHQ sẽ thừa nhận đảo đó thuộc sở hữu của quốc gia chiếm đóng. 
Hoàng Sa mất vào tay Trung Cộng đã 43 năm, và theo phát ngôn của Wang Hanling (Vương Hàn Lĩnh), học giả Trung Quốc, quan điểm của Trung Quốc là: 
“Không có gì để đàm phán cả… Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc chưa bao giờ là đề tài tranh chấp và Việt Nam đã thừa nhận điều này trong quá khứ. Thảo luận về nỗ lực hợp tác bảo vệ tài nguyên, tìm kiếm cứu nạn và các việc khác là một chuyện, chủ quyền của Trung Quốc là một chuyện khác”. 
Lập trường của Trung Quốc về Hoàng Sa không thể nào dứt khoát hay rõ ràng hơn: Hoàng Sa là của Trung Quốc. Họ còn ngang ngược đề nghị Việt Nam “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Trường Sa, ở khu vực biển đảo của Việt Nam. 
Vậy chúng ta không lên tiếng đòi biển đảo, không kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế thì con cháu chúng ta có cơ hội để đòi lại không khi mà cột mốc 50 năm chỉ còn có 7 năm nữa? 
Trung Quốc từ nghìn đời nay đã thèm muốn Việt Nam ta, cái họ cần chính là sự khuất phục của chúng ta để họ tự tung tự tác trên biển đông và mặc sức khai thác chúng. 
Đáng lý nên có hành động cứng rắn với Trung Quốc thì chúng ta lại mềm mỏng một cách khác thường, đáng ra việc phải làm là đòi lại một phần lãnh thổ cho con cháu thì chúng ta lại thoái thác để sau này chúng tự đòi lại. Trong khi thứ đáng để lại nhất cho chúng là tài nguyên thì chúng ta khai thác đến cạn kiệt, con cháu chúng ta sẽ nhận được gì ngoài một đống bùi nhùi và sự đớn hèn mà cha ông chúng để lại đây. 
Suy cho cùng, chúng ta chẳng phải là nạn nhân mà chúng ta chính là đồng phạm, sự im lặng của tất cả chúng ta chính là tội ác lớn nhất và, hậu quả là con cháu chúng ta sẽ thấy hổ thẹn hay thậm chí là nhục nhã khi nói về cha ông chúng sau này.

TIẾNG NÓI TỪ MỘ ĐỨC VỀ NHÂN VẬT PHẠM VĂN ĐỒNG

Đỗ Mai Lộc
Công hàm 1958 do ông Phạm Văn Đồng ký. Nguồn: internet
Cứ đến ngày 19 tháng 1 hàng năm, mặc dù nỗi lo cơm áo gạo tiền để sum họp gia đình vào những ngày Tết cổ truyền cận kề; nhiều người Việt trong, ngoài nước có cảm giác hụt hẫng, mất mát một điều thiêng liêng lắm, không thể dùng đồng hồ đếm ngược để biết khi nào thì có lại. Đó là nhớ đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa – sự kiện gắn liền với nhân vật lịch sử: cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và công hàm 14/9/1958.
Và, đây là tâm sự của một người sinh ra từ Mộ Đức.
Tôi xin tự giới thiệu: Tôi sinh ra, lớn lên trên quê hương Mộ Đức của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, được đào tạo liên tục từ tiểu học lên đại học một cách chính quy dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Về mặt gia đình tôi gọi ông Đồng bằng ông, trong họ tôi cũng có người hoạt động bí mật cùng thời với ông Đồng rồi bị Pháp bắt và sát hại từ những năm 1930.
Tôi không có ý khoe khoang nhưng tôi muốn nói rằng: không có lý do gì mà bản thân tôi lại không tự hào và kính trọng ông Phạm Văn Đồng.
