30 tháng 4, 2014

Nhà báo đầu tiên có mặt ở Dinh Độc lập trưa 30/4 là người Hà Tĩnh

(Baohatinh.vn) - Đấy chính là nhà báo Ngọc Đản. Khởi đầu bằng phóng viên Thông tấn quân sự năm 1972, rồi phóng viên báo Nhân Dân, nghỉ hưu ở cương vị Tổng Biên tập Tạp chí Truyền hình, nay vẫn tháp tùng Chủ tịch nước ở vai trò ký giả. TS Đậu Ngọc Đản (Ngọc Đản) có một cuộc đời làm báo hết sức phong phú. Ông là nhà báo đầu tiên có mặt ở Dinh Độc lập vào trưa 30/4/1975. Dưới đây là chia sẻ của ông với đồng nghiệp.

Nhà báo Đậu Ngọc Đản. Ảnh: ANTGCT
- Thưa ông, đi bộ đội vào thời ông là nguyện vọng, là con đường gần như tất yếu dành cho thanh niên. Nhưng con đường nào – ngẫu nhiên hay tất yếu, đưa ông đến với Thông tấn quân sự, với nghề báo?
Thời trẻ của tôi là thời, đúng như Lê Mã Lương nói ”Cuộc đời đẹp nhất là ở trên trận tuyến đánh quân thù”. Tất cả mọi người dân chỉ có một khát vọng: Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mỗi em nhỏ lớn lên, trong ước nguyện, trong con đường định sẵn là để trở thành một chiến sĩ Quân Giải phóng. Mỹ thua vì không biết đến truyền thống văn hóa Việt Nam. Chúng không biết chúng không chỉ đánh vào một chế độ mà đánh cả vào một dân tộc, hơn nữa dân tộc ấy lại có hàng nghìn năm đánh giặc và thắng giặc. Dân tộc ấy có lẽ sống tự nhiên là “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Cũng tự nhiên lớp cha trước, lớp con sau đã thành đồng chí chung câu quân hành. Bác Hồ nói: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Đó là sự tổng kết tuyệt vời sâu sắc. Tôi nghĩ rằng, bất cứ kẻ xâm lược nào, trước khi cất quân, nếu hiểu được điều này, sẽ không bao giờ cất quân đến nữa để chịu thất bại như Lý Thường Kiệt từng cảnh cáo "Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư".
Ngày 5/8/1964, Mỹ ném bom ra miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại, và trận bom đầu tiên là ném bom xuống TP Vinh, cách quê tôi con sông Lam. Kho xăng Bến Thủy bị cháy, khói lửa ngút trời. Người chết, nhà đổ… Cảnh đó càng thắp vào tuổi thiếu niên chúng tôi ngọn lửa căm thù và ý chí đánh Mỹ. Ngoài những Pa-ven trong sách, có một tấm gương tươi nóng trong trận đó: anh Phan Đăng Cát, khẩu đội trưởng khẩu đội 4, đại đội phòng không 138, được nghỉ phép vừa rời đơn vị, nghe tiếng báo động liền chạy về trận địa chỉ huy khẩu đội chiến đấu. Buổi sáng, các anh đã cùng quân dân TP Vinh bắn rơi hai máy bay. Chiều đó, địch dùng 8 chiếc AD 6 đánh thẳng vào trận địa C138, vừa ném bom vừa phóng 100 quả rốc két. Anh Cát bị thương hai lần vẫn bình tĩnh tựa lưng vào công sự chỉ huy khẩu đội đánh trả quyết liệt. Lần thứ 3, một mảnh rốc két găm thẳng vào bụng. Anh gục xuống, rồi gượng đứng lên hô to: “Quyết tâm bảo vệ quê Bác, đánh đến cùng”! Suốt đời lính, đời làm báo, tôi mang theo tiếng hô ấy của anh…
Trở lại chuyện làm báo. Năm 1969, tốt nghiệp lớp 10, tôi được tuyển vào ĐH Thủy sản (thời kỳ đó còn tuyển, năm sau, năm 1970 mới phải thi). Nhưng Báo Hà Tĩnh lại giới thiệu tôi đi học ĐH báo chí. Duyên do, là học sinh giỏi văn từ nhỏ, tôi thường xuyên đặt báo và tập viết báo, có bài đăng trên Báo Nhân dân viết về một ông bưu điện xã, bài viết về tấm gương của một cô vợ bộ đội giỏi việc nước đảm việc nhà được giải nhì của Báo Hà Tĩnh.
Vào trường, Tổng cục Chính trị chọn trong 7 lớp (lúc đó gọi là chi) báo chí, xuất bản được 53 người vào lớp phóng viên chiến trường, gọi là lớp phóng viên tiền phương. Đang học năm thứ 3, năm 1972, chúng tôi được phiên chế thành đại đội 28 (28/2/1972) và tất cả được tung vào Quảng Trị. Tôi được cắm vào trung đoàn 36, sư 308. Cuộc đời phóng viên chiến tranh bắt đầu từ đó.
- Cô Nhíp – chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên dẫn đường cho xe tăng ta tiến vào Sài Gòn năm 1975 là một bức ảnh lịch sử, có hàm lượng thông tin rất lớn, vừa nói được sự thần tốc, tính chất toàn dân, toàn diện… của cuộc kháng chiến. Ông có thể kể thêm về bức ảnh này và cô Nhíp?
Ở Quảng Trị, vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi đã có một số bài viết đáng nhớ như: “Dũng sĩ thành Quảng Trị”, Kim Cúc đọc trên đài trong rất nhiều buổi phát thanh; lại có bài “Trận đánh mang sức nóng Quảng Trị” trên Báo Nhân dân, trong chuyên mục “Viết tại chỗ về Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Về chuyên mục này, hồi ký chưa xuất bản của nhà báo Thép Mới viết: “Chưa bao giờ tờ báo đối với người Hà Nội đáng yêu đến như thế! Thực hiện chỉ thị còn mới của Ban Bí thư về công tác báo chí nhấn rất mạnh sự “Tranh thủ trí tuệ của toàn xã hội”, chúng ta (Báo Nhân dân) lôi cuốn cả Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận và nhiều cây viết tên tuổi cộng tác. Vì chúng ta hiểu rằng đồng bào miền Nam chịu họ hơn chúng ta nhiều. Đặc biệt, sau đêm chiến thắng rực rỡ 26/12/1972, báo sáng 28 chúng ta ra lời kêu gọi bạn đọc viết cho mục “Viết tại chỗ về Hà Nội – Điện Biên Phủ”, sáng tạo ra thành ngữ “Điện Biên Phủ trên không”… Tức là chuyên mục này nhằm tập hợp những nhà văn lớn, những cây bút tên tuổi, tôi được “chen” vào đó là một may mắn. Đang thích ở chiến trường thì Cục Tuyên huấn yêu cầu về Phòng Thông tấn quân sự tại Hà Nội. Nghe tôi nài nỉ xin đi, anh Lê Minh, trưởng phòng nói: Cậu yên tâm. Ở đây còn đi chiến trường nhiều hơn!
Trong tổ chức thời ấy, Thông tấn quân sự thì gắn chặt với VNTTX, phát thanh quân đội thì gắn vào Đài TNVN.
Quả như ông Lê Minh nói, ở TTQS, tôi được đi nhiều hơn, rộng hơn. Suốt hai năm 1973-1974, tôi được liên tục cử vào chiến trường Quảng Trị. Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1977-1979, chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979, tôi đều có mặt ở chiến trường, trên những mũi nóng bỏng nhất.
Trở lại năm 1975, tháng 2, tôi được lệnh vào Nam, theo bước các binh đoàn trong cuộc Tổng tiến công, nổi dậy. 26/3 có mặt ở Huế. Đi xe Honda vượt Hải Vân, 29/3 có mặt ở Đà Nẵng. 29/4 đến Xuân Lộc. Gặp Cục trưởng Cục Văn hóa Hồng Cư, Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu, được các ông trực tiếp giao nhiệm vụ đi ngay vào Sài Gòn, theo trung đoàn 66 của 304. Rồi gặp và bám xe tăng thứ tư của Lữ đoàn 203. Đánh nhau ác liệt ở cầu Sài Gòn. Tiến thẳng vào Dinh Độc lập, chứng kiến và chụp được ảnh Phạm Xuân Thệ, đại úy, trung đoàn phó, hùng dũng bước lên nhận sự đầu hàng của chính quyền Sài Gòn. Tôi và anh Hoàng Thiểm, quê Hà Giang, cùng TTQS là hai nhà báo đầu tiên của miền Bắc có mặt tại Dinh Độc lập vào giây phút lịch sử ấy, đúng vào 11h30 phút ngày 30/4.
Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh độc lập trưa ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu từ internet
