30 tháng 4, 2015

VĂN HÓA NÀO ĐANG SUY ĐỒI ?

Xuân Dương
Để “quyền uy” thực sự là văn hóa trị quốc không phải là “học, học nữa, học mãi” mà là “làm, làm ngay, làm đúng”
Dư luận từ lâu nay đặt nhiều câu hỏi về sự xuống cấp của văn hóa, đạo đức, lối sống… không phải chỉ của cán bộ, công chức mà còn của chính một bộ phận dân cư.
Tìm đúng nguyên nhân giải thích để ai cũng chấp nhận không hề dễ, nhất là khi người ta quen sống trong ánh hào quang, không dễ nhìn thấy những gì là trần tục.
Sự xuống cấp văn hóa diễn ra hầu như mọi nơi, mọi lúc, mọi đối tượng, từ dân thường đến cán bộ, từ bình dân đến giáo sư, tiến sĩ, từ văn hóa ứng xử, văn hóa công sở, văn hóa học đường, văn hóa ẩm thực đến văn hóa lãnh đạo vân vân và vân vân.
Trong trào lưu xuống cấp ấy vẫn có cá biệt, có những “văn hóa” không xuống cấp mà lại “lên ngôi”, lại được những người có “văn hóa” lên tiếng bảo vệ như “văn hóa cướp”, “văn hóa tham”, “văn hóa ngạc nhiên”…
Khái niệm “văn hóa cướp” chẳng qua chỉ là nói tắt của cụm từ “cướp có văn hóa” mà gần đây được nhiều người nhắc đến.
Quốc gia đội sổ và… báo cáo Thủ tướng
(GDVN) - Đất nước chỉ có một Thủ tướng nhưng có 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, 22 cơ quan cấp bộ, liệu rồi đây còn bao nhiêu vụ việc sẽ lại đến tay Thủ tướng?
Vậy thì cái “văn hóa” nào đủ sức mạnh để kéo “văn hóa” này xuống thấp, đẩy “văn hóa” kia lên cao?
Có thể nhiều người đã nhận thấy, nhưng phát biểu một cách thẳng thắn, không né tránh về hiện tình văn hóa nước nhà có lẽ đáng chú ý nhất là ý kiến của TS Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên TƯ Đảng, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo TƯ.
Trong bài “Xây dựng Đảng về văn hóa” đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 3/4/2015, ông viết: “Nếu để Đảng bị suy đồi về văn hóa thì Đảng sẽ thất bại, có lỗi với nhân dân và lịch sử, đồng thời bản thân Đảng cũng không thể tồn tại…”. [1]
Văn hóa của một cộng đồng không phải là thứ từ trên trời rơi xuống, nó như tấm gương phản chiếu nhận thức của con người trước tự nhiên và xã hội.
Nói cách khác, xã hội nào có văn hóa ấy, không thể đòi hỏi một xã hội mông muội có nền văn hóa văn minh, cũng như không thể đòi hỏi những người quen với sự dối trá từ lúc còn chập chững ngay lập tức trở thành người trung thực.
Văn hóa giữ địa vị chi phối tiến trình phát triển xã hội loài người không phải là văn hóa của kẻ yếu bởi lẽ kẻ yếu chẳng bao giờ áp đặt được văn hóa của mình cho kẻ mạnh.
Kẻ xâm lược, kẻ chiến thắng bao giờ cũng muốn đem văn hóa của mình đồng hóa văn hóa của người bị khuất phục.
Lịch sử cho thấy dù dân tộc Việt luôn phản kháng, chống lại sự đồng hóa của ngoại bang song không thể nói văn hóa của người Việt không bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, cũng như không thể nói văn hóa của Úc, Canada, New Zealand không chịu ảnh hưởng của văn hóa Anh quốc hay văn hóa Mỹ La tinh không chịu ảnh hưởng của văn hóa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.
Văn hóa giữ địa vị chi phối ấy, xin tạm đặt tên là “Văn hóa Quyền Uy”, “Quyền” là quyền lực và “Uy” là uy tín.
“Quyền” để người ta sợ, “Uy” để người ta phục.
Trước hết nói về “Quyền”
Quyền lực chi phối sự phát triển xã hội loài người bao gồm Nhân quyền, Thần quyền và Pháp quyền, gọi chung là “Tam quyền”. Tam quyền ở đây hoàn toàn khác với khái niệm “Tam quyền phân lập” gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhân quyền là khái niệm mới, được đề cập nhiều từ khoảng nửa cuối thế kỷ 20 đến nay;
Nhân quyền, như bản thân tên gọi là quyền con người. Nhân quyền được xếp hàng đầu trong Tam quyền vì đây là quyền năng chi phối cả Thần quyền và Pháp quyền.
Nếu Thần quyền và Pháp quyền không nhằm mục đích phục vụ Nhân quyền, đi ngược lại những tiêu chí tối thượng của Nhân quyền thì sớm muộn cả hai sẽ bị sụp đổ.
Cũng chính vì giữ vai trò chi phối nên Nhân quyền một mặt luôn được đề cao, mặt khác luôn bị lợi dụng vào các mục đích chính trị.
Hai sự kiện ở Kosovo và Crimea về bản chất không khác nhau nhiều, người Anbani ở Kosovo và người Nga ở Crimea là những tộc người chiếm đa số và đều muốn tách khỏi sự cai trị của pháp quyền bản xứ.
Khi phương tây xúm nhau hậu thuẫn cho Kosovo độc lập, Nga cực lực phản đối.
Khi Nga ủng hộ Crimea độc lập, phương tây la lối om xòm, đua nhau lên án và trừng phạt Nga.
Ai cũng biết Crimea vốn thuộc Đế quốc Nga từ thế kỷ 18, mãi đến ngày 19/2/1954 Liên Xô (cũ) mới chuyển giao Crưm cho Ukraina quản lý bằng một đạo luật do Xô viết Tối cao Liên Xô ban hành.
Bàn về văn hóa vỗ tay
(GDVN) - Hành động vỗ tay thì thật giản đơn, nhưng hãy suy nghĩ cho thấu đáo trước khi vỗ tay; vỗ tay ở đâu, khi nào, vỗ như thế nào là thích hợp ...
Nhân quyền luôn bị giới lãnh đạo Thần quyền và Pháp quyền lợi dụng cho các mưu đồ chính trị.
Với chiêu bài chống độc tài, bảo vệ nhân quyền, người ta lật đổ Saddam Hussein, nhưng kể từ đó người dân Iraq luôn phải sống trong bạo loạn, đất nước bị chia rẽ, một số tộc người có tư tưởng cực đoan luôn tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.
Đó không phải là Nhân quyền cho người dân, nhân danh Nhân quyền để chà đạp nhân quyền không còn là chuyện hiếm trong thế giới đầy rẫy toan tính này.
Sự xâm phạm Nhân quyền có thể thấy rõ nhất là sự áp đặt chính kiến, tư tưởng, lối sống của nhóm người này với nhóm người khác, của tộc người này với tộc người khác…
Việc sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự để khuất phục các tộc người yếu hơn là chuyện diễn ra suốt chiều dài lịch sử nhân loại.
Con người gọi là văn minh ngày nay vẫn chưa hề đoạn tuyệt đặc trưng của thời mông muội, ấy là tranh giành không gian sống, nguồn thức ăn và sự duy trì nòi giống.
Các cuộc chiến tranh chiếm đất, chiếm nguồn tài nguyên không phải chỉ bằng bom đạn mà còn là các hình thức viện trợ.
Chừng nào “thế giới phẳng” vẫn chỉ là một sự “phẳng” tương đối thì nhân quyền vẫn còn bị xâm phạm.
Một trong các biểu hiện vi phạm nhân quyền chưa từng xảy ra trong lịch sử là chuyện khuyến khích, dụ dỗ, lừa đảo dưới vỏ bọc kết hôn với phụ nữ nước ngoài nhằm mục đích duy trì nòi giống cho tộc người nước sở tại.
Những đứa trẻ được sinh ra trong các cuộc “hôn nhân” ấy mặc nhiên mang quốc tịch của bố, các quốc gia “nhập khẩu” cô dâu nhiều nhất thế giới chưa bao giờ tuyên bố các đứa bé sinh ra bởi các “gia đình quốc tế” được phép chọn quốc tịch theo mẹ.
Quyền con người của đứa bé bị vi phạm ngay từ khi chưa chào đời.
Hủy hoại môi trường sống, xuất khẩu đồ phế thải, các thiết bị công nghiệp lạc hậu gây ô nhiễm môi trường sang nước khác với mục đích là giữ cho quốc gia, chủng tộc mình một nguồn thức ăn sạch, một bầu không khí sạch, không có gì khác hơn là sự diệt chủng.
Người ta bất chấp tất cả để cướp cho được Ấn đền Trần, một biểu hiện của suy đồi văn hóa, kể cả văn hóa quyền uy. Ảnh chụp năm 2013, nguồn Internet
Nếu chính quyền một quốc gia tiếp tay cho hành động đó thì chính là tiếp tay cho sự diệt chủng chính đồng bào mình.
Thần quyền là quyền năng chi phối tinh thần, bao gồm tín ngưỡng, tôn giáo, học thuyết…
Trong lịch sử, đã từng có thời kỳ Thần quyền lấn át Vương quyền, người châu Á cầu khấn Phật tổ và Bồ tát chứ không cầu khấn Ngọc hoàng.
Ở châu Âu chỉ Giáo chủ mới có quyền đội vương miện cho nhà vua, ở Việt Nam, Vua Trần Nhân Tông từ bỏ vương quyền để trở thành Phật hoàng…
Sự khác biệt giữa loài người với vạn vật là ở chỗ bên con người có cuộc sống tinh thần. Con người luôn có nhu cầu tin vào một điều gì đó, sự ra đời của đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Hồi hay đạo Hindu chính là đáp ứng đức tin của các chủng tộc người trên thế giới.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái; Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi; Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”.
Người đặt Giêsu, Mác, Khổng Tử, Tôn Dật Tiên ngang hàng với nhau và nhấn mạnh: “Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết”. [2]
Ý kiến của Cụ Hồ cho thấy trong suy nghĩ của Người, Giêsu, Mác, Khổng Tử… đều là các nhà tư tưởng chứ không phải là hiện thân của “Đạo” hay “Chủ nghĩa”, không có sự phân biệt giữa khái niệm “Đạo” và khái niệm “Chủ nghĩa”. Nếu theo đó có thể nói Chủ nghĩa Mác cũng là một đạo giống như đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Khổng…
Giáo lý của các đạo lớn trên thế giới đều có điểm chung là mưu cầu hạnh phúc cho con người, cho xã hội.
Phật tổ không khuyên chư tăng tích lũy của cải làm giàu, Chúa Giêsu không khuyên con chiên gây chiến tranh, Thánh Ala không khuyên tín đồ đánh bom tự sát.
Tuy vậy từng lúc, từng nơi sự cuồng tín đã làm biến chất các giáo điều, nó vừa biến Thần quyền thành công cụ của Pháp quyền vừa khiến con người mất niềm tin vào Thần quyền.
Thập tự chinh là những cuộc chiến tranh tôn giáo tàn khốc mà phần lớn lại do chính Giáo hoàng phát động, hành động giết người man rợ đang xảy ra ở Trung Đông lại nhân danh tôn giáo, nạn tham nhũng hoành hành ở đất nước láng giềng phương bắc không phải do dân mà chủ yếu là các quan chức cao cấp, hầu hết những người đó đều là đảng viên.
Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn “Tam bất” như thế?
(GDVN) -Cho rằng “Trông cậy gì ở tương lai khi thế hệ trẻ dã man như thế” là vội vàng? hãy đặt vấn đề ngược lại “Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn Tam bất như thế"
Nêu lên để thấy Cụ Hồ đã có một tầm nhìn rất xa, rất rộng khi đặt các đạo bên nhau, không có đạo nào là độc tôn, không có đạo nào là duy nhất.
Thế giới tinh thần của loài người là một thế giới thống nhất trong đa dạng.
Mọi mưu đồ độc bá chỉ có thể giành thắng lợi nhất thời chứ không bao giờ vĩnh viễn.
Nghĩ được như thế mới là đạt đến mức Hiền triết, phấn đấu để điều đó tồn tại thực sự trên hành tinh này mới là Minh triết.
Pháp quyền là khái niệm ngày nay trẻ con học phổ thông đã được tiếp cận. Pháp quyền nói một cách ngắn gọn là quyền cai trị dựa vào pháp luật. Dưới chế độ phong kiến, khái niệm Pháp quyền thường được gọi dưới cái tên “Vương quyền”.
Pháp luật là do con người xây dựng nên vì thế không ít trường hợp nó mang hơi hướng của các chính trị gia, của vận động hành lang chứ không hoàn toàn là ý nguyện của toàn dân.
Bằng các công cụ có trong tay như quân đội, cảnh sát, nhà tù… Pháp quyền đang được gia cố để trở thành quyền lực chủ đạo.
Khi Pháp quyền trở thành quyền lực tuyệt đối thì đó cũng là lúc giai cấp (hoặc tầng lớp) thống trị- đại diện bởi các chính trị gia trở thành độc quyền và độc tài.
Mơ ước sống trong một xã hội pháp quyền không hẳn là tốt đẹp nếu Pháp quyền lấn át cả Nhân quyền lẫn Thần quyền.
Binh pháp quan trường, kế thứ 8 – “Ngôn pháp Tà Lưa”
(GDVN) - Ngôn ngữ “Tà Lưa” vốn là một ngôn ngữ “cổ”, tuy chưa thất truyền nhưng dân gian ít người sử dụng, ngược lại nó rất thông dụng ở những chốn cao sang, quyền quý.
Khi một đạo luật ban hành mà khung hình phạt luôn có một khoảng dung sai “Từ… Đến…” thì hiển nhiên việc vận dụng là tùy thuộc vào quan điểm của người thừa hành.
Thực tế cho thấy không ít trường hợp khi dân biết “chạy” thì mức phạt là “từ” còn không biết chạy thì mức phạt là “đến”.
Các nước được xem là văn minh nhất thế giới ngày nay, chuyện vận động hành lang để quốc hội ban hành các đạo luật phục vụ lợi ích nhóm là điều bình thường, được công khai thừa nhận.
Sự không bình thường lại chính ở các nước không công nhận vận động hành lang, các điều luật được ban hành chỉ bởi sự duy ý chí của một thiểu số người.
Sự không bình thường còn xảy ra khi sự vận động hành lang cho lợi ích nhóm được tiến hành trong bóng tối mà luật pháp không thể kiểm soát.
Luật pháp, dù văn minh, hiện đại đến mấy cũng chỉ là các quyển sách, sự thực thi pháp luật mới là điều cuộc sống đòi hỏi.
Khi đội ngũ công chức yếu về tri thức, mạnh về tham lam nhưng lại không bị điều tiết bởi các chế tài Thần quyền và Pháp quyền thì thảm họa cho dân tộc, đất nước là điều khó tránh.
Quan không được dạy đến nơi đến chốn là lỗi của Thần quyền và Pháp quyền, dân không được bảo đến nơi đến chốn là lỗi của Pháp quyền.
Thứ hai, nói về “Uy”
Uy tín của mỗi cá nhân, tổ chức không bao giờ có được bằng những tuyên bố hùng hồn hay bằng những việc làm sai trái được ngụy biện dưới vỏ bọc vì dân, vì nước.
Tại các nước tư bản, chẳng có Tổng thống nào đắc cử với 99% phiếu bầu nhưng không vì thế mà uy tín của họ thấp như tỷ lệ phiếu dành cho họ.
Có quan niệm sai lầm cho rằng uy tín của lãnh đạo chính là uy tín của tổ chức, vì thế người ta luôn tìm cách giấu kín những thiếu sót của lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo cao cấp. Sự công khai, thừa nhận muộn màng những sai lầm luôn phải trả giá bằng sự suy giảm niềm tin của dân chúng.
Để có “uy”, “cần kiệm liêm chính” mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là phải dám hy sinh cái “tôi” cho cuộc chiến vì dân, vì nước.
Người có “uy” khi nói người khác nghe, khi làm người khác theo, người không có uy thì “lời nói gió bay” người nghe gật gù chẳng biết là đồng ý hay ngủ gật.
Lời nói có thể khích lệ lòng người, nhưng nói nhiều mà không làm thì phản tác dụng. Uy tín của cá nhân hay tổ chức là ở chỗ họ làm được những gì chứ không phải họ nói nhiều như thế nào.
Với vị thế của mình, khi viết “Nếu để Đảng bị suy đồi về văn hóa thì Đảng sẽ thất bại” chắc chắn TS. Vũ Ngọc Hoàng đã rất thận trọng. Mặc dù đây chỉ là một câu giả định song sự ra đời của nó cho thấy mức độ không bình thường của thực tại.
Bài viết của tác giả Vũ Lân trên tạp chí Xây dựng Đảng [3] có đoạn: “Như vậy rõ ràng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước có vấn đề, … Niềm tin bị giảm thì đã rõ, nhưng giảm ở mức độ nào, nghiêm trọng hay chưa nghiêm trọng, giảm bao nhiêu phần trăm thì chưa ai có thể đo đếm được…
Dân gian có câu "Thượng bất chính thì hạ tắc loạn". Đó là nguyên lý căn bản của cuộc sống, do đó "thượng" phải "chính". Và "chính" phải được kiểm nghiệm, công khai, minh bạch và được giám sát, kiểm tra của đông đảo quần chúng nhân dân”.
Logic của vấn đề là ở chỗ không có “tín” thì sẽ mất “uy”, mất “uy” thì sẽ mất “quyền”, nhận thức được là một chuyện, hành động để khắc phục mới là điều đáng nói.
Dù đầy lòng vị tha, người dân cũng không thể mãi đặt niềm tin vào những “lời có cánh”.
Người xưa dạy “Việc hôm nay chớ để ngày mai”, khôi phục lại uy tín của Đảng, của chính quyền không phải là việc hôm nay mà của nhiều tháng năm đã qua, nếu còn “để đến ngày mai” thì có sợ rằng sẽ “bị muộn”?
Kỷ nguyên mới của loài người gắn liền với “văn hóa làm” còn chúng đã đang sống với “văn hóa nói”. Xã hội Việt Nam không phải đang bị suy đồi về văn hóa mà chỉ là chưa vượt qua được cái ngưỡng của văn hóa suy đồi.
Để “quyền uy” thực sự là văn hóa trị quốc không phải là “học, học nữa, học mãi” mà là “làm, làm ngay, làm đúng”./.