Đúng là thế hệ chúng tôi đã từng rất tự hào là quê hương đã sinh ra một người con ưu tú. Một sự tự hào đã được giáo dục nhồi nhét để trở thành “bản năng”, như là một “phản xạ không điều kiện”, đến nỗi trong tất cả các bài tập làm văn chúng tôi đều phải cố lồng vào những câu đại loại: “tự hào là một học sinh dưới mái trường XHCN, tự hào được sống trong thời đại Hồ Chí Minh, tự hào quê hương đã sinh ra Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”, .v.v…
Nhận thức về sự kính trọng và tự hào cũng được đúc ra từ những khuôn mẫu có sẵn, làm hành trang để chúng tôi tiếp tục vào đại học rồi ra trường tham gia guồng máy quản lý nhà nước. Rồi cũng đến lúc chúng tôi cần tìm hiểu về những gì mình đã từng tự hào kính trọng. Chẳng hạn, cái gọi là mái trường XHCN mà chúng tôi ca ngợi cho đến bây giờ như thế nào vẫn chưa định hình được. Ngày xưa học dưới mái trường XHCN còn bây giờ đang “định hướng” XHCN nhưng lại được đánh giá là xã hội phát triển, có nghĩa là càng đi xa CNXH thì xã hội càng phát triển. Chính vì sự “kính trọng và tự hào trong khuôn mẫu” mà vẫn cứ kiên định con đường XHCN vô vọng!
Về ông Hồ Chí Minh thì nhiều người đã nói rồi, tôi chỉ có thể ghi thêm lời dân gian quê chúng tôi ta thán: “Sống dưới triều đại Cha Hồ (1)/Làm con thì được, làm người thì không.”
Là người dân Mộ Đức, tôi nói về ông Đồng – hơn 30 năm làm Thủ tướng, ông đã làm được gì cho đất nước, quê hương. Tỉnh Quảng Ngãi nói chung, huyện Mộ Đức nói riêng cứ có dịp là tự sướng lên ông là “nhà nọ, nhà kia” vĩ đại, lỗi lạc tầm cỡ thế giới, chỉ sau bác Hồ.
Gọi ông là một nhà ngoại giao, một nhà chính trị tài ba đã giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là không đúng, bởi vì cuộc chiến tranh này có thể tránh được. Vả lại “thắng” nhưng không có “lợi”, những người Mỹ, chính sách Mỹ mà ông chống, bây giờ được mời quay lại Việt Nam. Cũng không có “nhà ngoại giao tài ba” nào lại ký công hàm công nhận lãnh thổ của mình cho quốc gia khác.
Nếu gọi ông là một nhà kinh tế cũng không sai trong mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp; lúc có một nửa đất nước ở miền Bắc, ông không đưa ra được quốc sách nào có tính vĩ mô để tăng trưởng kinh tế, ngoài chính sách “tiết kiệm” để tích lũy, kiểu như “hạt gạo cắn làm hai, làm ba”. Còn sau tháng 4/1975 với chính sách hợp tác xã nông nghiệp và di dân đi kinh tế mới, ông đã bần cùng hóa cả miền Nam, vốn trước đó là một nước mạnh trong khu vực Đông Nam Á, được phương Tây gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”.
Nói ông là một nhà lý luận, một nhà văn hóa cũng không ổn. Ông có câu nói với thanh niên, học sinh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa” nhưng ông lại vòng vo về cái CNXH và con người XHCN. Con người mới khác con người cũ cái gì? Kiểu như “con gà, cái trứng” hay chính sách “có hộ khẩu mới có việc làm, có việc làm mới cho nhập khẩu” dưới thời của ông. Còn về văn hóa thì hình như ông hơi thiếu vốn tiếng Việt nên thường dùng đệm tiếng Pháp trong văn nói. Những người nghe ông nói, dù không hiểu, nhưng vẫn cứ vỗ tay để bộc lộ kính trọng sự uyên thâm của người luôn đề cao “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
Người dân Mộ Đức “kính trọng” ông lắm! Tôi xin kể một số giai thoại về ông Đồng ở quê hương Mộ Đức:
Thời kỳ còn hợp tác xã nông nghiệp, mỗi lần ông về quê là dân Mộ Đức tới khổ. Trước khi ông về là chính quyền tập trung “ngụy quân, ngụy quyền” (2) lên núi để học tập cải tạo cho đến khi nào ông đi mới được thả về.