Tôi gặp cô Nhíp ở Tân Sơn Nhất. Thấy xe tăng cắm cờ quân giải phóng, lại có cô gái đẹp, vừa hiền dịu, vừa hiên ngang. Hỏi, được biết là xe tăng Quân đoàn 3, cô gái tên là Cao Thị Nhíp, tên hoạt động Nguyễn Trung Kiên. Nhíp con nhà nghèo, quê Tiền Giang, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, tham gia biệt động thành dưới vỏ bọc là người làm công cho gia đình một sĩ quan ngụy. Vốn thông thuộc đường sá, Nhíp đã dẫn đường cho xe tăng ta vào đánh Tân Sơn Nhất và các vị trí quân sự khác.
Đúng như anh đã nhận định về bức ảnh, khi gặp cô Nhíp bên xe tăng, tôi đã bị cái đẹp cuốn hút, cảm giác ngay rằng đây là một hình tượng. Hình tượng của tổng tiến công (quân chủ lực) và nổi dậy (nhân dân). Hình tượng Việt Nam: Nụ cười tươi sáng, hiền dịu, yêu hòa bình nhưng kiên cường gan góc, quyết thắng. Trong tư thế chiến thắng, toát lên sự nhân hậu, vị tha…
- Ông chụp bức ảnh đó bằng máy gì?
Máy Canon, nhưng ống kính liền, chỉ một tiêu cự. Trước đó chủ yếu chụp bằng máy Kiep.
- Tôi được biết, ông đã “điều ” một sĩ quan ngụy lái xe chở ông từ Sài Gòn ra Huế để chuyển bài vở ra Bắc. Có thể coi đó là một “mẹo”, một kỹ thuật nghiệp vụ?
Buổi trưa 30/4 ấy, từ Dinh Độc lập tôi không đi về Đài phát thanh mà tìm cách chuyển bài vở nhanh ra Bắc. Trong sân, rất nhiều nhân viên, tùy tùng của chính phủ Sài Gòn đứng đợi. Tôi nói to, dõng dạc: “Chúng tôi là phóng viên ở miền Bắc vào. Đây là thời cơ lập công của các ông. Ai có thể chở chúng tôi đưa tài liệu ra Hà Nội?". Năm sáu cánh tay giơ lên. Tôi chỉ vào một người. Đó chính là Võ Cự Long, sĩ quan lái xe dẫn đường của nội các Sài Gòn. Theo yêu cầu của chúng tôi, Long chở tôi và phóng viên Hoàng Thiểm đến Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu ngụy và sân bay Tân Sơn Nhất rồi thẳng ra Đà Nẵng. Bài và ảnh phản ánh những giây phút giải phóng đầu tiên ở Sài Gòn của chúng tôi được chuyển bằng chuyến máy bay đầu tiên từ Đà Nẵng ra Hà Nội. Phản ứng nghề nghiệp ấy trước hết là do tính cấp bách, trọng đại của công việc, phải tìm mọi cách, dù nguy hiểm, hy sinh, nhưng phải chuyển được tài liệu về cơ quan nhanh nhất. Có thể giải thích thêm, vào thời điểm đó, các phương tiện thông tin của ta còn lạc hậu, của ngụy thì đã bị cắt đứt, chưa khoi phục được; nên chuyển một tấm ảnh cũng kỳ công, tốn kém đến như vậy.
- Khi chuyển về báo Nhân dân, ông có nhiều bài viết xuất sắc về quân sự. Đặc biệt, ông là người đầu tiên và người có nhiều bài viết gây xúc động về cuộc chiến đấu, hy sinh của các chiến sĩ hải quân ta chống trả quân Trung Quốc xâm chiếm đảo Gạc Ma. Kinh nghiệm của một phóng viên chiến tranh lão luyện và điều gì nữa giúp cho ông có được sự “độc quyền” này?
Lại một tình cờ, ngẫu nhiên nữa. Đầu tháng 3/1988, tôi khi đó là phóng viên của Báo Nhân dân, được cử đi công tác Trường Sa cùng bộ đội hải quân. Chuyến đi xuất phát tại quân cảng Cam Ranh. Đến phút chót, có lệnh: Các sĩ quan và chiến sĩ trên chuyến tàu ra đảo Sinh Tồn, Len Đao, Gạc Ma sẽ chốt giữ lại trên đảo dài ngày, tàu không quay lại đất liền như dự định. Đương nhiên tôi bị gạt lại, chờ chuyến khác.
Rồi chiến sự nổ ra vào ngày 14/3. Nhờ vị thế Báo Nhân dân, và máu nghề, tôi được nghe thông tin chiến sự trong giao ban, lăn lộn lắng nghe phản ứng và tình cảm của dân chúng. Căm phẫn trước hành động chiếm đóng trái phép của quân đội Trung Quốc, mong mỏi thông tin cho cả nước biết; liên tiếp các ngày đó tôi thức viết liên tục và gửi về tòa soạn hàng chục bài báo và được đăng kịp thời như "Trường Sa trong lòng hậu phương Phú Khánh" (22/3) ; "Cuộc tiến công bằng tàu khu trục mang tên lửa của Trung Quốc vào ba tàu vận tải không có vũ khí tiến công của ta ở vùng đảo Sinh Tồn" (24/3). Rồi các bài kể về sự hy sinh của thiếu úy Trần Văn Phương trên đảo Gạc Ma, Tàu S71 giữa sóng lớn Trường Sa...
Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục ra đảo. Nói chúng tôi, vì chuyến này còn có thêm các nhà báo Trần Bình Minh, Lê Trọng Liên, Vinh “Ba Thá” (Đài THVN), Đình Trân (TTXVN), Hồ Anh Thắng (Báo Quân đội Nhân dân), Lê Phức, Vinh Quang (Báo Ảnh Việt Nam), Đạo diễn Lê Mạnh Thích (Xưởng phim Tài liệu Khoa học Trung ương)...
Lúc này, tôi đã có một một nhận thức mới, sâu sắc hơn về biển đảo: Rằng, từ đây Tổ quốc ở trên đầu ngọn sóng, rằng, chúng ta đang phải đối mặt với một âm mưu bành trướng không chấm dứt…
Tôi nói thêm rằng, tôi có nhiều ngẫu nhiên may mắn trong nghề nghiệp; nhưng chuỗi ngẫu nhiên ấy nằm trong sự tất nhiên: đó là sự say nghề, yêu nghề.
- Nhân nói về nghề, nay tuy đã nghỉ hưu, ông vẫn năng nổ, say mê với nghề báo. Vì sao vậy? Nghề báo có gì thu hút? Làm báo bây giờ có khó hơn trước không, thưa ông? Điều gì cần nhất hay là một nguyên tắc tóm lược cho nghề báo?
Nghề báo là một nghề cao quý, hấp dẫn. Tôi cảm nhận được sự cao quý này lần đầu tiên khi nhận giải Báo Hà Tĩnh. Chỉ là một đứa trẻ con, vì bài báo mà cả xã, cả huyện biết đến và ai cũng tôn trọng. Tôi chợt nhận ra và ghi nhớ suốt đời: mình trân trọng cuộc đời, vì người khác, sẽ được mọi người trân trọng.
Nghề báo là một nghề hay vì được đi nhiều, nghe nhiều do đó học được nhiều; và bắt phải không ngừng học hỏi để tiến mãi, nhất là học trong cuộc sống, học để sống. Làm báo không muốn mới cũng phải mới, nên được và phải làm mới mình liên tục. Khi bài báo viết xong, trước mắt lại là một tờ giấy trắng, lại “về mo”, cái đầu cũng trắng. Ngày mới, đề tài mới, lại bắt đầu lại từ đầu…
Nghề báo hay vì có nhiều bạn, bạn đủ các giới.
Nghề báo hay vì nói được tiếng nói của dân, có khi đại diện được cho họ - tức là con người mình được nhân lên; được dân tin mến, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ; ở nơi nào cũng được tôn trọng.
Và khi đã là nhà báo, dù không chức vụ gì, anh vẫn được người ta nhớ, vẫn làm việc mãi. Khi nghỉ hưu, có nhiều từng trải hơn, ngọn bút càng điềm đạm, nhuận sắc, thấm thía tình đời, nhân ái hơn.
Còn về nguyên tắc cho nghề báo, tôi không phải là nhà lý luận, tôi chỉ nói quan niệm của tôi thôi: Đó là đam mê, có ước vọng cống hiến, có niềm tin chân lý và chiến đấu để bảo vệ nó, không lung lạc trước mọi cám dỗ, quyền lợi trái ngược với đạo lý. Làm báo là làm chính trị nhưng không lợi dụng nó để mưu cầu lợi ích riêng từ hoạt động chính trị… Và phải đọc, phải học suốt đời; có kiến thức mới, có biết bạn đọc cần gì mới có thể cống hiến được chứ không chỉ có tấm lòng, lý tưởng…
- Xin cảm ơn ông! Chúc ông mãi là người lính tuổi hai mươi trên mặt trận báo chí!
                                                                                                                    NGUYỄN SĨ ĐẠI