CĂN BỆNH NÓI...ĐÃI BÔI

Như Thổ
Đã đến lúc chúng ta phải tuyên chiến với căn bệnh hình thức, tuyên chiến với những sự sáo rỗng, giáo điều và những lời nói mang tính đãi bôi ở trong báo cáo...
Năng lượng Mới số 414
Gần như đã thành một cái lệ, trong bất cứ báo cáo nào, dù là báo cáo sơ kết công tác tháng, công tác năm rồi báo cáo chính trị của các chi bộ, đảng bộ cơ sở thì bao giờ ở phần nguyên nhân để đạt được thành tích đầu tiên phải là “…được sự chỉ đạo sát sao, kịp thời, chính xác của Đảng ủy cấp trên”; hoặc “được sự giúp đỡ, đồng thuận và tranh thủ được sự ủng hộ, tạo điều kiện của các bộ, ban, ngành Trung ương…”.
Tóm lại là cái gì người ta cũng không được phép quên cấp trên.
Và mọi nguyên nhân dẫn đến thắng lợi trong bất cứ việc gì cũng là do cơ quan cấp trên “sáng suốt”, rồi có sự chỉ đạo kịp thời, rồi là có sự đồng thuận v.v…
Gần đây, những báo cáo đầy những lời lẽ kiểu đãi bôi, những lời sáo rỗng thế này xuất hiện nhan nhản trên các loại báo cáo và hình như đây là một nội dung không thể thiếu.
Có lẽ người Việt Nam chúng ta vốn nặng tình, lại cả nể, luôn nhớ tới công lao của người đi trước, của cấp trên cho nên cứ phải viết như vậy mới yên lòng.
Còn cấp trên khi xuống dự hội nghị hoặc đại hội ở cấp dưới thì hình như chưa ai dám nói rằng: “Thưa các đồng chí, tôi phải rất cảm ơn các đồng chí đã làm việc rất tốt, đã hoàn thành xuất sắc các kế hoạch đã đề ra và nhờ có các đồng chí mà cái ghế của tôi mới được vững”.
Khổ thế đấy! Từ xưa các cụ đã có câu “thần thiêng nhờ bộ hạ”, tạm hiểu là vị trí của người trên có vững được chính là nhờ cộng sự cấp dưới.
Ấy vậy mà hầu như không có mấy khi cấp trên nhắc đến công lao của cấp dưới mà thường họ vơ vào mình. Còn nếu có khuyết điểm xảy ra thì chắc chắn lỗi là do cấp dưới hoặc cùng lắm có thể nghiêm khắc tự kiểm điểm để nhận thấy rằng “không nắm bắt kịp tình hình”, “chưa dành thời gian đi sát cơ sở” chứ chẳng có cấp trên nào nhận là “để việc đó xảy ra là lỗi do tôi”.
Bấy lâu nay, Đảng, Chính phủ đấu tranh quyết liệt với bệnh quan liêu trong một bộ phận không nhỏ quan chức; phê phán bệnh vô cảm, xa dân của nhiều vị “phụ mẫu”. Và chúng ta dễ dàng nhận thấy không ít vị lãnh đạo thường có lối chỉ tay 5 ngón, “các đồng chí, các cậu phải thế này, thế kia”… thế nhưng không mấy khi vạch cho ra được nếu làm được điều này thì điều kiện kèm theo là gì.
Từ xưa người ta cũng có câu “Muốn nói gian làm quan mà nói”, rồi thời cận đại có thêm câu “Điều 1: Cấp trên bao giờ cũng đúng. Điều 2: Ai thắc mắc xem lại điều 1”.
Tất nhiên các cơ quan lãnh đạo cấp trên, đặc biệt là cấp quản lý vĩ mô thì không thể nào miệng hô tay vẫy, chỉ đạo quá cụ thể… Nhưng khi phát hiện ra những ách tắc, những gì cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, xã hội thì phải xắn tay áo vào giải quyết. Đằng này không ít cơ quan, lãnh đạo coi đó là chuyện của ai đó và… mặc kệ.
Cũng phải nói thêm rằng, bộ máy hành chính của chúng ta, cơ bản là “sinh ra dưới thời bao cấp”, cho nên tư duy và tác phong làm việc chủ yếu là phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hóa cao độ. Bây giờ chúng ta đã chuyển sang xây dựng một nền kinh tế thị trường thì bộ máy quản lý mang nặng tư duy bao cấp đó, đang là rào cản cho sự phát triển. Không ít các cơ quan quản lý Nhà nước với những chính sách, quy định, quy chế đã lạc hậu, không bắt kịp sự phát triển xã hội, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và chính họ đang là rào cản cho sự phát triển kinh tế, bởi sự quan liêu, sự vô cảm và cả sự tham nhũng nữa.
Ấy vậy mà cấp dưới báo cáo gì thì cũng phải có câu “nhờ sự sáng suốt”. Mà chưa có đơn vị nào dám nói huỵch toẹt ra rằng, “chúng tôi đang khốn khổ thế này, dở sống dở chết chính là vì các ông”.
Gần đây có những lời nói mà người ta vẫn hay nhắc đi nhắc lại như một con vẹt, đó là “thời cơ và thách thức”; đó là “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng…”. Nhưng xin phép bác Vũ Khoan, chúng tôi được nhắc lại lời của bác trong buổi đàm luận về kinh tế được phát sóng trực tiếp trên Đài Truyền hình Trung ương, bác có nói rằng: “Người ta cứ nói sa sả suốt ngày về thách thức nhưng không có mấy doanh nghiệp biết thời cơ và thách thức ở đâu và cái gì thách thức mình, cái gì là thời cơ đối với mình”.
Các học giả, các nhà nghiên cứu, các chính khách cũng nói nhiều về những nguyên nhân phải làm cho một xã hội doanh nghiệp phát triển nhưng nói giời nói bể gì thì cũng chỉ có 3 yếu tố: Thứ nhất là phải minh bạch; thứ hai là phải biết lắng nghe và thứ ba là phải biết hành động quyết liệt. Nói giời nói bể gì mà thiếu một trong ba yếu tố này thì khó tạo ra sự phát triển bền vững.
Căn bệnh nói sáo rỗng, đãi bôi cũng có không ít trong nhiều báo cáo chính trị của các đại hội Đảng cấp cơ sở. Hầu như báo cáo nào cũng nói “đổi mới phương thức lãnh đạo để tạo ra được sức mạnh tổng hợp”… Nhưng cũng hầu như chẳng có mấy báo cáo chính trị nào nói “đổi mới phương thức lãnh đạo” là đổi mới cái gì, bắt đầu từ đâu và phải làm thế nào, cho nên đã đến lúc chúng ta gọi báo cáo này là báo cáo “chém gió”. Mọi việc bây giờ cần đi vào thực chất và cụ thể còn cấp trên thì các vị lãnh đạo có lẽ cũng cần phải có thái độ khi cấp dưới báo cáo rằng “nhờ sự giúp đỡ…”.
Chưa hết, căn bệnh hình thức còn thể hiện trên cả các băng-rôn khi địa phương, cơ sở tiếp đón những đồng chí lãnh đạo cao cấp tới làm việc “Nhiệt liệt chào mừng đồng chí… về thăm và làm việc”.
Khổ quá đi mất, việc cấp trên về làm việc tại cơ sở đó là chuyện bình thường, nếu như không nói đó là bổn phận của cấp trên. Thế thì hà cớ gì phải “nhiệt liệt chào mừng”. Căn bệnh “nịnh” cấp trên này xem ra ngày càng phát triển và cũng có một điều rất lạ là chưa có cấp trên nào khi bước vào hội trường thấy có dòng chữ “nhiệt liệt” ấy lại bắt dỡ đi.
Đã đến lúc chúng ta phải tuyên chiến với căn bệnh hình thức, tuyên chiến với những sự sáo rỗng, giáo điều và những lời nói mang tính đãi bôi ở trong báo cáo. Cứ bảo rằng, chúng ta phải “đổi mới”, thậm chí coi đó như một “phát kiến” gì đó thật to tát, nhưng thực ra “đổi mới” cái từ này có từ cách đây cả 4.000 năm rồi. Ông vua Thành Thang thời cổ đại Trung Hoa đã từng khắc vào bồn tắm của mình dòng chữ “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” - có nghĩa là “Đổi mới, ngày càng đổi mới, ngày một đổi mới”.
Từ xửa từ xưa, người ta đã nói đến cần thiết phải đổi mới tư duy để xây dựng quốc gia như thế nào rồi, thế thì bây giờ, hà cớ gì chúng ta không dám đổi mới một cách mạnh mẽ, đổi mới một cách quyết liệt, cả về tư duy lẫn biện pháp hành động.
Và có lẽ, cần đổi mới sớm nhất là bớt đi những báo cáo làm “vừa lòng cấp trên”, những báo cáo… đãi bôi.