Trên tuyến đường ông qua, hai bên đường được bón rất nhiều phân urê (đạm), lúa xanh đậm thấy rất đẹp mắt. Ông khen địa phương làm ăn giỏi, chẳng mấy chốc nữa sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Đến khi ông đi rồi, thì chỗ phân nhiều cây lúa bị cháy vàng, chỗ thiếu phân còm cõi không trổ bông nổi. Do đó mỗi lần ông về quê, một ngày công của xã viên may mắn lắm được 4 lạng lúa (0,4 kg), thậm chí có những hợp tác xã vùng bán sơn địa chỉ có 2 lạng lúa/ ngày công (10 điểm)!
Năm nọ, các xã ven biển ở Mộ Đức như Đức Lợi, Đức Minh, Đức Phong có con cá ông (dân biển gọi cá voi là cá ông, cá bà) cứ bơi lởn vởn ngoài biển ngang làm ghe tàu nhỏ của ngư dân không dám ra biển đánh cá; còn ở xã miền núi Đức Phú, Đức Hòa thì đêm đêm nhiều bầy heo rừng ra phá hoại hoa màu của dân, chính quyền địa phương bất lực. Gặp lúc ông Đồng về quê, sáng nghe báo cáo tình hình địa phương xong, ông xuống biển chờ cho cá ông nổi lên ông nói với đoàn cán bộ tháp tùng “Yêu cầu các đồng chí kết nạp cá thành xã viên hợp tác xã”. Con cá ông mới nghe “vào hợp tác xã” thế lặn tuốt ra biển. Chiều đến, ông lên núi xem heo rừng phá hoại hoa màu. Ông cũng nói với cán bộ địa phương cho chúng vào hợp tác xã là chúng sẽ thuần hết, nhưng cán bộ nói: “thưa bác, chúng nó đã vào hợp tác xã lâu rồi, chúng cũng làm ăn tập thể đàng hoàng, lúc nào xuống phá hoa màu cũng đi cả bầy từ vài ba chục con trở lên”. Ông bảo đảng ủy xã: “Vậy thì lập danh sách cho chúng đi kinh tế mới!”. Nghe đến “đi kinh tế mới”, kể từ tối hôm ấy, các xã miền núi không còn con heo rừng nào dám ra phá nữa.
Về quê ông thường ở nhà khách của tỉnh, có lần ông tới thăm nhà chị ruột là bà Thừa Xuân, có mảnh vườn trồng rau để ăn và để bán. Hồi đó tiền có giá, ông nghe người ta mua bán nhau nắm rau, quả cà, cứ nói “một đồng, hai đồng”, ông giận lắm vì bị mấy bà hàng xén ở chợ gọi tên huý ra. Sau đó ông về Hà Nội và quyết định “nâng” tiền Việt Nam, để từ đó người ta không kêu “một đồng, hai đồng” nữa mà chuyển qua “một ngàn, hai ngàn” cho đến bây giờ.
Sự kính trọng của người dân Mộ Đức đối với ông Đồng là như thế đó.
Còn sự tự hào thì sao? Sau khi biết được ngày 14/9/1958 ông Phạm Văn Đồng ký công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc thì người dân Mộ Đức, những thế hệ học sinh trên chính quê hương và ngôi trường mang tên ông cũng cảm thấy nhục nhã. Cuộc đời con người hay chế độ chính trị có thể có nhiều sai lầm, nhưng bán đất, bán nước cho ngoại bang thì là sai lầm không thể tha thứ được. “Noi gương” ông, là Trần Đức Lương – người được ông đào tạo, nâng đỡ, với tư cách là Chủ tịch nước đã tham gia ký hiệp định đường biên trên bộ và trên biển tiếp tục nhượng đất và biển cho Trung Quốc.