Thư của một đảng viên về hưu gửi Tổng Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN

“Thưa các ông các bà lãnh đạo đảng và nhà nước, các ông các bà có hiểu rằng nếu các ông các bà tiếp tục có thái độ thờ ơ với dân với nước như những ngày vừa qua thì chính người dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên cộng sản như chúng tôi sẽ vùng lên, sẽ không để cho các ông các bà làm trò hề tổ chức đại hội đảng thêm một lần nữa, sẽ không có đại hội lần thứ 12 nữa đâu! Người dân Việt Nam sẽ không cho phép các ông các bà tiếp tục tham ô của quá khứ và ăn cắp của tương lai” 

Kính gửi: Ông Tổng bí thư
Đồng kính gửi: 175 ông bà ủy viên ban chấp hành TƯ Đảng CS Việt Nam
Chi bộ đảng chúng tôi bao gồm những người cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, cựu cán bộ viên chức, trong số chúng tôi, có người đã từng tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhiều người trong chúng tôi đã để lại trên chiến trường năm xưa một phần xương máu của mình. Trong chi bộ của chúng tôi cũng có không ít người từng được nhân dân gọi là “quan chức cao cấp”. Chi bộ hưu trí của chúng tôi sinh hoạt định kỳ hàng tháng theo đúng chỉ đạo của đảng ủy cấp trên, và chúng tôi cũng tranh thủ các buổi sinh hoạt đảng để được trao đổi với nhau về con người, thời cuộc, về đất nước Việt Nam yêu dấu.
Thưa các ông các bà, thừa nhận rằng trong rất nhiều năm, các đảng viên chúng tôi đã từng khá bằng lòng với cuộc sống của mình, đã nhìn nhận quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của đất nước mình là một quá trình tất yếu. Trong một thời gian dài chúng tôi khá vui mừng với sự cải thiện rõ rệt trong đời sống vật chất và tinh thần, không những của các đảng viên trong chi bộ chúng tôi, mà nhìn chung trong phạm vi toàn xã hội. Về vật chất, thay vì ăn no mặc ấm là ăn ngon mặc đẹp, là tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, hiện đại. Về tinh thần, đời sống tinh thần ngày càng được cải thiện, nhiều người dân, đã có thể thông qua các phương tiện hiện đại, tiếp cận tới các giá trị tinh thần đủ loại, không chỉ trong phạm vi đất nước, mà còn trong phạm vi trên toàn thế giới. Tầm nhìn được mở rộng, kiến thức được nâng cao…Phải thừa nhận rằng, so sánh với cuộc sống trong thời kỳ chiến tranh hay thời bao cấp, thì cuộc sống hiện nay đã có sự khác biệt rất lớn. Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Các đô thị và nhiều vùng nông thôn đã được đổi thay theo hướng hiện đại, văn minh…v.v.
Trong một thời gian dài, chúng tôi đều có nhận định chung là có thể lúc nọ lúc kia, trong bộ máy của Đảng nhà nước tuy cũng có những sai lầm, thiếu sót, nhưng thành quả đạt được là không thể chối cãi, và chúng tôi có thói quen cho đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của đảng…Và dường như hầu hết chúng tôi đều thỏa mãn và đồng tình với cách tuyên truyền, huấn thị của TƯ đảng về việc triển khai đường lối của đảng vào cuộc sống. Đa số chúng tôi đều không có nhiều thắc mắc với tiến trình đổi mới của đất nước, đặt lòng tin rất nhiều về sự thành công của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chúng tôi đã từng tự hào là đảng viên đảng cộng sản!
Thưa các ông các bà, trong một vài năm gần đây, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước có nhiều biến động theo chiều hướng tiêu cực. Với những nguồn thông tin khách quan và rộng lớn mà chúng tôi thu thập được trong nước và trên thế giới, thì chợt nhận ra rằng, chúng ta đã tự ru ngủ nhau trong một thời gian quá dài. Hệ quả là chúng tôi với tư cách đảng viên cộng sản, đã tự cho phép mình làm quen với các tệ nạn nhũng nhiễu, tham nhũng xảy ra trong xã hội. Cứ bất kỳ ở đâu cán bộ có quyền là chỗ đó có tiêu cực. Các khái niệm phong bì, phong bao, lót tay dường như là một sinh hoạt không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngay, trong việc xin cho, kể cả những việc xin cho đã được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, pháp quy. Từ công an giao thông đến thuế vụ, môi trường, từ hải quan đến bệnh viện, đến trường học… hầu hết các nơi giải quyết chế độ chính sách, đâu đâu cũng phải “bồi dưỡng”, phải “bôi trơn”. Mọi người dân trong đó có các đảng viên chúng tôi dần quen với các hiện tượng này và đã trở thành những kẻ đồng lõa cho các hành vi hối lộ, tham nhũng.
Nhưng thưa các quý vị, đến những năm gần đây, khi các hiện tượng tiêu cực tham nhũng đã trở thành những đại dịch, khi tình hình kinh tế, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp nghiêm trọng thì những người đảng viên chúng tôi mới dường như bừng tỉnh, tự hỏi chúng ta đang ở đâu? Vị trí nào trên thế giới? Chúng ta là ai? Và đang làm những gì?…
Sự thật phũ phàng làm chúng tôi dần tỉnh ngộ khi biết rằng đất nước đang tụt hậu nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, …so với các nước khác trong khu vực. Sự tụt hậu này rõ ràng không thể đổ lỗi cho chiến tranh, và cũng không thể đổ lỗi cho ảnh hưởng tư duy bao cấp của ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa của các nước đàn anh như Liên Xô, Đông Âu. Họ đã bị sụp đổ gần 30 năm nay rồi. Chúng tôi thật sự đau xót khi không thể phủ nhận nguyên nhân của hiện tượng tụt hậu này chính là bắt nguồn ở những đảng viên chúng ta, không loại trừ những đảng viên đã về hưu như chúng tôi, những người tự coi là lực lượng tiên phong trong xã hội. Trước tiên, chúng tôi xin đưa ra những nhận định chủ quan của chúng tôi, về từng lĩnh vực quan trọng nhất trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước để chúng ta suy xét một cách khách quan nhưng thẳng thắn hiện trạng mà chúng ta đang đối mặt:
1. Về kinh tế
Theo thông tin từ nguồn tin chính thức của những nhà nghiên cứu của Đảng và nhà nước thì kinh tế Việt Nam hiện nay đang ở mức độ phát triển ngang với Singapore những năm 60 thế kỷ trước, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore (theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới) …. Nền công nghiệp chủ yếu vẫn ở mức độ gia công, chế biến thô sơ, lấy công làm lãi là chính. Về nông nghiệp, khai khoáng, chủ yếu vẫn là xuất hàng thô, hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp, năng suất lao động bình quân xã hội là thấp. Cơ cấu nền kinh tế mất thăng bằng, lệch lạc, không bền vững, khả năng cạnh tranh của nên kinh tế thấp.
2. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, các tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, tội phạm gia tăng, đạo đức ứng xử giữa con người với con người xuống cấp nghiêm trọng. Hình ảnh của người Việt Nam ngày càng xấu đi trước con mắt của bạn bè quốc tế, thậm chí trở thành vấn nạn của một số quốc gia khu vực như hiện tượng người Việt bỏ trốn, làm ăn phi pháp ở nước ngoài, người Việt ăn cắp, ăn trộm, làm nghề mại dâm phi pháp diễn ra tràn lan, đến mức độ nhiều cửa hàng nơi công cộng như ở Nhật, ở Hàn Quốc đã phải viết những biển cảnh báo bằng tiếng Việt! Điều này trở thành vết nhơ vô cùng đáng xấu hổ, không những đối với người đang sống như chúng ta mà còn làm ô uế đối với cả tổ tiên, cha anh, những người đã khuất. Văn hóa thì thiếu định hướng quy hoạch, phát triển theo kiểu xô bồ, ngẫu hứng, thua kém tụt hậu so với hầu hết các nước trong khu vực.
Về an ninh trật tự an toàn xã hội thường xuyên xảy ra các vụ việc nổi cộm, khiếu kiện đông người, xung đột tranh chấp đất đai, thương nhân Trung Quốc thả sức vào lũng đoạn thị trường cài bẫy làm hại nền sản xuất, rối loạn đời sống của người dân , gây biết bao những hệ lụy, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân, trật tự và an ninh xã hội ở khắp nơi khắp chốn. Các tổ chức tội phạm hoành hành nhiều nơi. Tham nhũng đã trở thành một vấn nạn ngày càng nguy hại đối với đất nước. Đã qua biết bao kỳ đại hội Đảng, biết bao kỳ họp ban chấp hành TƯ, biết bao nghị quyết của TƯ đảng, của chính phủ, hiện tượng tham nhũng không những không được đẩy lùi mà còn ngày càng phát triển và thấm sâu vào mọi ngóc ngách của xã hội, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Hiện tượng tham nhũng đã tạo ra một lối sống khá đặc thù của đất nước trong nhũng năm gần đây và là nguyên nhân của rất nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Nó hủy hoại mọi thứ, từ kinh tế, đến đạo đức, đến văn hóa, đến an ninh quốc phòng…Hiện tượng chạy chức chạy quyền cũng là hệ quả tất yếu của tham nhũng. Có tham nhũng mới có chạy chức chạy quyền và ngược lại. Để được thăng chức, lên chức cũng mất tiền, ngay cả để xin được những vị trí có thể bắt nạt được dân là mất tiền, từ chân nhân viên văn phòng phường xã, đến vị trí của cảnh sát giao thông đứng đường cho đến thuế vụ, hải quan, vị trí nào càng dễ bắt nạt dân thì càng mất nhiều tiền để có được xuất làm việc. Các hợp đồng lớn nhỏ, đặc biệt lấy nguồn từ kinh phí ngân sách đều bị phết phẩy phần trăm. Theo chúng tôi biết, các hợp đồng đầu tư công cho các công trình cơ sở hạ tầng ở cấp địa phương và TƯ đều phải cộng tiêu cực phí ở mức độ 30% trở lên. Mọi khoản mua sắm trang thiết bị máy móc đều bị kê giá. Và động lực từ khoản phết phẩy đã đẩy nhiều đầu tư công vào lãng phí tiêu cực, hiện tượng chạy ngân sách trở nên phổ biến. Kính thưa các quý vị việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư, từ công trình lớn đến công trình nhỏ, đến năng xuất lao động, đến tài sản quốc gia … nhưng đặc biệt làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước và hủy hoại nhanh chóng tới kỷ cương, tới đạo đức xã hội và cả hệ thống chính trị. Hậu quả sẽ rất nặng nề và lâu dài, triệt tiêu mọi sinh lực, nguyên khí của đất nước. Thí dụ trong báo cáo của chính phủ trước quốc hội trong kỳ họp Quốc hội khóa 13 có nêu ra con số nợ xấu trong ngành ngân hàng là khoảng trên 200 nghìn tỷ, nhưng chúng tôi nghe ý kiến từ một quan chức “dày dặn kinh nghiệm” đang tham dự kỳ họp Quốc hội này đưa ra nhận định một cách tưng tửng rằng con số khổng lồ này hoàn toàn không đáng ngại, có gấp đôi như thế vẫn không đáng ngại! Ông ta nhận định: “Người ta có thể giải quyết nhanh gọn trong vòng một vài năm khoản nợ xấu này bằng cách các ông to bà lớn, các nhóm lợi ích chỉ cần dành một nửa số tiền tham nhũng mà họ thu hoạch được theo thông lệ thì chỉ sau 1 đến 3 năm toàn bộ nợ xấu của VN sẽ được xử lý hết, vì đa số nợ xấu là do nhóm lợi ích gây ra, bao gồm các tập đoàn nhà nước và các nhóm lợi ích tư nhân đang được các quan chức lớn của đảng và nhà nước đứng đằng sau hỗ trợ bảo kê. Ngay cả tình trạng đóng băng bất động sản và hiện tượng trì trệ trong một số ngành sản xuất, đối với các nhóm lợi ích, cũng chỉ là hiện tượng nhất thời. Họ hoàn toàn có thể xoay chuyển được, khi mà các vị quan chức cấp cao của Đảng và nhà nước chống lưng cho các nhóm lợi ích này bằng cách tiếp tục hỗ trợ họ tham gia vào việc sử dụng các khoản đầu tư công dưới hình thức nhận thầu, đấu thầu hình thức ….một khi mà chính phủ xoay sở được tiền !.”
Mặc dù tiêu cực, tham nhũng lan tràn như vậy, nhúng chúng tôi vẫn muốn đánh giá thật công bằng các thành quả do chính sách của đảng và nhà nước mang lại. Xem cái gi tốt thì giữ lại, cái gì xấu phải loại bỏ.
Song, lại một lần nữa, chúng tôi giật mình khi một thành viên trong chi bộ chúng tôi, vốn là cán bộ chủ chốt của ngành thống kê, đưa ra một con số là tổng số nợ công và tổng đầu nước ngoài trực tiếp và gián tiếp trong vòng khoảng 20 năm vừa qua như sau :
- ODA không hoàn lại: 6,67 tỷ đô la Mỹ
- Vay ODA ưu đãi: 30,83 tỷ đô la Mỹ
- Các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài: 21,27 tỷ đô la Mỹ
- Các khoản vay được chính phủ bảo lãnh: 14 tỷ đô la Mỹ
- Trái phiếu địa phương: 0,7 tỷ đô la Mỹ
- Tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước: 62 tỷ đô la Mỹ
- Tổng đầu tư nước ngoài FDI: 222 tỷ đô la Mỹ
- Đầu tư gián tiếp của nước ngoài: khoảng 30 tỷ đô la Mỹ