"QŨY GHẾ NGỒI "LÀ CÁI KHO ĐỂ THAM NHŨNG

Lê Chân Nhân
Sau khi kết quả khảo sát được công bố, cũng có ý kiến cho rằng, thực tế còn cao hơn, hầu như ai đi xin việc cũng phải hối lộ. Tuy nhiên, không thể nói theo cảm tính, mà phải tôn trọng các công bố có căn cứ khoa học.

(Minh họa: Ngọc Diệp)

Nếu chấp nhận con số gần 50% hối lộ để xin việc ở khu vực công cũng đã thấy lo cho sự an nguy của nền hành chính nước nhà.
Dân gian đã truyền miệng về các thành phần đi xin việc được ưu tiên theo thứ bậc “hậu duệ, quan hệ, tiền tệ, trí tuệ”.
“Tiền tệ” có nghĩa là hối lộ. Vậy thì chỉ riêng hối lộ thôi đã chiếm gần 50% số người vào cửa công. Trên hối lộ hai bậc là “quan hệ” và “hậu duệ”, tuy chưa có khảo sát mấy chục phần trăm của hai loại này, nhưng chắc chắn tỉ lệ cũng rất cao. Vậy thì, số cán bộ công chức có “trí tuệ” chiếm tỉ lệ chẳng bao nhiêu.
Cái họa là ở chỗ này đây!
Chất lượng của nền hành chính công Việt Nam là bằng chứng hùng hồn để chứng minh rằng, cán bộ công chức "trí tuệ" chiếm tỉ lệ thấp trong tổng số công chức hiện nay.
Còn đạo đức thì thế nào? Thật khó để làm ra cái máy để đo đạo đức, nhưng có thể khẳng định rằng, còn có gần 50% người xin vào khu vực công phải đưa hối lộ thì không thể tin có đạo đức cao trong cả người nhận lẫn người đưa hối lộ.
Tiền dự án, công trình là cái kho để tham nhũng, nhưng cái “quỹ ghế ngồi” trong hệ thống nhà nước cũng là cái kho để tham nhũng. Tìm mọi cách để chiếm cho được cái ghế là tham nhũng quyền lực. Khi có quyền lực, lại bán những cái ghế khác, từ ghế con con đến ghế dựa đều có giá của nó. Loại tham nhũng này không làm cho nhà nước mất đồng nào như tham nhũng các dự án, nhưng nó gây thiệt hại kinh khủng, không thể tính hết được.
Tham nhũng ở các tập đoàn mà pháp luật đã phát hiện và trừng trị đưa ra con số cụ thể nghìn tỉ hay chục nghìn tỉ đồng. Dù lớn đến mấy cũng là tiền, có thể làm ra để bù đắp được. Nhưng tham nhũng để đưa những con người vô năng vô đức vào hệ thống nhà nước thì phácả quốc gia và không thể bù đắp được.
Điều đáng sợ là tình trạng này tồn tại trong cơ thể đất nước như một chứng bệnh nan y, chữa chạy mãi không khỏi.
Lê Chân Nhân