Rồi đây, lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ ghi:
– Ông Phạm Văn Đồng quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, với tư cách là Thủ tướng Chính phủ, ngày 14/9/1958 đã ký công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
– Ông Trần Đức Lương quê ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, với tư cách là Chủ tịch nước, ngày 30/12/1999 đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền nhượng cho Trung Quốc hàng ngàn cây số vuông, tiếp đến ngày 25/12/2000 đã ký Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ tiếp tục nhượng hàng chục ngàn cây số vuông mặt biển cho Trung Quốc.
Vậy là Quảng Ngãi có hai tội đồ cùng tham gia bán nước dưới triều đại Hồ Chí Minh.
Nhân dân Mộ Đức, Quảng Ngãi có thể có sự kính trọng, tự hào được không?
Không, hoàn toàn không! Ngay cả chính con cháu trong tộc họ Phạm không ai dám ngẩng cao đầu để tự hào là con cháu ông Phạm Văn Đồng. Họ cũng biết rằng, Nguyễn Thân, quê ở Thạch Trụ, vùng giáp ranh giữa Mộ Đức (quê ông Đồng) và Đức Phổ (quê ông Lương), là đại thần triều Nguyễn, câu kết với thực dân Pháp chống phá phong trào Cần Vương, tiêu diệt nghĩa quân Phan Đình Phùng, sau năm 1945 đã bị Việt Minh cho đào phá toàn bộ mồ mả, nhà cửa. Có lẽ vì vậy mà cộng sản không đưa ông Phạm văn Đồng về chôn ở quê nhà, còn ông Trần Đức Lương khi hết làm Chủ tịch nước cũng không về Quảng Ngãi, đã chọn chỗ hậu sự không ở quê hương.
Kể ra thì ông Đồng cũng biết sám hối, khi cuộc đời đã xế chiều sống trong bóng tối của sự mù lòa và của xã hội ông tham gia tạo nên; vị thủ tướng ba phải, hiền lành đến nhu nhược, đã có câu nói trứ danh “Không ai làm thủ tướng lâu như tôi và cũng không ai làm khổ dân nhiều hơn tôi!” – có lẽ đó là câu nói duy nhất đúng trong cuộc đời của ông.
Không những ông làm khổ dân lúc còn sống, mà ông còn làm khổ dân khi đã chết. Biết bao giờ nhân dân Việt Nam mới lấy lại được Trường Sa, Hoàng Sa, trong khi Trung Cộng cứ đưa công hàm của ông ra để biện minh cho hành động xâm lược? Còn người dân Quảng Ngãi vẫn tiếp tục è cổ ra nộp thuế để xây lăng mộ cho dòng họ Phạm, xây bảo tàng, nhà tưởng niệm mang tên ông.
Ngày 1/9/2008 Quảng Ngãi đã khánh thành “Khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng”; theo thông báo chính thức từ chính quyền, tổng kinh phí hơn 46 tỉ đồng, trong đó phần xây lắp hơn 20 tỉ, trên diện tích hơn 2 ha (giá đất là 1,3 triệu/m2, trị giá đất khoảng 26 tỉ).
Bốn mươi sáu tỉ kia có thể làm được những gì cho nhân dân Mộ Đức, Quảng Ngãi? Tính theo thời giá thì xin thưa:
– Xây dựng 3.067 ngôi nhà cho người nghèo;
– Tạo điều kiện cho 115.000 trẻ em nghèo có điều kiện mua sách vở đến trường trong năm học mới;
– Là tiền thuế của 144.230 người dân Mộ Đức trong 2 năm (thu ngân sách năm 2008 của huyện là 23,1 tỉ đồng)
à chưa tính đến các chi phí khánh thành, duy tu, lễ nghi, chi lương cho nhiều người trông coi, bảo vệ.