Vậy chúng tôi thử hỏi các nhà kinh tế học rằng, với số tiền vay mượn và tiền vốn của nước ngoài khổng lồ như vậy, thì kết quả mà nhân dân và xã hội Việt Nam nhận được cho tới nay là thành tích đáng mừng hay chỉ là kết quả quá khiêm tốn. Phải chăng hiệu quả đầu tư của toàn xã hội là quá thấp? Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực ra sao? Thua kém thế nào? Phải chăng một phần không nhỏ tiền đầu tư đã chảy vào túi bọn tham nhũng, vào lãng phí do sự kém cỏi vô trách nhiệm của giới lãnh đạo? Do vậy, có thể nhận định, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính phủ trong thời gian vừa qua, thực chất là đã làm tiêu hao và lãng phí một số lượng của cải vật chất và tiền bạc khổng lồ của nhân dân và của đất nước! Những kết quả được thể hiện ở việc nâng cao đời sống nhân dân, hay sự phát triển về cơ sở hạ tầng, hay sự biến đổi bộ mặt các đô thị và một số khu vực nông thôn, xóa đói giảm nghèo …, chỉ là hệ quả đương nhiên phải có khi một số lượng tiền đầu tư khổng lồ như nói ở trên được đưa vào xã hội và nền kinh tế!
Với số tiền khổng lồ đã được đầu tư như vậy trong những năm qua, nhưng rõ ràng tình hình kinh tế đất nước hiện nay vẫn chỉ dừng lại ở mức phát triển rất khiêm tốn, còn xa mới đạt được như các nước khác trong khu vực.Vào những năm 80 của thế kỷ trước tuy nền kinh tế đất nước còn rất nghèo nàn lạc hậu nhưng nợ công của nước ta lúc bấy giờ cón rất thấp, có thể nói là chưa đáng kể. Nhưng ngày nay con số này đang tăng lên đến chóng mặt, nếu tính đúng tính đủ thì đã vượt GDP! Với thực tế đáng buồn này có thể buộc chúng ta phải thừa nhận rằng trong hơn 2 thập kỷ vừa qua, chúng ta đã cùng lúc tham ô tiền của của quá khứ và ăn cắp tiền của tương lai! Hỡi ôi! Chúng tôi rất mong muốn nhân định này là sai vì nó quá phũ phàng! Nhưng nếu đúng, chúng tôi và tất cả các đảng viên chân chính trên toàn cõi Việt Nam phải đủ dũng cảm để đối mặt với sự thực đau đớn này để biết đường mà hành động! Xin các nhà khoa học, các nhà kinh tế cần phải có đánh giá lại một cách tổng quan, đầy đủ và khách quan để xác định một cách trung thực nhất rằng từ ngày đất nước đổi mới đến nay chúng ta đã bỏ ra bao nhiêu tiền và đã thu lại được gì?. Có tương xứng hay không? Chúng ta phải kiểm toán lại toàn bộ nền kinh tế. Người dân Việt Nam không thể chấp nhận cho những người lãnh đạo kém đức, kém tài tiếp tục lợi dụng ánh hào quang của quá khứ và bắt con cháu chúng ta phải è lưng trả nợ cho các hành vi tham nhũng, lãng phí và dốt nát.
Thưa các quý ông quý bà, chúng tôi muốn gửi tới quý ông quý bà những suy nghĩ chân thành và thẳng thắn nhất mà theo chúng tôi là nguyên nhân đã dẫn đến hiện tượng đau lòng và vô cùng nguy hiểm này:
Người ta nói thực tiễn là thước đo chân lý. Với những thực tế tụt hậu, xuống cấp nói trên, thì đảng cộng sản Việt Nam, và cụ thể là các thế hệ lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trong hai thập niên vừa qua phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Không thể đổ lỗi cho khách quan. Tại sao ở các quốc gia khác, có những điều kiện về mặt địa lý, thiên nhiên kém ưu đãi hơn đất nước Việt Nam nhưng họ ngày càng vượt xa chúng ta.Vậy phải chăng những thành tích mà Đảng đã lãnh đạo đất nước trong hai thập kỷ qua đã đạt được là những “thành tích ngược”! Chúng tôi thật sự đau lòng thấy rằng đây là trách nhiệm của toàn Đảng, trong đó có chúng tôi. Sự kiêu ngạo, dốt nát, hiếu thắng, tư duy giáo điều và cả sự hèn nhát nữa là nguyên nhân cội rễ. Chúng ta luôn tự vỗ ngực là theo lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học Mác Lênin, nhưng trong thực tế, chính chúng ta là những kẻ duy ý chí nhất, chủ quan nhất, thiển cận nhất. Khi thực tiễn đã chối bỏ sự thành công của hệ tư tưởng chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu và Liên Xô (cái nôi và thành trì của chủ nghĩa xã hội trước đây) thì rõ ràng những người cộng sản chân chính lẽ ra phải rút ra từ thực tế khách quan này những sai lầm, những bất cập trong học thuyết Mác Lênin và phải tự thay đổi mình nếu không nói là tự lột xác để đạt được mục tiêu tối thượng của chủ nghĩa xã hội là vì hạnh phúc của dân, vì sự phát triển của đất nước. Chúng ta vẫn ra rả hô khẩu hiệu “của dân, do dân, và vì dân”, nhưng thực tế đã chứng minh rằng lợi ích của Đảng ngày càng tách rời lợi ích của nhân dân, của dân tộc và của đất nước. Đảng càng chậm đổi mới về lý luận bao nhiêu thì ngày càng bộc lộ sự áp đặt chuyên quyền về mặt tư tưởng lên xã hội bấy nhiêu. Như vậy tất yếu Đảng phải xây dựng và duy trì một bộ máy nhà nước kìm kẹp sự phát triển của đất nước, và hạn chế sự phát huy dân chủ, sáng tạo của người dân. Chúng ta đã càng ngày càng vi phạm một cách trắng trợn, thô thiển quyền và lợi ích của người dân. Đứng trước tình hình ngặt nghèo của nền kinh tế trên bờ sụp đổ, đại hội 6 của đảng đã phải (lúc đó đất nước vẫn còn chịu ảnh hưởng của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu) thay đổi một số quan điểm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang việc chấp nhận áp dụng một khái niệm cơ bản của nền kinh tế thị trường. Từ việc cổ súy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đả phá quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sang việc chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Các kỳ đại hội tiếp theo, khi mà phe XHCN tan vỡ, Đảng đã phải tiếp tục tháo gỡ rất nhiều khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, như việc tuy chưa loại bỏ hoàn toàn khái niệm bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nhưng Đảng đã bắt đầu chấp nhận và làm theo cách quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cả ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, và hơn thế nữa,chúng ta còn học hỏi cách tổ chức xã hội theo hướng nhân văn của nhiều nước tư bản phát triển. Cụ thể, cho đến những năm 2000, thì đảng cộng sản Việt Nam đã cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân (theo khai niệm cũ tức là cho phép “bóc lột”). Mặc dù đảng cộng sản vẫn cố gắng bấu víu vào một số khái niệm cuối cùng của học thuyết Mác Lênin để muốn chứng minh rằng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn bằng việc cổ xúy kinh tế nhà nước, mà cụ thể, theo nhiều người hiểu một cách thô thiển là ưu đãi các công ty, tập đoàn có vốn nhà nước, dành cho thành phần kinh tế này sự ủng hộ về mọi mặt: hành lang pháp lý, tiền vốn, sự độc quyền, thị trường…! Nhìn lại quá trình trải qua các đại hội Đảng, chúng