LÍNH VÀ QUAN MỘT THỜI

Tô Hoàng
Nhớ đồng đội nhân ngày 30 tháng Tư…
GHI CHÉP
-Cậu đã bao giờ yêu chưa ? –Có một lần Tư Lệnh hỏi anh lính công vụ.
- Về đại thể là không kịp thủ trưởng ạ! Anh lính công vụ đáp, giọng thoáng buồn.
-Tớ tin cậu! Song, nói như bọn cậu thường nói, thế cậu đã bao giờ trải qua cái tâm trạng mang máng yêu?
-Khoản này thì có đấy !Dạo ấy đơn vị tôi rút ra Quảng Bình, gọi cho oai để tập huấn,nhưng thực ra là để ăn gạo miền Bắc mà chống đói, tôi phải lòng một cô gái “nếu ai hỏi vì sao” thủ trưởng ạ.Thú thật với thủ trưởng, cái “ ra đa định vị “ chị em của tôi không đến nỗi tồi. Cô bé thật tuyệt! Kể cả vật chất lẫn tinh thần! Có điều tôi nghĩ, mang phận lính tráng ra sống vào chết, biết thế nào mà hẹn ước với thề bồi? Đòm một phát, mình hóa thành ma để con gái người ta chịu thân góa bụa à? Đêm chia tay trở vào chiến trường, cô gái khóc ghê lắm. Cô ấy oán tôi tàn ác, nhẫn tâm, không chịu ghi cho cô ấy dù chỉ là một dòng địa chỉ làng xóm. Đau lòng lắm, thủ trưởng ơi! Cực chẳng đừng, cuối cùng tôi bảo cô gái: “ Em xòe bàn tay ra. Anh sẽ viết cho em vài chữ. Nhưng chờ anh đi rồi, về nhà mới được đọc đấy !”. Cô bé thoắt vui liền. Dặn cũng bằng thừa. Đêm Quảng Bình thuở đó vì lo máy bay, pháo biển Mỹ bắn phá có ai dám đèn đóm, củi lửa gì đâu. Hẳn cô ấy phải xuống hầm đốt đèn lên mới đọc được. Lúc ấy tôi đã đi xa tít tắp rồi…Sau này tôi cứ xót sa, ân hận mãi vì cung cách đối xử với cô gái như vậy…
- Chú mày bày đặt ra chuyện quỷ quái gì thế?- Tư Lệnh sốt ruột cắt ngang.
- Tên cô gái là Phải, tên tôi là Công. Tôi viết bằng chữ in hẳn hoi: “ PHẢI + CÔNG = MUÔN NĂM ! “. Tôi làm vậy có sai không thủ trưởng? Cô bé muốn hiểu sao cũng được, phải không?
Tư Lệnh cười, quay mặt đi, lau lén giọt lệ bất chợt tứa ra ở đuôi mắt…
Một lần khác, ngồi nghỉ, sau khi vượt ngọn dốc Chưmomray, Tư Lệnh tiếp tục “ đọc chuyện đêm khuya” với anh lính công vụ:
-Cậu vẫn tự hào chiếc “ ra đa định vị “ đám chị em của cậu không tồi. Vậy nghe tớ hỏi: Điều gì ở người con gái cậu xem trọng nhất nào?
Không do dự, nghĩ ngợi lâu, anh lính công vụ đáp luôn:
-Điều quan trọng nhất người con gái phải là đàn bà!
-Ơ thằng quỷ này-Tư Lệnh tròn mắt ngạc nhiên- Thế con gái không phải là đàn bà thì là đàn ông sao?
Anh lính hóm hỉnh:
-Ấy thế đấy ! Tôi và thủ trưởng thử hình dung ra cảnh này nhé !Đánh đùng một cái tôi và thủ trưởng được ra Bắc. Chả phải nói, việc đầu tiên là tôi phải đến thăm cô Nga, con gái rượu của thủ trưởng rồi.Tôi và thủ trưởng ngồi ờ bàn nước phòng ngoài. Ở buồng trong thằng em cô Nga thức giấc bỗng khóc ré. Bà vợ của thủ trưởng đang đi đâu đó. Cô Nga bế xốc thằng em lên cất tiếng ru. Tôi và thủ trưởng nghe thấy cô Nga ru thằng em bằng bài “ hành quân xa dẫu có nhiều gian khổ..” Điểm theo là bước chân cô ấy dẫm thịch..thịch…thịch..thịch… đúng nhịp quân hành. Thử hỏi thủ trưởng, trước cảnh tượng ấy liệu tôi có “cử động” được không?..
- Thằng quỷ! Thằng quỷ! Tư Lệnh vò đầu anh chiến sỹ công vụ - Thứ nhất là tớ vào Tây Nguyên này đã 8 năm rồi, tớ làm quái gì có thằng bé còn đang ẵm ngửa?Thứ hai, tớ bảo đảm con bé Nga của vợ chồng tớ không vụng về, tộc tuệch như thế đâu. Nó giống mẹ nó, đầy nữ tính…
- Xin nêu một ví dụ?
-Ví dụ à? Nó biết nấu cơm này. Khi tra tỏi vào rau sào, nó không bao giờ thái tỏi ra mà toàn lấy dao ép tỏi, để tinh tỏi bốc mùi thơm hơn. Nó không thích gội đầu bằng xà phòng mà chỉ thích gội đầu bằng bồ kếp, nước lá sả này…Nó, nó..
-Thế hồi thủ trưởng lên đường vào Nam , cô con gái thủ trưởng bao tuổi rồi?
-Để tính đã..Nó lên 8 hoặc tính cả tuổi mụ là 9 tuổi !
-Mới từng ấy tuổi mà xét tới nữ tính e là hơi khó đấy, thủ trưởng ơi !
Tư Lệnh bỗng dưng như bị dồn vào thế bí, ông cười xí xóa.
Về cô Nga, Tư Lệnh đã kể cho anh lính công vụ nghe không biết bao nhiêu chuyện. Từ chuyện dạo mới sinh cô bé mắc chứng khóc dạ đề, đến chuyện một lần về phép tự tay ông đã nhổ chiếc răng cửa của bé Nga vứt vào gầm tủ cho chuột tha để mau mọc răng mới,chuyện ông mua sách bút đưa cô bé vào học lớp mẫu giáo.. Những chuyện vào mấy năm sau này, ví như cô bé được đeo khăn quàng đỏ, cởi bỏ khăn quàng cô bé được chuyển thẳng thành Đoàn viên thanh niên Hồ Chí Minh.Ví như cô gái rất có ý chí, bọn con trai trong lớp phải phục nể..vân vân và..vân vân..Anh lính công vụ nghe mà hiểu rõ Tư Lệnh biết được những điều như vậy nhờ vào những bức thư của bà vợ. Còn rất nhiều điều khác Tư Lệnh thêm mắm thêm muối, chủ yếu ông đựa vào trí tưởng tượng và lòng thương nhớ cô con gái yêu sống tít tắp ngoài hậu phương.
Cuối mùa mưa năm ấy, Tư Lệnh lên Chỉ huy Mặt trận họp. Cuộc tập huấn lần này bàn về phương án đánh to thắng lớn. Cuộc họp kéo dài suốt ba ngày, ba đêm. Mãi đến buổi sáng hôm thứ tư, anh lính công vụ mới được gặp lại Tư Lệnh. Hai người ríu rít, mừng rỡ như xa nhau đã lâu lắm.
-Các anh ngoài Bộ Tổng vào chuyển quà hậu phương cho tớ. Con bé gửi cả quà cho riêng cậu đây này!- Tư Lệnh đưa mắt nhìn anh lính công vụ đầy ngụ ý-Mà sao hai đứa bắt sóng nhau nhanh đến thế?. Ông lấy từ gói quà ra chiếc khăn tay vải phin nõn, góc khăn thêu hai chữ “ Quyết thắng” bằng chỉ đỏ trao cho anh lính công vụ- Còn thư của nó tâm sự với tớ đây. Đọc đi, rồi cậu “ tham mưu “ giúp tớ đấy !
Bức thư dày ba trang giấy học trò. Vẫn với nét chữ con gái mềm mại mà rắn giỏi, nghiêm cẩn hơi đổ nghiêng nghiêng về một phía. Nhìn nét chữ đoán tính người. Tư Lệnh nói cô gái này có nữ tính chắc không sai.Câu chuyện mà Tư Lệnh muốn anh lính công vụ góp ý liên quan tới một nguyện vọng của Nga. Cô gái viết:
“…Bố ơi, còn vài tháng nữa, tức cuối học kỳ này, con phải viết đơn trình bày nguyện vọng chọn ngành nghề khi con thi lên đại học. Bố thương yêu của con! Con gái bố biết rõ trong gia đình ta bố là người chịu đựng nhiều thử thách, hy sinh nhất.Vì vậy, con quyết định dành ưu tiên cho bố:Bố hãy bảo con chọn ngành nghề gì, con sẽ làm theo ý bố. Viết ngay thư gửi ra cho con! ..”
Anh lính công vụ phải nằm điều trị vết thương ròng rã gần ba tháng mới được chuyển ra Bắc.
Ngày tìm tới căn hộ trong khu tập thể quân nhân kia, điều đập vào mắt anh lính ngay là bức ảnh Sư trưởng lồng trong khung đen treo phía dưới tấm bằng “ Tổ Quốc ghi công”. Bà vợ Sư trưởng cho biết cô Nga đã đậu đại học, được cử đi du học ở nước ngoài. Anh lính công vụ nói với bà anh là chiến sỹ của ông nhiều năm, anh rất quý trọng, rất thương yêu ông.. Khi anh vừa nói những kỷ niệm đẹp về ông anh còn lưu giữ được, bà vợ Sư trưởng bỗng đưa bàn tay ra phía trước, nhẹ xua xua, nửa như muốn bảo bà đã biết hết mọi chuyện, nửa như ngăn anh đừng kể thêm gì nữa. Anh chiến sỹ công vụ ngồi chết trân nhìn mái tóc bạc, gương mặt mệt mỏi, hằn in những nén chịu của bà vợTư Lệnh. Đã mấy lần anh toan mở túi áo ngực lấy bức thư của Tư Lệnh ra trao cho bà, nhưng anh không thể làm được điều đó..
Đạn bom không giết được Tư Lệnh. Ông hy sinh trong một trường hợp thật tình cờ. Mùa khô năm ấy đơn vị có sự phối hợp của xe tăng và pháo nòng dài đã đuổi địch khỏi thị xã Tân Cảnh và căn cứ Đakto. Một buổi sáng, Tư Lệnh đi thị sát vùng vừa giải phóng. Trên chiếc xe Zeep lấy được của địch có bốn người cả thảy:Tư lệnh, Trưởng ban dân vận, lái xe và anh lính công vụ.Sớm mai, tiết trời vùng cao nguyên hơi se lạnh. Con đường lát nhựa Mỹ láng bóng như vừa được rửa nước. Bánh xe kêu vo vo. Những đôi chân đã quen lội suối, leo dốc, quen với việc thồ gùi, mang vác nặng, nay được buông thả thoải mái trong thùng xe mà ngắm nhìn con đường vun vút hiện ra phía trước mắt, lòng dạ mọi người hết sức phấn chấn, vui vẻ. Xe đang phóng nhanh, bỗng từ phía sau hàng dứa dại lấm bụi đỏ bên vệ đường một người đàn ông kéo phía sau sợi giây thép gai bỗng bổ nhào ra trước mũi xe. Tư Lệnh ngả người cướp lấy vô lăng lái ngoặt xe sang bên kia đường. Chiếc xe Zeep lật úp. Người dân kéo sợi giây thép gai được cứu thoát. Còn người ra đi lại chính là Tư Lệnh. Một bên thành xe chằn ngang lên ngực ông. Mấy phút trước lúc tắt thở, như dồn hết tinh lực, Tư Lệnh móc từ túi áo ngực một tờ giấy gấp tư trao cho anh lính công vụ, miệng thều thào:
-Muộn mất rồi..Thôi… cậu cứ gắng chuyển đến tay con gái mình!
Bức thư vẫn nằm trong túi áo anh lính công vụ thuở nào. Thêm cả chục lần nữa anh đã tới khu tập thể quân đội tìm bà vợ Tư Lệnh. Người thì bảo bà đã về quê, có người lại nói bà đã theo cô con gái vào sống ở trong Nam.Người cựu chiến binh cũng không có cách gì tìm ra cô con gái của Tư Lệnh. Nhiều năm tháng đã trôi qua. Dù anh cựu chiến binh đã giữ gìn rất kỹ, những dòng chữ trên lá thư của Sư trưởng gửi cô con gái cũng nhạt nhờ dần, tờ giấy dường như cũng sắp ải mục. Anh cựu chiến binh chỉ biết an ủi một điều: từng dòng từng dòng của lá thư ấy hầu như anh đã thuộc lòng:
“…Con gái thương yêu của bố. Bố cám ơn con vì con đã biết dành niềm vui lớn lao ấy cho bố. Bố biết khuyên con gái bố như thế nào đây?Cả đời bố, bố chỉ biết một việc đánh giặc, giải phóng quê hương.Tiến quân vào mặt trận khoa học kỹ thuật là trách nhiệm của thế hệ các con.Còn nếu con hỏi nguyện vọng của bố về nghề nghiệp tương lai của con à? Bố mong con theo học ngành vô tuyến điện.Vì sao ư? Con gái của bố có biết không, nay mai đến ngày toàn thắng, nếu bố còn sống sót trở về, khi ấy bố và mẹ con dựa lưng vào nhau, hai tấm lưng ấy sẽ thành chữ X, và X sẽ dứt khoát = O! Bố mong con thiết kế cho bố một cái máy, bố sẽ lắp vào tai mẹ và nói với mẹ con rằng: Tôi xin ngàn lần, vạn lần cám ơn bà. Vì suốt đời bà vất vả, sống xa chồng, một thân một mình lận đận nuôi con ..Chính vì sự chịu đựng, hy sinh của bà, tôi đã không trở thành một gã đàn ông bạc nhược, đớn hèn. Để tôi được đi theo một con đường đã lựa chọn .”

LẠM BÀN MỘT CHÚT VỀ HAI TỪ LÃNH ĐẠO

Trần Huy Thuận
Khi động vật là số đông, sống bầy đàn – động vật hoang dã, thì thường phải có một con giữ vai trò đầu đàn – vai trò lãnh đạo. Chức năng của kẻ lãnh đạo là bảo vệ cuộc sống cộng đồng, chống kẻ thù, chống bầy đàn khác xâm nhập lãnh địa của mình và hướng dẫn việc kiếm ăn cho các thành viên… Nhiệm vụ của từng cá thể là phải tuân theo sự lãnh đạo đó.
Uy tín của con vật đầu đàn – con vật làm nhiệm vụ lãnh đạo được tạo lập không chỉ bởi sức mạnh bản thân, sự quả cảm trong chiến trận với kẻ thù, mà còn bởi khả năng tìm kiếm thông minh các vùng đất sống quý giá, mang lại nhiều thức ăn phù hợp với đồng loại. Uy tín của con vật đầu đàn còn được củng cố bởi sự hy sinh quên mình cho cuộc sống bầy đàn. Trong tự nhiên, chỉ có một vài loài như Ong và Mối là có giai cấp lãnh đạo riêng – các con Chúa, với những đặc quyền đặc lợi đặc thù mà các con ong con mối bình thường dù có phấn đấu hay tu luyện đến mấy, cũng không thể có được. Còn các con vật đầu đàn khác thảy đều xuất phát từ thành viên của bầy đàn, thảy đều sống vì lợi ích chung của bầy đàn. Trong thực tế, quan sát giới động vật hoang dã nói chung, người ta chưa thấy những lãnh đạo các bầy đàn này có biểu hiện lợi dụng chức quyền để bắt các thành viên trong bầy dàn phải cống nạp hay hối lộ! Dù là thú hay là chim, thì con vật đầu đàn cũng vẫn sống cuộc sống như đồng loại, gần đồng loại, cùng đồng loại; sống trong bầy đàn, vất vả kiếm sống như bầy đàn, đói no cùng bầy đàn. Không ăn trên ngồi chốc, không nhà lầu xe hơi, không ngai vàng đế đô.
Lãnh đạo là một vị trí rất cần thiết cho sự tồn vong của mọi bầy đàn, mọi cộng đồng. Tự do như loài chim cũng vẫn phải có con chim đầu đàn. Loài người là động vật cấp cao, phát triển với tốc độ lớn, lại càng cần sự lãnh đạo hơn bất kì loại động vật nào trong tự nhiên. Nhưng loài người thường khi thua các loại động vật khác ở đức hy sinh vì cuộc sống cộng đồng. Cứ leo lên vị trí lãnh đạo là chỉ muốn hưởng thụ hơn người, quyền lực hơn người – là con dân, nhưng cứ tưởng mình là con Trời, tự cho mình cái quyền được hưởng thụ mọi thức ăn vật lạ… do bầy đàn nhọc công, vượt mọi hiểm nguy kiếm về, cống tiến. Cái từ “lãnh đạo” nghĩa thực chất của nó chỉ là “dẫn đường”, “người lãnh đạo” là “người dẫn đường”, thế thôi. Có lãnh đạo thông minh, mạnh mẽ thì bầy đàn no ấm, ngược lại thi đói khổ, thậm chí bị tiêu diệt!
Ta cứ nghĩ giống Hổ dã man, nhưng bản thân những con hổ đầu đàn, sống rất nghĩa tình với đồng loại – “hổ không ăn thịt con” là nhận xét của loài người chúng ta từ xa xưa, cũng phần nào nói lên điều ấy. Như bất kì động vật nào khác, trong nội tình loài dã thú như Hổ, Báo cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng quyền lợi. Khi đó, chúng cũng giải quyết mâu thuẫn bằng chiến trận sống mái, nhưng là cuộc đấu một chọi một, không hề có vấn đề lợi dụng uy quyền, thế lực… Cách giải quyết thật công bằng, đúng không?!.
Mọi người chúng ta, vốn đều xuất thân từ thường dân, là tầng lớp bị lãnh đạo, nhưng hầu như ai cũng ít nhiều từng kinh qua một lần làm lãnh đạo. Lãnh đạo một nhóm nhỏ, hay lãnh đạo cả hàng trăm, hàng vạn đồng loại. Nhưng về già nhìn lại, ngẫm khi còn ở cái cương vị lãnh đạo ấy, ta cũng đã đôi lúc không tránh khỏi cái thói xấu thường tình, là cứ tưởng mình ghê lắm, khác người lắm. Rồi nhìn xuống đám quần chúng dưới trướng, thấy họ thảy đều chỉ như con sâu, con kiến, ta muốn tác oai tác quái thế nào, đám sâu kiến ấy cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh! Nhận ra và hối hận, thì thường đã muộn quá rồi. Ấy là chưa kể tới những kẻ, cho đến khi đã “về vườn”, đã rời khỏi chiếc ghế lãnh đạo, thậm chí sắp đi sang thế giới bên kia, mà vẫn không nhận ra, không hối hận. Thật quả có như vậy, xin thưa!

Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm Chiến thắng 30/4

Lễ diễu binh, diễu hành chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh sáng 30/4/2015.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Mở đầu là chương trình nghệ thuật do các nghệ sỹ biểu biễn với chủ đề “Việt Nam-Nước non liền một dải”.
Trực tiếp lễ diễu binh 40 năm thống nhất đất nước
Chương trình Lễ diễu binh, diễu hành chào mừng kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2015) bắt đầu.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên Lễ đài
Đến dự buổi lễ có các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc; đại diện nước CHDCND Lào, Campuchia, Cộng hòa Cuba; đại diện lãnh đạo TP Hồ Chí Minh; lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước; các khối diễu binh, diễu hành cùng đông đảo nhân dân TP Hồ Chí Minh, các địa phương; các đoàn khách quốc tế; các phóng viên quốc tế và trong nước…
Mở đầu buổi lễ, thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Theo kế hoạch, cuộc diễu binh bắt đầu bằng chiếc xe mang mô hình Quốc huy trên nền trống đồng, xung quanh là 54 nam, nữ thanh niên đại diện cho 54 dân tộc anh em.
Tiếp theo là khối cờ Đảng, cờ Tổ quốc, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, mô hình xe tăng 390 – chiếc xe húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975.
Tiếp đó là phần diễu binh của các lực lượng vũ trang Quân đội nhân dân Việt Nam với các khối quân nhạc, khối quân kỳ đại diện cho 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn, khối chiến sỹ giải phóng quân, sỹ quan lục quân, phòng không-không quân, hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, sỹ quan thông tin, bộ binh, đặc công biệt động, trinh sát đặc nhiệm, thanh niên xung phong, tự vệ, dân quân, du kích…
Lực lượng Công an nhân dân với các khối sỹ quan, cảnh sát, cảnh sát giao thông, cảnh sát cơ động, phòng cháy chữa cháy, sỹ quan Công an thành phố Hồ Chí Minh, công an xã…
Cuối cùng là phần diễu hành của khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể như cựu chiến binh, công nhân, nông dân, thanh thiếu niên- nhi đồng, phụ nữ, khối tri thức và doanh nhân…
Đoàn diễu binh, diễu hành đi qua khu vực lễ đài và khu vực Hội trường Thống Nhất, sau đó vòng về đường Nam Kỳ Khời Nghĩa, đường Nguyễn Thị Minh Khai…
Lễ diễu binh, diễu hành chào mừng 40 năm ngày Giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước sẽ bắt đầu từ 7h00 sáng ngày 30/4/2015 tại TP. Hồ Chí Minh lịch sử.
Đoàn diễu binh ngày 30/4 tại TP.HCM xuất phát từ đầu đường Lê Duẩn (cổng chính của Thảo Cầm Viên), sau đó tiến thẳng về hướng Dinh Thống Nhất… Với khoảng 6.000 người tham gia, đây được coi là một trong những đợt diễu binh lớn nhất trong nhiều năm trở lại đây tại TP.HCM.
Theo Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, buổi lễ diễu binh tại TP.HCM sẽ bắt đầu vào 6h30′ ngày 30/4. Đoàn diễu binh xuất phát từ đầu đường Lê Duẩn (cổng chính của Thảo Cầm Viên), sau đó tiến thẳng về hướng Dinh Thống Nhất.
Khi tới đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa đoàn sẽ chia làm hai, một nửa rẽ phải, khi ra đến đường Nguyễn Thị Minh Khai tiếp tục rẽ phải rồi tập trung tại sân vận động Hoa Lư. Nửa còn lại sẽ rẽ trái và đi về hướng đường Hàm Nghi sau đó tập trung tại đường Tôn Đức Thắng.
Cũng theo Trung tướng Nghĩa, tham gia đoàn diễu binh sẽ có 38 khối đại diện cho đầy đủ các quân chủng, binh chủng của Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân. Mỗi khối sẽ có 100 chiến sĩ, tương đương với 3.800 người.
4h00: Hình ảnh chuẩn bị trước buổi lễ diễu binh, diễu hành




6h30: Công tác chuẩn bị cho lễ diễu binh chính thức lúc 7h00 

Khu vực của các vị đại biểu dự Lễ Diễu binh
PV báo chí đã sẵn sàng tác nghiệp
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tới Lễ Diễu binh
7h00: Các hoạt động trong Lễ Diễu binh diễn ra



7h05′, đang diễn ra Lễ Chào cờ.
Kế tiếp đó là phần giới thiệu các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam tới dự Lễ Kỷ niệm 40 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngoài ra còn có các vị quan khách quốc tế tới dự Lễ Kỷ niệm.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham dự buổi lễ: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng lãnh đạo cấp cao nước Cộng hòa nhân dân Lào, Vương quốc Campuchia, Nước Cộng hòa Cuba…
7h10′: Tuổi trẻ TP.HCM đón chào buổi lễ


7h20′: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang đọc bài phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 40 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Phát biểu tại buổi lễ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Đại thắng mùa xuân năm 1975 là một trang sử vẻ vang của dân tộc, đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ban Biên Tập

Kinh tế Việt Nam – 40 năm hội nhập và phát triển

40 năm thống nhất đất nước, trên hành trình đổi mới, hội nhập và phát triển, Việt Nam đã khẳng định bản lĩnh và trí tuệ, vượt qua khó khăn, đạt những thành quả kinh tế to lớn. Nhân dịp này, báo Tin Tức trân trọng giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Minh Phong.
Quy mô và cơ cấu nền kinh tế không ngừng cải thiện
Năm 2014, Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch đã nâng xếp hạng nhà phát hành nợ nội tệ và ngoại tệ dài hạn của Việt Nam từ B+ lên BB-. Nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) cũng được tăng bậc xếp hạng cả theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Đây là kết quả hội tụ và cộng hưởng bởi Việt Nam ngày càng cải thiện các quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, có sự ổn định chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô; ngày càng chủ động giảm thuế và điều kiện tín dụng, thủ tục hành chính, quỹ đất, nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng dịch vụ công; mở rộng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), nới “room” và tăng tự do hóa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân…
Kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ sau 40 năm ngày thống nhất đất nước. Những công trình giao thông mang dấu ấn thời đại liên tiếp mọc lên.
Nền tảng pháp lý cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng nền kinh tế thị trường, hiện đại và hội nhập, có sự quản lý của Nhà nước ngày càng đồng bộ và vững chắc, thông thoáng, tuân thủ nghiêm túc các cam kết hội nhập, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng và sở hữu tài sản hợp pháp, tạo thuận lợi kinh doanh cao nhất cho doanh nghiệp trong các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; từng bước hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, đồng thời có sự gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế.
Nhà nước ngày càng hạn chế can thiệp hành chính trực tiếp, thay bằng các công cụ pháp luật và kinh tế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; giám sát và giảm thiểu tác động tiêu cực của thị trường; thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và tuân thủ các cam kết hội nhập. Cải cách hành chính ngày càng quyết liệt, đi vào chiều sâu, thực chất hơn nên gánh nặng về chi phí tài chính và lãi suất của DN ngày càng giảm.
Nhờ vậy, tăng trưởng GDP bình quân từ 4,4%/năm ở giai đoạn 1986-1990 đã nâng lên mức trên 7,34%/năm trong giai đoạn 1991-2005 và khoảng 6%/năm trong 10 năm qua. Đặc biệt, từ năm 2010, đất nước với 90 triệu dân đã chính thức ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, với cơ cấu kinh tế ngày càng cân đối: Năm 2014, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 18,12%, công nghiệp và xây dựng chiếm 38,50%, dịch vụ chiếm 43,38%; so với năm 1986 tỷ lệ tương ứng là: 38,06%-28,88%-33,06%.
Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển nhanh, hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 90% số việc làm và 39% tổng đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn 2008-2013, đã có 457.000 DN được thành lập mới, tăng 30% so với cả giai đoạn 1991-2007.
Hệ thống các DNNN được sắp xếp lại và ngày càng hoạt động bình đẳng với các khu vực kinh tế khác, thu hẹp những lĩnh vực độc quyền nhà nước. Hiện nay, còn 949 DN 100% sở hữu nhà nước (so với trên 12.000 những năm 1990), tổ chức dưới dạng công ty TNHH một thành viên; 32 tỉnh không còn DNNN kinh doanh thuần túy.
Ngoài ra, có trên 90% đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. 13.000 hợp tác xã được đổi mới, phù hợp hơn với cơ chế thị trường và các nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Một số hợp tác xã hoạt động hiệu quả, tạo lòng tin, mang lại lợi ích cho xã viên, góp phần giải quyết việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động.
Hệ thống ngân hàng từ một cấp đã chuyển thành hai cấp từ năm 1988, từng bước được tái cơ cấu toàn diện, lành mạnh hóa và hiện đại hóa, với 1 ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 NHTM Nhà nước sở hữu 100% vốn hoặc cổ phần chi phối, 37 NHTM cổ phần, 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 17 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính, 1 NHTM Hợp tác xã, hơn 1.080 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và 2 tổ chức tài chính vi mô… Chính sách tiền tệ ngày càng chủ động, linh hoạt và góp phần củng cố niềm tin vào đồng nội tệ; tăng dự trữ ngoại tệ; giảm lạm phát và lãi suất, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối.
Kinh tế đối ngoại phát triển cả bề rộng và bề sâu
Việt Nam hiện đã có quan hệ ngoại giao với 170 nước (13 nước là đối tác chiến lược); đã ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế; có quan hệ thương mại với trên 230 nước và vùng lãnh thổ; có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; đã ký 8 Hiệp định thương mại tự do (FTA); kết thúc đàm phán 2 FTA và đang đàm phán 6 FTA khác. Hiện đã có 45 nước công nhận Việt Nam có quy chế kinh tế thị trường.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có nhiều tiến bộ. Với ưu thế ổn định chính trị, lao động, vị thế địa kinh tế và môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, Việt Nam đang đứng trước cơ hội đón làn sóng FDI chuyển dịch các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ từ các nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu ngành đầu tư ngày càng phù hợp với mục tiêu thu hút FDI.
Năm 2014, cả nước có 1.843 dự án FDI mới, với tổng vốn đăng ký là 16,5 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2013. Lũy kế đến hết tháng 7/2014, cả nước có gần 17.000 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký trên 240 tỷ USD, lượng vốn thực hiện khoảng 110 tỷ USD. Hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư tại Việt Nam; trong đó có 16 nước và vùng lãnh thổ có vốn đăng ký (còn hiệu lực) đạt trên 1 tỷ USD (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Nga, Đức, Pháp, Australia…). Tất cả 63 tỉnh thành của cả nước đều có vốn FDI, trong đó có 27 tỉnh thành có số vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD.
Khu vực FDI hiện đã chiếm trên 18% GDP và 46,3% giá trị sản xuất công nghiệp, 66,2% kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm trực tiếp cho trên 1,7 triệu lao động. Hiện có gần 30 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD. Tổng vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ năm 1993 đến nay đạt trên 78 tỷ USD vốn cam kết, trên 40 tỷ USD giải ngân. Việt Nam nằm trong top 10 nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới và tăng đều qua các năm, với trên 12 tỷ USD năm 2014.
Từ nước nhận đầu tư một chiều, gần đây, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cũng tăng nhanh. Tính đến 31/12/2014, đã có 930 dự án của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, với tổng vốn đăng ký là 14,85 tỷ USD. Cùng với đó, 92 dự án đăng ký tăng vốn thêm là 4,93 tỷ USD, nâng tổng vốn đầu tư đăng ký (cả cấp mới và tăng thêm) là 19,78 tỷ USD. Riêng năm 2014, tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài (gồm cấp mới và tăng vốn) là trên 1,786 tỷ USD.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Tốc độ tăng xuất khẩu gần như liên tục đạt 2 chữ số. Kim ngạch xuất khẩu năm 2014 cao gấp 187 lần năm 1985, đạt 150 tỷ USD. Quy mô xuất khẩu bình quân đầu người năm 2014 gấp 125 lần năm 1985. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP năm 1985 mới đạt 5%, năm 2013 đạt trên 75%, cao hơn tỷ lệ của Đông Nam Á, cao gấp ba lần tỷ lệ của châu Á, đứng thứ 5 trên thế giới.
Việt Nam có trên 20 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD và đứng thứ hạng cao trên thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, điện thoại di động, máy vi tính, sản phẩm điện tử, máy ảnh… Từ năm 2012, Việt Nam đã chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu, từ 284 triệu USD năm 2012, lên 863 triệu USD năm 2013 và khoảng 2 tỷ USD trong năm 2014.
Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong.
(Theo Tin Tức)