Đến năm 2016 lại tiếp tục khánh thành giai đoạn 2, với quy mô diện tích xây dựng mới thêm trên 33.800m2 với tổng kinh phí 36 tỷ đồng. 
Một người con của quê hương núi Ấn sông Trà, nhưng chết rỗi vẫn còn làm khổ nhân dân Quảng Ngãi, có phải vì ông là đảng viên cộng sản, học trò của Hồ Chí Minh không? Trong khi cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hòa, yên nghỉ trên núi Ấn lộng gió, ngôi mộ đơn giản được xây dựng từ thời ông Ngô Đình Diệm, khách trong ngoài nước, đủ mọi thành phần viếng thăm đều thể hiện lòng tôn kính.
Nguồn ảnh: Đỗ Mai Lộc/ internet
“Vạn Niên là Vạn Niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân!”
Câu ca dao xưa đi vào tiềm thức của thế hệ chúng tôi, “thế hệ sinh ra và lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”; câu ca dao khơi mào cho cuộc khởi nghĩa nông dân mang tên “khởi nghĩa Chày Vôi” (năm Bính Dần 1866) xuất phát từ việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, nhiều người oán giận, vua Tự Đức một thời đã đi vào lịch sử dân tộc là vị vua hôn quân vô đạo.
Tôi đã đến lăng mộ vua Tự Đức, cũng thường đến khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng. Trên tất cả mọi phương diện (đất đai, diện tích, quy mô, kinh phí, …) lăng Tự Đức còn lâu mới bằng khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng – một vị Thủ tướng dưới chế độ cộng sản còn hơn cả vị Hoàng đế của triều đại phong kiến, ngay cả khi đã chết.
Cả nước có nhiều con đường, đại lộ mang tên Phạm Văn Đồng, đường nối tiếp theo nên đặt tên là “đường 19 tháng 1” để làm bài học lịch sử hiện thực và sinh động.
Lịch sử rất sòng phẳng. Thời gian trôi qua, dân tộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn, đánh giá công, tội một cách rõ ràng; sự kính trọng đối với từng nhân vật lịch sử không cần phải áp đặt, cưỡng chế.
Là một người dân Mộ Đức, tôi cảm thấy có tội khi nói thêm (Quê tôi) “là quê hương của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng”.
P/S: Nếu có sự tôn trọng, thì đó là trước khi mất, ông Phạm Văn Đồng dặn dò con trai duy nhất là Phạm Sơn Dương: “Ba không có tài sản gì để lại cho con. Ba chỉ có một sự nghiệp phải tiếp tục. Ba yêu cầu con chăm sóc má của con, chăm lo dạy bảo các con của con mạnh khỏe, ngoan ngoãn, học giỏi, trở thành người có ích cho xã hội, cho đất nước, con xứng đáng là người sĩ quan của quân đội ta”
Con chim sắp chết tiếng kêu thương, người sắp chết lời nói phải. Với ông “sự nghiệp phải tiếp tục” là lấy gia đình làm nền tảng, con không phải trung với Đảng, cháu nội không phải xứng đáng cháu ngoan bác Hồ.
Có thể nhờ vậy mà dân tộc này không thêm một “thái tử đỏ” hay “nhà tư bản đỏ”.
Đỗ Mai Lộc
_______
(1). “Hồ” có nghĩa là con cáo, hồ ly tinh. “Cha Hồ”: hiểu theo nghĩa bóng như vậy.
(2). “ngụy quân, ngụy quyền”: những người tham gia quân đội, chính quyền hay các đảng phái khác cộng sản dưới thời Việt Nam cộng hòa.
(3). Số liệu từ năm 2008, đến nay mở rộng quy mô lên gấp nhiều lần và biên chế hẳn ban chuyên trông coi khu lưu niệm.

Trang