ta đã rất vất vả tự trói vả tự cởi trói cho mình. Biết bao những cuộc hội thảo, tranh luận, và những cái giá phải trả trên thực tế, Đảng cộng sản VN về mặt tư tưởng và lý luận vẫn chuyển biến môt cách ì ạch, miễn cưỡng, hệ quả là trong suốt hai thập kỷ qua, không phải là Đảng tạo ra bước đi sáng tạo, đột phá để dẫn dắt đất nước đi lên, mà là thực tế đã kéo lê Đảng phải chạy theo! Cụ thể là chỉ khi trên thực tế đã phát sinh ra những tình huống, những đòi hỏi không thể làm khác được, buộc Đảng phải tự cởi trói tự loại bỏ đi những khái niệm, những nguyên tắc đã quá lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và của các vấn đề chính trị, xã hội theo đúng quy luật của sự phát triển. Từ khi đảng cộng sản TQ đưa ra khẩu hiệu là “xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu TQ”, mà các nhà lý luận không ai có thể định nghĩa được kiểu TQ là kiểu gì, thì đảng ta cũng đưa ra một khái niệm “xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội”, một khái niệm rất mơ hồ, mà các nhà chính trị, các nhà kinh tế học, các chuyên gia, mỗi người giải thích theo một cách. Dường như khái niệm xã hội chủ nghĩa chỉ là động tác cố gắng vớt vát lại cái hơi hướng gọi là chủ nghĩa xã hội của chế độ. Chính vì cái lờ mờ và tùy tiện này, nên đất nước đã phải trả giá rất đắt. Nhiều vị lãnh đạo trong Đảng đã diễn giải “định hướng xã hội chủ nghĩa” tức là ưu ái các doanh nghiệp nhà nước, coi họ là “quả đấm thép”, là “xương sống của nền kinh tế”, và đương nhiên khi đã là quả đấm thép, là xương sống thì sẽ có những ưu ái khác biệt, khác hẳn các doanh nghiệp không phải của nhà nước, và đã tạo ra một môi trường theo kiểu “nuôi dưỡng kiêu binh”, một đội ngũ doanh nhân và doanh nghiệp được chiều chuộng và bị lạm dụng cho các mục tiêu cá nhân của những vị lãnh đạo của Đảng và nhà nước , chúng dần dần biến thành những nhóm lợi ích bao gồm lãnh đạo đảng và nhà nước – doanh nghiệp nhà nước – các doanh nghiệp tư nhân trong phe cánh, để chia chác tài nguyên của đất nước, chia chác những ưu đãi, những thị phần quan trọng, chia chác những nguồn tài chính của đất nước…v.v. Những xu hướng vô cùng nguy hiểm và xấu xa này là được che đậy bởi khẩu hiệu định hướng xã hội chủ nghĩa !!!
Lẽ ra, trong hoàn cảnh hệ thống chủ nghĩa xã hội trên thế giới sụp đổ, thì những người cộng sản VN nếu thực sự trung thành với lý tưởng của mình là vì dân vì nước thì phải tìm ra con đường mới để đưa đất nước tiến lên, đưa dân tộc trở nên giàu có. Nhưng rất tiếc trên thực tế thì “cái gọi là những người cộng sản” hoặc là do ấu trĩ, hoặc là do hư hỏng, đã cố tìm cách níu kéo những tư duy đã lỗi thời của quá khứ, và họ đã phản bội lại mục tiêu tối thượng của mình. Họ chỉ tìm cách ru ngủ mình, ru ngủ nhân dân bằng những khái niệm mơ hồ với những khẩu hiệu rỗng tuếch. Với thực tế này, Đảng cộng sản đã trở thành trở ngại của sự phát triển, của tiến bộ , là nơi nuôi dưỡng những ung nhọt. Chúng tôi thật sự choáng váng khi nhận biết được là các vị lãnh đạo của đảng, và đặc biệt là ông tổng bí thư, đã không nhận ra thực tế phũ phàng này mà lại tiếp tục ru ngủ mình và ru ngủ người khác bằng các bài thuyết giáo ngớ ngẩn dến mức kỳ cục. Xin hãy đọc lại bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trong chuyến đi thăm Cuba vừa qua. Chúng ta thấy sự lặp lại một cách lố bịch những tư tưởng giáo điều mà người ta chỉ sử dụng vào trước những năm 70 của thế kỷ trước. Chúng tôi không hiểu nổi tại sao người lãnh đạo cao nhất của đảng lại bất chấp mọi thực tế, bất chấp sự vận động của thực tế khách quan đến như vậy! Đội ngũ hàng nghìn những cán bộ tuyên huấn do ông Nguyễn Phú Trọng đứng đầu trong suốt mấy thập niên vừa qua đã làm gì, đã tạo được cái gì mới, để cho chủ nghĩa Mác Lênin có thể sống được với thực tế phát triển của nhân loại, ngoài việc lặp đi lặp lại như những con vẹt nghễnh ngãng với thời cuộc. Chẳng thế mà trong đợt góp ý sửa đổi hiến pháp năm 1992 vừa rồi, Đảng mà người đứng đầu là ông tổng bí thư đã sử dụng bộ máy tuyên truyền viên hùng hậu, cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong toàn quốc để đưa ra đủ loại biện minh cho việc phải đưa vào hiến pháp nội dung “lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng”. Thật kỳ lạ! Sự ép buộc này chỉ có thể lý giải bằng một cách duy nhất, là các vị lãnh đạo cao cấp của đảng đang sợ những đảng viên của chính mình (trong hàng ngũ sĩ quan và hạ sĩ quan thì 100% là đảng viên) hiện đang làm việc trong các lực lượng vũ trang chống lại họ! Thật là hài hước và châm biếm! Và nếu họ sợ như vậy, tại sao lại phải phơi bầy lên một đạo luật cơ bản của đất nước các vấn đề nội bộ đáng đau lòng của Đảng. Phải chăng không còn cách nào khác để giải quyết các vấn đề nội bộ trong đảng, thì phải phơi nó lên hiến pháp trước toàn dân và trước cộng đồng quốc tế?! Và liệu quy định như vậy trong hiến pháp thì lực lượng vũ trang hay các đảng viên trong lực lượng vũ trang có từ bỏ việc chống lại lãnh đạo đảng không?! Sự lú lẫn của ông tổng bí thư lên đến cực điểm khi dám phát biểu công khai là Hiến pháp được xếp vị trí thứ hai sau cương lĩnh đảng!!! Nhận định này cực kỳ phi chính trị, cực kỳ thiếu hiểu biết, hóa ra khẩu hiệu “của dân, do dân, vì dân và vì tổ quốc” là láo toét!
Thưa các quý vị, rõ ràng trên thực tế đã khẳng định tình trạng quy hoạch nhân sự của đảng đã bị hư hỏng nghiêm trọng từ rất lâu, bắt đầu từ việc quy hoạch các vị trí đứng đầu của đảng: Tổng bí thư, BCT, BCH TƯ. Chúng tôi thấy trong hội nghị TƯ 8 vừa rồi, các quý vị đã thành lập nhiều tiểu ban, trong đó có tiểu ban nhân sự để chuẩn bị cho đại hội 12. Cảm nhận của những đảng viên chúng tôi là lại bắt đầu một đợt chạy chức, chạy quyền rất náo nhiệt từ nay đến đại hội, mà BTC TƯ là sân khấu chính cho cuộc đua, giống như các kỳ đại hội trước đây.