Sài Gòn sau 1975 và tinh thần hòa giải Võ Văn Kiệt

Thật khó tưởng tượng trong những năm đầu sau ngày giải phóng, nếu không phải là ông Kiệt lãnh đạo thành phố này thì làm sao cái xã hội ly tan thời hậu chiến này có thể ổn định, lòng người được thu phục.
Ông cho nhiều người dân cái cảm tưởng thân phận của họ không bị bỏ quên, ông mang lại cho họ sự yên tâm và lối thoát. Ông biết lắng nghe, lắng nghe nguyện vọng của người dân và tiếng nói của giới trí thức.
Từ “Nhóm thứ sáu”…
Những năm phụ trách TP.HCM, từ năm 1975 ông Kiệt đã chỉ đạo thành lập Hội Trí thức yêu nước do anh Huỳnh Kim Báu làm tổng thư ký. Đến năm 1986, ông đã mời gọi nhiều chuyên gia kinh tế, trong đó có nhiều vị đã từng làm việc cho chế độ cũ, tham gia tư vấn cho ông dưới tên gọi “Văn phòng công tác nghiên cứu kinh tế thuộc bí thư Thành ủy”.
Ông Phan Chánh Dưỡng kể lại: “Các anh em tham gia nhóm tư vấn này tự đặt tên là “nhóm thứ sáu” vì thường nhóm họp trao đổi ý kiến, báo cáo chuyên đề với ông Sáu Dân vào thứ sáu hằng tuần”.
Đập tan bức tường ngăn cách
Khi thấy văn phòng kinh tế này hoạt động có ích, ông liền gợi ý cho giáo sư Trần Đình Bút và tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh lập ra “Hội Khoa học kinh tế và quản lý” nhằm thu hút nhiều hơn nữa trí thức thành phố vào cuộc; không phân biệt nguồn đào tạo, từ các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, miễn là có nhiệt tình và năng lực đóng góp.
Cho đến năm 1989, thời điểm Đảng đổi mới mạnh mẽ về kinh tế, ông Kiệt đã quy tụ đội ngũ trí thức trong cả nước tích cực nghiên cứu được nhiều vấn đề đổi mới tư duy kinh tế, về cải cách các lĩnh vực ngân hàng, tài chính công, tiết kiệm quốc gia và đầu tư nước ngoài, ngoại thương và quan hệ quốc tế…
Ông Nguyễn Văn Hảo – nguyên phó Thủ tướng chính quyền Sài Gòn – đã tâm sự với bà Tôn Nữ Thị Ninh rằng: “Vì anh Sáu, tôi mới ở lại VN sau 1975, và sau khi ra đi rồi trở về VN giữa thập niên 1990, tôi trở về cũng vì anh Sáu!”.
Đến khi ra Hà Nội, ông là vị Thủ tướng đầu tiên tập hợp trí thức, chuyên gia, lập nên tổ tư vấn cho Thủ tướng về cải cách kinh tế và cải cách hành chính, gọi tắt là “Tổ tư vấn cải cách cho Thủ tướng”. Tổ tư vấn cải cách gồm nhiều chuyên gia, trí thức tài giỏi trong và ngoài nước. Mỗi người trong tổ tư vấn cải cách được gửi kiến nghị, đề án hoặc trình bày trực tiếp với Thủ tướng ý kiến của mình.
Ông Sáu Dân đã thể hiện tính khiêm cung khi từng nói với GS Trần Đình Bút và nhóm chuyên gia tư vấn cho ông trong những năm ở TP.HCM: “Mong anh em hãy coi mình như người học trò, thấy mình làm gì hoặc nói gì chưa đúng thì cứ nói: “Sáu Dân ơi, sai rồi” và phân tích cho mình biết cái sai, tốt hơn nữa là vạch cho mình biết phải sửa ra sao…”.
“Tất cả vì lợi ích của đất nước mà. Tinh thần yêu nước của các bạn, và nếu là đảng viên, thì ý thức xây dựng Đảng là ở chỗ đó…Tôi cần nghe những ý kiến phản biện của các bạn. Phát huy chức năng độc lập tư duy và phản biện của người trí thức, theo tôi, là một yêu cầu trọng yếu của đất nước đối với giới trí thức, phải không nào”.
Ông Sáu Dân cũng từng nói trên báo Tuổi Trẻ năm 2006 về “bí quyết lãnh đạo” của ông:“Nghe kỹ, nghe ngược, nghe xuôi các nhà quản lý (nghe xốn lỗ tai cũng được!) trước khi quyết định. Và khi quyết định rồi thì đừng đưa tay ra sau sờ ghế mình đang ngồi”.
Không ai chọn cửa để sinh ra
Tư tưởng và chính sách đại đoàn kết dân tộc, hòa hợp hòa giải dân tộc của ông đã thể hiện xuyên suốt từ khi ông lãnh đạo TP.HCM cho đến cuối đời. Ông thấu hiểu rằng thống nhất nhân tâm để đi đến đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh VN.
Vào năm 2008, khi trao đổi với những người cộng sự của ông về kết quả làm việc với các đoàn Việt kiều mà ông đã giới thiệu với các tổ chức nhân đạo TP.HCM, ông Sáu Dân đã dặn dò:“Nhiều người có thể có xu hướng chính trị khác nhau, nhưng cái tâm vì đất nước, vì người nghèo của anh chị em thì chúng ta trân trọng. Hòa hợp, hòa giải dân tộc bây giờ tạo nên sức mạnh lớn lắm!”.
Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết để hóa giải những vướng mắc và đi đến hòa hợp dân tộc.
Vào những năm 1978-1979, khi có nhiều trí thức bị bắt giam vì vượt biên, chính ông Kiệt đã đích thân đến các trại giam bảo lãnh cho các ông này được tự do và sau đó ông Kiệt còn giao cho những người thân cận đi xin cấp lại hộ khẩu và sổ lương thực cho họ.
Trong giới trẻ Sài Gòn và miền Nam vào những năm đầu sau ngày giải phóng đã nổi lên một vấn đề còn lớn hơn chuyện cơm áo, gạo tiền, đó là vấn đề lý lịch gia đình. Hàng trăm ngàn bạn trẻ là con em sĩ quan, công chức chế độ cũ, gia đình tư sản và kể cả nhiều thanh niên từng khoác áo lính Sài Gòn. Khi thi tuyển vào đại học hoặc đi xin việc làm ở công sở, họ thường bị gạt bỏ, bị phân biệt đối xử bởi lý do “lý lịch không trong sạch”!
Nắm bắt được tâm tư này, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã chủ động đề cập thẳng điều đó ngay tại Đại hội Đoàn TNCS TP.HCM tháng 7-1977: “… Lẽ tất nhiên hoàn cảnh gia đình, xã hội không thể không ảnh hưởng ít hay nhiều đến tư tưởng và tình cảm mỗi con người chúng ta. Nhưng ta phải thấy rằng khi tuổi trẻ đã đi vào cách mạng là bước đầu vượt qua mọi níu kéo, ràng buộc của quá khứ. Bởi vì kinh nghiệm cho thấy số đông bạn trẻ chúng ta dễ tiếp thu cái mới và khi tìm ra lẽ sống, họ dám sống đến cùng.”
“Thế hệ trẻ đang lớn lên ở TP ta, ra đời từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau, chịu ảnh hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa để sinh ra. Đối với mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nhìn họ như nhau, cùng là những người chủ tương lai của TP. Xã hội muốn tuổi thanh xuân không mặc cảm và rất thanh thản trong tâm hồn. Không phân biệt đối xử trên con đường đi tới… Xã hội phải đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này, ai ai cũng có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Vì lợi ích của toàn xã hội, chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm tiêu chuẩn, không để quá khứ ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và hoài bão cống hiến của mỗi người trẻ tuổi”.
Phát biểu của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã như một thông điệp về đại đoàn kết-hòa hợp-hòa giải dân tộc. Câu nói nổi tiếng “Không ai chọn cửa để sinh ra“ lại một lần nữa vang lên trong buổi ông nói chuyện với hàng chục ngàn thanh niên ở công viên Tao Đàn. Phát biểu đó được đăng tải nguyên văn trên báo Tuổi Trẻ số ngày 30-9-1977, đã tác động rất tích cực đến tâm tư tình cảm của giới trẻ Sài Gòn.
Đến lúc nghe chú Sáu Dân nói những lời này như “xã hội phải đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này…”, chúng tôi mới ngộ ra tấm lòng của chú đối với lớp trẻ Sài Gòn, ẩn sau chủ trương thành lập lực lượng thanh niên xung phong (TNXP) của ông: công việc kiến thiết đất nước, phục hồi sản xuất sau chiến tranh cần có sự chung tay của đông đảo những người lao động trẻ. Họ được mời gọi gia nhập lực lượng TNXP với tiêu chí duy nhất là tự nguyện, bất kể lý lịch xuất thân. Chính hình thức tổ chức “lực lượng TNXP” đã trở thành cánh cửa mở rộng lối vào đời cho hàng vạn bạn trẻ dù xuất thân từ đâu.
(Theo Tuổi trẻ)

Chuyện chưa kể phía sau bức ảnh “Hai người lính”

Họ là hai người lính ở hai bên chiến tuyến. Một người là bộ đội miền Bắc, người kia là lính thủy quân lục chiến của miền Nam. 
Cả hai cùng đóng quân tại vùng ranh giới Long Quang, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Trong một buổi chiều tạm yên tiếng súng, họ cùng choàng vai nhau chụp chung một bức hình kỷ niệm.
Khoảnh khắc này được ông Chu Chí Thành, phóng viên ảnh của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), ghi lại vào thời điểm tháng 4-1973. Hơn 40 năm sau, tác giả bức ảnh đã cất công đi tìm lại nhân vật của mình…
Tấm ảnh lịch sử
Ông Chu Chí Thành nay đã ngoài tuổi thất tuần, vẫn còn rất minh mẫn. Trong ngôi nhà có phần cũ kỹ của ông ở một con hẻm trên đường Minh Khai (Hà Nội), rất nhiều bức ảnh về cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc được ông trưng bày.
Nằm ngay ở vị trí trang trọng nhất trong phòng riêng của ông là bức ảnh được phóng khá to về hai người lính khoác vai nhau – một người mặc quân phục bộ đội giải phóng, người còn lại mặc quân phục thủy quân lục chiến của quân đội Việt Nam cộng hòa. Sau lưng hai người là trảng cát rộng của vùng giới tuyến trải dài hơn 2km.
Họ là hai người lính ở hai bên chiến tuyến đã choàng vai nhau chụp chung một bức hình kỷ niệm
Ông Chu Chí Thành trầm ngâm một lúc lâu như để lục lại ký ức về khoảnh khắc này hơn 40 năm về trước. “Lúc đó, tôi cùng anh Trần Mai Hưởng, cũng là phóng viên của TTXVN, đến chốt Long Quang. Thật bất ngờ về tất cả những gì đang diễn ra ở đây” - ông Thành nói.
Đó là thời điểm tháng 4-1973, tức chỉ khoảng hơn một tháng sau ngày hiệp định Paris được ký kết. Chiến sự được tạm dừng ở vùng ranh giới hai miền. Ông Thành vẫn nhớ rất rõ thời điểm ông đến chốt Long Quang, ở hai bên ranh giới vẫn chĩa súng về phía nhau.
Tuy nhiên, đến buổi chiều thì mọi chuyện hoàn toàn thay đổi. Một nhóm bộ đội miền Bắc ra vẫy tay gọi í ới vào chốt của quân đội miền Nam ở bên kia ranh giới, mời mấy anh em qua bên này uống nước chè xanh.
“Tôi cứ ngỡ là chuyện đùa. Nhưng mấy phút sau một nhóm bốn năm người lính cộng hòa kéo dây ranh giới để qua chốt của quân giải phóng” – ông Thành kể chậm rãi.
Hai bên bắt tay, chia nhau chén nước chè xanh, hút chung điếu thuốc lá Điện Biên và cùng trò chuyện cười đùa. Những người lính phía miền Nam nói giọng miền Nam cũng mang sang một chai rượu nếp đen làm quà cho bộ đội miền Bắc.
Một anh lính thủy quân lục chiến thấy ông Chu Chí Thành cầm máy ảnh nên gọi: “Nhà báo ơi, chụp cho tôi với anh bộ đội giải phóng tấm hình kỷ niệm”.
Nói rồi, hai người lính đến khoác vai nhau tươi cười hồn nhiên. Bấm xong mấy bức hình, ông Thành đứng trân người đến mức quên mất chuyện hỏi tên tuổi của hai người lính.
“Cách đó mấy cây số về phía nam súng vẫn đang nổ, nhưng tại điểm ranh giới này họ nói chuyện với nhau rôm rả, không giống những người lính ở hai bên chiến tuyến. Nhìn cái cách mà hai người lính ấy choàng tay nhau, tôi biết rằng ngày đất nước thống nhất đã sắp đến” – ông Thành xúc động.
Tìm người trong ảnh
Ông Thành ở vùng giới tuyến giai đoạn này hơn ba tháng mới về Hà Nội. Từ lúc chụp bức ảnh tại chốt Long Quang cho đến khi về rửa phim, tráng ảnh xong, ông mới sững người vì đã quên hỏi tên của hai người lính đó.
Tấm ảnh được ông giấu kỹ cho đến năm 2007 mới công bố. Ông đặt tên cho tấm ảnh là Hai người lính. Dù ảnh đã có tên, nhưng ông Thành nói vẫn cứ luôn canh cánh trong lòng một nỗi niềm. Ông thấy mình như còn mắc nợ vì cái sự “quên” đáng trách đó nên quyết đi tìm thông tin về hai người lính.
Ông mang tấm ảnh tìm đến những người bạn từng chiến đấu tại chiến trường thành cổ Quảng Trị giai đoạn từ 1972-1973 để hỏi. Hết người này đến người khác đều lắc đầu. “Ai cũng nói chiến tranh bom đạn ác liệt, chỉ những người cùng tiểu đội mới biết nhau. Có người cùng đơn vị chưa kịp hỏi tên nhau đã hi sinh”.
Ông Chu Chí Thành – nguyên chủ tịch Hội Nhiếp ảnh Việt Nam, nguyên phóng viên ảnh TTXVN, tác giả của bức ảnh Hai người lính – trước hội trường Thống Nhất, TP.HCM chiều 26-4 – Ảnh: Thuận Thắng
Cách đây mấy năm, ông có quen một nữ phóng viên, ông cũng đưa tấm ảnh cho cô này nhờ đưa lên mạng Internet để “may có người biết”.
Tính đến khi chúng tôi tìm gặp ông, đã hơn 40 năm sau khoảnh khắc ấy và cũng đã hơn chục năm ông tìm kiếm, nhưng vẫn vô vọng.
Gặp chúng tôi, ông cũng không quên gửi gắm nỗi lòng của mình, có cách gì tìm giúp ông. Và chúng tôi đã cất công đi tìm. Thật may mắn, trong khi tìm về điểm chốt Long Quang (Quảng Trị) ngày ấy, chúng tôi đã gặp được một manh mối.
Ông Phan Tư Kỳ, nguyên là xã đội trưởng xã Triệu Trạch thời điểm năm 1972-1973, xem kỹ bối cảnh tấm ảnh rồi dẫn chúng tôi ra lại đường ranh giới hai miền giữa trảng cát năm nào để xác định vị trí nơi ra đời tấm ảnh.
Đây là vị trí mà vào thời điểm sau hiệp định Paris, trung đoàn 48 thuộc sư đoàn 320 đóng quân. Nhưng có đến năm đại đội thuộc hai tiểu đoàn được rải quân theo từng nhóm đóng chốt dọc theo đường ranh giới dài hơn 2km.
“Tôi chỉ biết chừng đó. Không thể nhớ được là người trong ảnh thuộc đại đội nào” - ông Kỳ lắc đầu.
Ông Lê Vũ Bằng, nguyên ủy viên Ủy ban xã Triệu Trạch, phụ trách binh vận tại chốt Long Quang thời điểm đó, dù “thấy quen quen” nhưng cũng không nhớ là ai. Liên lạc với một số cựu binh thuộc trung đoàn 48 thời điểm ấy tại Quảng Trị nay ở Hải Phòng, Thanh Hóa, Thái Bình, chúng tôi cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu.
Đã tìm được người bộ đội
Trời Quảng Trị trở gió bấc khi dịp kỷ niệm 40 năm ngày đất nước thống nhất đến gần. Cuộc điện thoại ngắn ngủi thông báo cho ông Chu Chí Thành về kết quả tìm kiếm không được như ý vừa dứt trong tiếng thở dài tiếc nuối, thì một cuộc điện thoại khác bất ngờ đến.
Điện thoại từ ông Phan Tư Kỳ. “Có manh mối rồi. Ngày mai có một đoàn cựu binh C5 (đại đội 5, tiểu đoàn 2, trung đoàn 48) ở Thạch Thất (Hà Nội) sẽ ghé về Long Quang thăm chiến trường xưa” – ông Kỳ reo lên.
Đúng 9g sáng 21-4, chiếc ôtô chở đoàn cựu binh vừa đến Long Quang, ông Phan Tư Kỳ mang theo bức hình của chúng tôi chạy ra đưa cho đoàn. Hơn 20 người lính C5 chuyền tay nhau bức ảnh và lục lại ký ức hơn 40 năm trước. Ai cũng nói thấy người bộ đội trong bức ảnh quen mặt nhưng không nhớ là người nào.
Trong buổi trưa cùng ngày, bức ảnh được những cựu binh này chuyển đi khắp tất cả các ban liên lạc của trung đoàn 48 tại các tỉnh thành trong cả nước qua đường Internet. Đúng 16g40 cùng ngày, một cuộc điện thoại lạ bất ngờ đến. Đó là ông Đỗ Bê, nguyên là đại đội trưởng đại đội 5, tiểu đoàn 2, trung đoàn 48.
Ông Bê khẳng định người trong bức hình chính là lính của đại đội mình năm ấy. Để chúng tôi chắc chắn, ông Bê nối điện thoại cho chúng tôi gặp ông Đỗ Thành Chấm, là một người lính của đại đội 5.
Ông Chấm khẳng định người bộ đội trong bức hình này là bạn thân của ông từ thời niên thiếu ở thôn 2, Kim Quan, Thạch Thất, Hà Nội, tên là Dương Minh Sắc, sinh năm 1954. Hai người nhập ngũ cùng ngày và ở cùng đơn vị nhiều năm.
Tuy nhiên, ông Chấm thở dài: “Tiếc là Sắc đã mất vì bệnh nặng cách đây mấy năm”. Lần theo địa chỉ của ông Chấm đưa, chúng tôi vào Huế tìm vợ của ông Sắc. Bà Đỗ Thị Thim, vợ ông Sắc, vào Huế sống với anh trai là một cựu chiến binh người Thái Bình hiện kinh doanh khách sạn ở đây.
Tay run run cầm bức ảnh chúng tôi đưa, bà Thim chạy vào tủ lấy ra một tập hình kỷ niệm của vợ chồng đem ra so sánh. “Đây, cái mũi và cặp mắt này thì không lẫn đâu được. Đúng là ông Sắc nhà tôi thời trẻ” – bà Thim nói.
Theo bà Thim, hai ông bà gặp nhau tại Nga khi cả hai cùng đi xuất khẩu lao động năm 1990, một năm sau thì cưới nhau và sinh con. Thời điểm bà gặp ông Sắc cách thời điểm chụp bức ảnh này đến 17 năm sau nên ngoại hình ông có nhiều thay đổi.
Nhưng những nét trên khuôn mặt này rất khó nhầm lẫn. Khi lấy nhau, ông Sắc cũng kể cho bà nghe rất nhiều về cuộc chiến ác liệt ở Quảng Trị, nhưng ông chưa một lần kể về việc chụp bức ảnh này.
“Những ngày ở Nga ông ấy cũng hay kể chuyện chiến trường. Có lúc kể về giai đoạn sau hiệp định Paris mới thấy ông vui hơn một chút. Bởi khi đó, lính hai bên tại vùng giáp ranh qua lại với nhau rất bình thường. Văn công về biểu diễn bên này thì cũng gọi lính bên kia qua xem chung” – bà Thim nói.
Năm 2008, tức gần một năm trước khi mất, ông Sắc cứ nằng nặc đòi về thăm lại chiến trường xưa Quảng Trị.
Và sau khi thỏa nguyện ước mong này, ông qua đời. “Chồng tôi chỉ có hình ảnh từ thời điểm năm 1990 trở về sau. Khi đó anh Sắc đã 37 tuổi. Không ngờ anh lại còn một hình ảnh ở tuổi 20 như thế này” – bà Thim nói.
Theo Tuổi trẻ