Kính thưa các quý vị, đảng đã yếu kém như vậy thì làm sao chính phủ mà 100% là đảng viên và là ủy viên TƯ lại không tham nhũng lãng phí được. Chúng ta lấy thí dụ của ông Dương Chí Dũng, ông Phạm Thanh Bình: họ phải tìm cách tạo dựng ra nhu cầu giả cho việc mua sắm, đầu tư để xin tiền nhà nước mua tàu cũ, mua ụ nổi để kê giá, để chia chác. Chắc các quý vị cũng thừa hiểu những loại như Dương Chí Dũng đang nhung nhúc trong bộ máy đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta hãy nhìn lại cái gọi là cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng trong suốt nhiều thập kỷ qua, và đặc biệt đã dâng lên thành cao trào được thể hiện trong các hội nghị TƯ 4, 5, 6 vừa qua. Thật khôi hài, ông TBT đã khởi động một chiến dịch có thể gọi là công khai và mạnh mẽ nhất chống tham nhũng. Nghị quyết TƯ 4, 5 được nhân dân và các đảng viên chúng tôi rất hy vọng vào sự kiên quyết của những bàn tay trong sạch của Đảng nhằm loại đi những ung bướu cấp tính trong bộ máy của Đảng va nhà nước, nhưng hội nghị TƯ 6, 7 và 8 đã cho một kết quả hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi bảo nhau, nếu chi bộ chúng tôi mà có kiểu phê và tự phê giống như BCT và BCH TƯ đã làm trong hội nghị TƯ 6 thì chắc chắn đã bị đảng ủy cấp trên xếp vào chi bộ yếu kém và phải thay dổi lại ban lãnh đạo của chi bộ. Việc rõ ràng đến như vậy mà dường như TBT và nhiều vị ủy viên bộ chính trị trong BCH TƯ không cảm thấy xấu hổ, và vẫn giao giảng huấn thị toàn Đảng phải tổ chức phê và tự phê theo gương BCT! Chúng tôi xin phép được nói thẳng, khẩu hiệu phê và tự phê chỉ là khẩu hiệu đầu lưỡi, chỉ là sự lên gân hình thức trong một thời gian rất ngắn nhằm tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân. Còn việc tự khen mình và khen lẫn nhau, kéo bè kéo cánh mới là bản chất, mới là sinh hoạt thường xuyên của Đảng, của ban lãnh đạo đảng va chính phủ hiện nay!!!
Thưa các quý vị, Đảng kém như vậy, chính phủ tham nhũng như vậy, thì làm sao có thể đảm bảo được độc lập cho đất nước, làm sao có thể giữ vững được an ninh quốc phòng. Hãy nhìn vào hiện tượng Đảng ngăn cản người dân đứng ra tổ chức tưởng niệm những liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc là một ví dụ điển hình. Tại sao lại hèn nhát đến như vậy? Người dân Việt Nam không bao giờ muốn gây chiến, không ủng hộ chủ nghĩa dân tộc quá khích. Nhưng quyền được tưởng nhớ và tôn vinh những người con của đất nước đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc là quyền tối thiểu của mỗi người dân cũng bị đe dọa tước mất, phải chăng đó là thông điệp của Đảng muốn gửi tới nhân dân rằng nếu Trung Quốc có xâm lược Việt Nam một lần nữa thì người dân hãy cúi đầu làm nô lệ, không được chiến đấu để bảo vệ tổ quốc nữa? Một hiện tượng nữa cũng phải nhắc tới để thấy rõ sự hèn nhát, kém cỏi của bộ máy lãnh đạo: trong dịp quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp, việc ấn định ngày tổ chức lễ quốc tang là do lãnh đạo Đảng chủ động xác định, ấy vậy mà khi thủ tương Trung Quốc Lý Khắc Cường chưa kịp hạ cánh xuống sân bay Nội Bài thì chính quyền thành phố Hà Nội đã xua người đi kêu gọi nhân dân hạ cờ rủ xuống khi mà buổi lễ an táng vẫn chưa kết thúc. Tại sao lại phải hèn nhát đến như vậy? Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam thì cũng phải biết tôn trọng người Việt Nam chứ. Nếu mà có tư duy kém cỏi, nhược tiểu như vậy thì mua tàu ngầm kilo, mua SU30, SS300, khu trục hạm Đinh Thiên Hoàng để làm gì? Muốn chống giặc ngoại xâm thì phải có lòng kiêu hãnh và khí phách chứ! Giặc Mỹ, giặc Pháp thua Việt Nam chỉ vì điều này. Nguyên lý sơ đẳng như vậy mà tại sao lãnh đạo đảng ngày nay không ý thức được? Các vị lớn tiếng nói đến việc xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, sao các vị không nghĩ tới việc xây dựng lòng tin với người dân của mình?
Thưa các quý vị, Đảng không được lấy lý do là vì sự ổn định chính trị của đất nước làm cái cớ để làm những việc xằng bậy, yếu kém và vô liêm sĩ như vậy! Ổn định chính trị là rất cần thiết đối với mọi quốc gia, nhưng giữ ổn định là để đưa đất nước tiến lên, chứ không phải để kìm hãm kéo lui đất nước về mọi mặt như hiện nay!
Chúng tôi rất chia sẽ với những câu kết của bút danh Bùi Minh Quốc khi viết về lễ quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài Một vài suy nghĩ về “hiện tượng” những ngày quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng “Sẽ đến lúc sự giả dối, sự ngu dốt, sự hèn nhát và các toan tính bẩn thỉu sẽ bị quét sạch ra khỏi đất nước này.”
Thưa các ông các bà lãnh đạo đảng và nhà nước, các ông các bà có hiểu rằng nếu các ông các bà tiếp tục có thái độ thờ ơ với dân với nước như những ngày vừa qua thì chính người dân Việt Nam, trong đó có cả các đảng viên cộng sản như chúng tôi sẽ vùng lên, sẽ không để cho các ông các bà làm trò hề tổ chức đại hội đảng thêm một lần nữa, sẽ không có đại hội lần thứ 12 nữa đâu! Người dân Việt Nam sẽ không cho phép các ông các bà tiếp tục tham ô của quá khứ và ăn cắp của tương lai. Chúng tôi đã đều lớn tuổi, nhưng chúng tôi sẵn sàng hiến dâng phần đời còn lại của mình để giúp con cháu cùng hàng triệu người dân Viêt Nam anh hùng đứng lên quét sạch những loại rác rưởi của dân tộc, của đất nước! Trong tai chúng tôi bây giờ văng vẳng lời của bài hát diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi “Diệt phát xít, diệt bầy chó đê hèn của chúng, tiến lên nền dân chủ cộng hòa. Đồng bào tuốt gươm vùng lên…” Các ông các bà có tin là một cuộc cách mạng giống như cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 sẽ nổ ra rất sớm hay không?
Chúng tôi yêu cầu lãnh đạo Đảng phải tự thay đổi lập tức ngay từ bây giờ, thậm chí phải tự lột xác, thì mới còn hy vọng vớt vát lại phần nào niềm tin đối với nhân dân, mới có cơ hội để chuộc lỗi với các sai lầm đã mắc trong thời gian vừa qua, mới không phụ với sự hy sinh của hàng triệu con người đã ngã xuống cho đất nước, cho dân tộc vì lý tưởng của đảng là độc lập, thống nhất tổ quốc, là xây dựng một đất nước hùng cường, một dân tộc hiển vinh, một đời sống dân chủ, tự do hạnh phúc….
                                                                                                  Hà Nội, 28 tháng 10 năm 2013
                                                                                                                Lê Trấn Gia