Chủ tịch Hồ Chí Minh với những dự báo thắng lợi cuối cùng của Việt Nam

Nhân kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, VietnamPlus trân trọng giới thiệu bài viết “Hồ Chí Minh với những dự báo chiến lược về thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” của giáo sư-tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc lập trưa ngày 30/4/1975″.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vai trò cực kỳ quan trọng và có tầm ảnh hưởng to lớn đến thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Người là kiến trúc sư hoạch định đường lối chống Mỹ với lộ trình, bước đi rất cụ thể, sáng tạo; đồng thời cũng là linh hồn tổ chức thực hiện đường lối chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 12/5/1975, gần hai tuần sau khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, trên Tạp chí Time của Mỹ có đăng bài viết với tựa đề “Lời tạm biệt nghiệt ngã cuối cùng” bình luận về thắng lợi của nhân dân Việt Nam và vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã khẳng định: “Cuối cùng quân đội Giải phóng đã tràn vào Sài gòn, giương cao lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời, bắt giữ tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu của Nam Việt Nam. Đối với nhiều người Mỹ, đây là cái chết đã chờ đợi bao lâu, nhưng khi nó đến thì vẫn bị choáng váng. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã chiến thắng. Nước Mỹ từ đây sẽ phải điều chỉnh lại đường hướng của mình trên thế giới, nhưng không dễ mà “bỏ Việt Nam lại phía sau.”
Nhận xét này hoàn toàn chính xác. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một tất yếu lịch sử đã được báo trước mà người đưa ra dự báo đó không ai khác chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng kiệt xuất, để lại dấu ấn sâu đậm và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển Việt Nam và thế giới thời hiện đại. Người có một nhãn quan chính trị nhạy bén, sắc sảo và một tầm nhìn vượt trước thời gian. Trong cuộc đời hoạt động sáng tạo, bão táp cách mạng, trên cơ sở am hiểu tường tận lịch sử-văn hóa dân tộc, dịch học phương Đông, phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh đã có những dự báo thiên tài. Dự báo của Người về thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là một trong số những dự báo như vậy.
Điều này thể hiện ở những nhận định, quyết đoán nhất quán trong tiến trình vận động thời cuộc, bắt đầu từ những năm năm mươi cho đến khi Người qua đời.
Tìm hiểu dự báo chiến lược về thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những giúp ta hiểu giá trị to lớn về dự báo thiên tài của Người, mà còn là cơ sở để nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, góp phần đấu tranh phê phán một số quan điểm cho rằng dự báo đó là không có căn cứ, chỉ là lời động viên “thuần túy” của các nhà lãnh tụ, là “khẩu hiệu tuyên truyền” trong nhân dân trước cuộc chiến “không cân sức,” “không biết ngày nào ra.” Nếu có thắng lợi cũng chỉ là “ăn may.” Trái lại, dự báo nhất quán của Hồ Chí Minh là hoàn toàn khoa học
Hồ Chí Minh – Người nắm bắt đúng xu thế vận động phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam
Vào đầu những năm năm mươi, phân tích xu thế phát triển thời đại, bản chất, dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã tiên liệu: Sớm hay muộn, Mỹ sẽ trực tiếp tham dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương; kẻ thù lâu dài của cách mạng nước ta sẽ là đế quốc Mỹ với tư cách là cường quốc hùng mạnh của thế giới.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (7/1954), nhân dân Việt Nam phải đối phó với một kẻ thù mới, nguy hiểm là đế quốc Mỹ. Nắm bắt được xu thế vận động tất yếu của cách mạng, Hồ Chí Minh dự báo: Đế quốc Mỹ âm mưu muốn kéo dài chiến tranh ở Đông Dương, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tìm cách hất cẳng Pháp để độc chiếm Việt Nam. Tranh lấy hòa bình lúc này không phải dễ ràng, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ, phức tạp. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (1/1959), Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi vì Đảng ta và nhân dân ta có đủ sức khắc phục khó khăn, chỉ cần nhân dân ta đoàn kết một lòng, trước hết là đoàn kết trong Đảng thì mọi khó khăn sẽ vượt qua.
Dự báo trên của Hồ Chí Minh xuất phát từ thực tiễn Việt Nam bước vào giai đoạn mới (sau 1954 cách mạng gặp vô cùng khó khăn). Mỹ-Diệm tập trung đàn áp cách mạng, chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét qua các chiến dịch “tố cộng,” với khẩu hiệu “đạp lên oán thù, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót,” “dĩ đảng trị đảng,” “dĩ dân trị dân.” Hàng trăm cán bộ đảng viên và quần chúng yêu nước bị sát hại. “Trong vòng 10 tháng (7/1955 đến 5/1956) chúng đã bắt và giết 108.835 người dân Việt Nam.”
Cơ sở thực tiễn trên khẳng định Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước tính chất gay go quyết liệt của cách mạng Việt Nam. Theo quy luật ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Thắng lợi của nhân dân miền Nam qua phong trào đồng khởi 1960 đã làm xoay chuyển cục diện trên chiến trường miền Nam, từ chỗ giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công, đẩy chính quyền Mỹ-Ngụy vào thế bế tắc, mở ra một bước ngoặt mới cho cách mạng miền Nam.
Dấu mốc của những dự báo chiến lược thiên tài
Dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh là dự báo nối tiếp của những dự báo trước đó. Sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ (7/1954), Hồ Chí Minh nói: “Mỹ đang biến thành kẻ thù trực tiếp” của nhân dân Việt Nam. Tại thời điểm lịch sử lúc đó, việc nhận rõ kẻ thù của cách mạng thật không đơn giản chút nào. Hồ Chí Minh dự báo tiếp: Mỹ vào thay Pháp, kẻ thù mới còn hung ác hơn nhiều. Người nhắc nhở cán bộ đảng viên và nhân dân phải luôn cảnh giác.
Năm 1960, nhân ngày Quốc khánh lần thứ 15 của nước ta, Người lại dự báo: Chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà. Tháng 12 năm 1962, ông Phùng Thế Tài, Tư lệnh, kiêm Chính ủy Quân chủng Phòng không-Không quân được Bác Hồ hỏi: Chú biết gì về B52 chưa? và dặn lại phải theo dõi chặt chẽ, thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B52. Vào cuối năm 1967, đầu năm 1968, Hồ Chí Minh dự báo: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến mọi tình huống càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.”
Dự báo nối tiếp của những dự báo. Dự báo trước làm cơ sở, tiền đề cho dự báo sau. Kết quả thắng lợi từng phần của cách mạng cho thấy đó là một thực tiễn sinh động, một căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa nhưng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định sẽ cút khỏi nước Việt Nam. Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Đó là một điều chắc chắn.
Cơ sở khoa học của những dự báo và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam anh hùng
Sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam nhất định được phát huy cao độ. Sức mạnh đó đầu tiên bắt nguồn từ đường lối lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo, kịp thời, đúng lúc qua các thời kỳ cách mạng. Bị thua đau trên các chiến trường, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam Bắc.
Tình hình trên đặt ra cho Đảng, nhân dân, Quân đội Việt Nam câu hỏi lớn, Việt Nam có dám đánh Mỹ không? Đánh Mỹ bằng cách nào? Đánh rồi có thắng được không? Câu hỏi này, như đã có câu trả lời từ trước, qua dự đoán khoa học của Người: Nhất định Việt Nam thắng Mỹ, đó là điều chắc chắn. Bởi vì, chúng ta có sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh mà kẻ thù không bao giờ có (tính chất chính nghĩa của chiến tranh). Có ý chí quyết tâm “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.” Có sức mạnh của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Sức mạnh tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh thường tuân theo quy luật mạnh được, yếu thua. Nếu so sánh lực lượng giữa ta và địch về quân sự và kinh tế là quá xa lệch, ta gặp nhiều khó khăn. Nhưng thiên tài của Hồ Chí Minh ở chỗ, chính Người đã nhìn thấu suốt được sức mạnh tổng hợp mà nhân dân Việt Nam sẽ có được. Cốt lõi của sức mạnh ấy là ý chí quyết tâm của cả dân tộc “thà chết không chịu làm nô lệ”; là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do;” là “Còn non còn nước còn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.”
Đã từng hoạt động trên đất Mỹ, am tường văn hóa Mỹ, Hồ Chí Minh biết rất rõ sức mạnh cũng như những chỗ yếu của cường quốc đế quốc số một thế giới này. Người thừa nhận và đánh giá cao những giá trị phổ biến, vĩnh hằng của văn hóa Mỹ như những giá trị làm người của lương tri nhân loại và đã từng viện dẫn trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ. Những hiểu biết về Mỹ ở tần sâu thẳm nhất chính là cứ liệu thực tế để Người đi đến khẳng định: Việt Nam biết đánh và nhất định thắng Mỹ!
Cách mạng Việt Nam và quá trình hiện thực hóa những dự báo thiên tài của Hồ Chí Minh
Thực hiện lời tiên đoán của Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào,” quân và dân hai miền Nam Bắc luôn kề vai sát cánh bên nhau đánh thắng hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh khác.vTừ chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, đến Việt Nam hóa chiến tranh (1954-1960, 1961-1965, 1966-1968, 1969-1972). Mỹ đã rút về nước, chớp lấy thời cơ có một không hai này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam thực hiện “Đánh cho Ngụy nhào”(1973-1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện trọn vẹn lời tiên đoán của Người.
Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước Việt Nam. Đúng như trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã viết “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to-là Pháp và Mỹ. Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.”
Trên đây là một số căn cứ thực tiễn quan trọng của dự báo về thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi nói về Thiên tài của Hồ Chí Minh trong dự báo chiến lược, cố Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng đã viết: Hồ Chí Minh “Là bậc yêu nước đại chí sỹ, là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia. Chân đi khắp năm châu, mắt trông xa vạn dặm; nhận rõ thời cuộc, lặng dò thời cơ.”
Và “Về bằng cấp thì ông Hồ không tiến sỹ, phó bảng gì cả. Nhưng nói về tri thức và sự nghiệp cách mạng thì chắc chắn lớp chúng ta cũng như lớp trước chúng ta, không ai bì kịp. Sự thấu hiểu của ông Hồ rất xa, rất rộng, chẳng những việc trong nước và cả việc thế giới nữa kia. Nước này tương lai sẽ về đâu? Nước kia rồi đây sẽ thay đổi như thế nào? Ông nói rất rành rọt, mạch lạc, nghe không chán!.”
Đã 40 năm trôi qua, nay nghiên cứu, tìm hiểu, đọc lại những dự báo trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy còn rất mới trong công tác khoa học dự báo của Đảng hiện nay. Để làm tốt vấn đề này, cần chú ý một số yêu cầu có tính chất phương pháp luận sau:
Một là, phải tiến hành nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của công tác dự báo khoa học.
Trên cơ sở nhận thức đúng mới có hành động đúng. Làm tốt công tác dự báo là cơ sở quan trọng cho Đảng ta hoạch định đường lối chủ trương đúng, tổ chức lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới thắng lợi. Trong điều kiện biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước hiện nay, công tác dự báo đặt ra vừa là cơ bản lâu dài, vừa là cấp bách trước mắt. Không nhận thức đúng vai trò quan trọng của công tác dự báo, dẫn tới những cách làm không đúng thường gặp như dự báo không sát, không rõ. Hoặc dự báo theo kiểu chắp vá, thiếu cơ sở thực tiễn.
Hai là, trong dự báo chiến lược của Đảng, phải xem xét, đánh giá tình hình thế giới, trong nước một cách khách quan, toàn diện, cụ thể và phát triển.
Để dự báo tình hình thế giới, trong nước được sát, đúng, vấn đề có tính nguyên tắc là phải đánh giá đúng tình hình, xem xét sự vật trong điều kiện cụ thể nhất định, qua đó dự kiến, nắm bắt chiều hướng phát triển của chúng.
Thực tiễn cho thấy, nhờ có nắm chắc phương pháp luận này mà Hồ Chí Minh đã có niềm tin tất yếu vào thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ như đã viết trong Di chúc. Trong điều kiện mới hiện nay, trước sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Đảng ta nhận định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử.”
Ba là, luôn luôn bám sát sự vận động, biến đổi của thực tiễn, làm tốt công tác tổng kết thực tiễn.
Trong dự báo những vấn đề chiến lược của cách mạng, phải luôn bám sát sự vận động biến đổi của thực tiễn trong nước, thực tiễn thế giới, khu vực, qua đó tổng kết rút ra từ thực tiễn những bài học kinh nghiệm. Đây là một căn cứ quan trọng trong hoạch định đường lối của Đảng. Xa rời vấn đề có tính nguyên tắc này, chủ trương, đường lối của Đảng sẽ khó đi vào trong đời sống nhân dân, không động viên, cổ vũ được nhân dân tham gia.
Nhận thức sâu sắc vấn đề tổng kết thực tiễn, qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng ta luôn luôn xác định trọng tâm, rút ra một trong những bài học kinh nghiệm là: Đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Quan điểm này đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước phải trở về những giá trị thực của đời sống thực tế đa dạng, phong phú, đầy mâu thuẫn.
Bốn là, làm tốt công tác dự báo của dự báo
Trong công tác dự báo, yêu cầu phải biết phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực, các bộ phận. Lấy kết quả nghiên cứu khoa học của bộ phận này làm cơ sở, căn cứ, điều kiện để dự báo chiều hướng phát triển của khoa học khác và ngược lại. Dựa vào nghiên cứu khoa học của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, cả trong nước và ngoài nước, để định ra chủ trương, đường lối đúng. Trong dự báo, cần phân ra từng giai đoạn, thời kỳ, từng lĩnh vực cụ thể. Có dự báo tổng thể và có dự báo bộ phận. Ngay chính trong một giai đoạn, cũng phân ra từng lĩnh vực cụ thể. Trên cơ sở những dự báo, cần có kế hoạch tổ chức thực hiện với những biện pháp linh hoạt sáng tạo.
Trong vận hành của bộ máy, nương theo dòng chảy của thời đại, nghĩa là theo xu thế lịch sử khách quan, vừa hợp với quy luật, vừa hợp với lòng dân, theo tinh thần phương pháp luận Hồ Chí Minh, cần sớm định hình và xây dựng một khoa học dự báo với đội ngũ cán bộ đủ năng lực, giúp chúng ta chủ động phòng tránh những rủi ro bất trắc khó lường trong thế giới đương đại với nhiều thay đổi nhanh chóng và hết sức mau lẹ.vNhững dự báo khoa học của Hồ Chí Minh về thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh đã được thực tiễn lịch sử chứng minh hoàn toàn chính xác.
Nó thể hiện trí tuệ uyên bác, bản lĩnh làm chủ tình thế, làm chủ thời cuộc của Hồ Chí Minh; tạo nên niềm tin, lạc quan cách mạng của toàn dân tộc vào thắng lợi cuối cùng phải có; đem lại nhiều suy ngẫm và bài học có giá trị cho lãnh đạo chính trị thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện hiện nay./.
(Theo Vietnam+)

Trang