30 tháng 4 – nhìn lại chiến tranh

Published on April 29, 2014 · No Comments
Thỉnh thoảng tôi đọc trong Internet một vài lá thư có nội dung bày tỏ thái độ không đồng ý của người viết đối với số chính sách của đảng và nhà nước, được gởi ra từ trong nước. Các tác giả của những lá thư đó tuy khác nhau ở tên họ, địa chỉ, nhưng chung dưới một tên gọi là “các cựu chiến binh lão thành”.

Những lá thư như thế chắc không phải được viết bằng máy vi tính hiện đại như tôi đang sử dụng mà có lẽ bằng những cây viết có ruột cao su mềm, bơm mực bằng tay được cất giữ kỹ lưỡng từ lâu lắm. Nhìn vào tên tuổi và chức vụ, tôi biết các cụ thuộc thế hệ Điện Biên và không ít là người của thời mùa thu 1945 còn lại. Địa chỉ của các cụ tuy khác nhau nhưng giống như lá thư tập thể, phần đông sống trong các khu nhà cũng có tên chung là Khu Tập Thể.
Trong suốt bảy, tám mươi năm của đời mình, các cụ sống, làm việc và được rèn luyện để thừa hành chỉ thị của cấp trên chứ không quen đặt vấn đề, các cụ tập chịu đựng đau đớn chứ không được phép rên la. Và vì thế, viết một lá thư đã là một việc khó khăn, gởi lá thư đó đến các cấp đảng và nhà nước trung ương là một can đảm chưa từng nghĩ đến rồi phổ biến lá thư rộng rãi ngoài quần chúng quả thật là một hành động phi thường. So với việc ôm ngọn tầm vông vót nhọn lao vào phòng tuyến thực dân trong những ngày còn trai trẻ, hành động viết lá thư gởi lên trung ương đảng ngày nay có thể còn nguy hiểm hơn nhiều. Những kẻ mà các cụ lo sợ sẽ trả thù, dèm pha, nghi kị không phải bọn thực dân mắt xanh, mũi lõ dễ phân biệt mà là những người cùng tổ chức, cùng đảng, cùng gọi nhau là đồng chí và ngay cả những kẻ còn thuộc hàng con cháu các cụ.
Tôi hình dung cái đêm các cụ tập trung nhau ở nhà một người nào đó trong nhóm để thảo lá thư, chắc phải bí mật, hồi hộp hơn cả giờ ra trận và xúc động hơn cả đêm cuối cùng bên cạnh vợ con trước ngày lên đường đi Lai Châu, Hà Nam, Hà Bắc không biết có ngày trở lại, của mấy chục năm về trước. Các cụ lo sợ là phải. Những kẻ mà các cụ chống đối ngày nay, không những biết rõ nơi ăn chốn ở mà còn là người quyết định các chỉ tiêu lương thực, thực phẩm, tiền hưu trí, phụ cấp nhà ở của các cụ. Những kẻ đó không những nắm quyền sinh sát cho đoạn đời ngắn ngủi còn lại của các cụ mà cũng có luôn cả quyền xóa bỏ quá khứ mà các cụ vô cùng trân quý.
Tôi nghĩ đến các cụ và thương các cụ rất nhiều. Không phải sau khi đọc những lá thư được gởi từ các khu nhà tập thể, không phải sau khi đã ra được nước ngoài mà ngay cả từ thời mới lớn tại miền Nam trước 1975, hình ảnh các cụ vẫn rất đẹp trong lòng tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tất cả những người Việt Nam sống bên kia sông Bến Hải là cộng sản, trái lại tin rằng ẩn khuất sau đám mây đen độc tài đảng trị đó vẫn có những tấm gương sáng của lòng yêu nước chân thành. Dân tộc nào trên thế giới cũng yêu thương và gắn bó với đất nước của họ, nhưng tôi vẫn có một niềm tin chủ quan rằng con người Việt Nam nặng lòng với quê hương đất nước nhiều hơn các giống dân khác. Bởi vì không có một đất nước nào, ở đó, mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông, mỗi con đường đã được gìn giữ bằng một giá đắt như ông bà chúng ta đã phải hy sinh trong suốt dòng lịch sử.


Những ngày còn ở trung học, tôi thuộc lòng bài thơ Nhà tôi của Yên Thao và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Cả hai bài thơ được đăng trong tạp chí Bách Khoa ở Sài Gòn, trong đó có những câu làm tôi rơi nước mắt :
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
– Con là ai ? Con ở đâu về ?
Hé một cánh liếp
– Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng.
(Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm)

hay là :

Đêm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắp tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi đấy bên trại thù quạnh quẽ
Nằm im lìm như một nắm mồ ma
Có còn không ! Em hỡi một mẹ già ?
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa.
(Nhà tôi, Yên Thao)

Tôi thường tự nhủ, nếu được sinh ra cùng thời với các cụ và có đủ can đảm, con đường đẹp nhất mà tôi chọn có lẽ cũng là con đường mà các cụ đã đi :

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(Đất nước, Nguyễn Đình Thi)

Sau 1975, nghe bài hát Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý viết trong thời chống Pháp, tôi cũng vô cùng cảm động : “Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo ; Người mẹ nghèo trong áo rách, áo rách nên thương ; Các con ra đi đã mấy chiến trường ; Mang theo cả tình thương của mẹ“. Trong hình ảnh nghèo nàn, đau xót đó đã toát lên một vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẹ và tình đất nước.
Trong một buổi thảo luận với các bạn trẻ, tình cờ trùng hợp với thời gian Việt Nam đang kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ, một bạn đã hỏi cảm tưởng của tôi đối với những người ngã xuống trên phòng tuyến Điện Biên Phủ, trên đường tấn công vào sào huyệt của tướng de Castrie. Tôi đã trả lời người bạn trẻ rằng tôi rất có cảm tình và kính trọng những người chết trên đường đánh vào bộ chỉ huy của tướng de Castrie. Trả lời như vậy không phải vì tôi chưa suy nghĩ kỹ. Thật ra, từ khi biết nghĩ về đất nước, tôi đã suy nghĩ về cái chết của những người Việt Nam đó rất nhiều.
Khi nói cảm tình với những người chết khi tấn công vào Điện Biên Phủ không phải tôi không biết rằng trong thời điểm đó đã có mặt một chính phủ khác, hình thành như kết quả của hiệp ước Hạ Long 1948 và sau đó trong hiệp ước ký kết tại điện Élysée giữa cựu hoàng Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol năm 1949. Theo nội dung chính của cả hai hiệp ước, Pháp công nhận “nền độc lập” của Việt Nam. Thật ra, đó chỉ là chiếc bánh vẽ mà dân Việt Nam chẳng thể nào ăn được. Sử gia Phạm Văn Sơn ở miền Nam đã viết trong Việt sử toàn thư : “Nhưng sau 80 năm sống dưới quyền Pháp, nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ người Pháp quá nhiều, lại nhìn vào Bảo Đại và thành phần chính của chính phủ Bảo Đại, nhân dân cũng hết tin tưởng, vì vậy mà cây bài quốc gia tức cây bài Bảo Đại không có hiệu quả“.
Là một sĩ quan cấp Đại tá, phụ trách phòng quân sử thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lẽ ra ông phải viết khác đi cho thích hợp với bối cảnh chính trị Việt Nam sau hiệp định Genève, nhưng không, sử gia Phạm Văn Sơn đã có một cái nhìn sáng suốt. Ông viết từ trái tim yêu nước và viết cho hàng trăm năm sau chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu chính trị nhất thời.


Đại tá Phạm Văn Sơn, người đã chết trong trại tù Vĩnh Phú năm 1980, đã ví các nỗ lực của thực dân nhằm tiêu diệt lòng yêu nước bền bỉ của nhân dân Việt Nam chẳng khác gì là việc “cầm dao chém nước”, chẳng thể nào chẻ được lòng yêu nước của người Việt Nam. Khi nói cảm tình với những người lính chết trên đường tấn công vào Điện Biên Phủ không có nghĩa tôi không biết rằng ông Hồ Chí Minh là một cán bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản và những người lãnh đạo phong trào Việt Minh phần lớn là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Lenin đã khẳng định cuộc cách mạng chống thực dân là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới và cũng chính Lenin cho rằng các nước thuộc địa lạc hậu có khả năng nhảy vọt lên chủ nghĩa xã hội mà không cần thông qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ngay từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tư tưởng đó luôn luôn là tư tưởng chỉ đạo cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
Tôi kính trọng và quý mến những người đã ngã xuống, đơn giản bởi vì họ là những người yêu nước. Tình yêu họ dành cho nơi chôn nhau cắt rốn là một tình yêu thuần khiết và vô cùng trong sáng. Lòng yêu nước của họ không nhập từ đâu cả nhưng được hun đúc bằng xương máu từ nhiều ngàn năm lịch sử, lớn lên trong lời dạy bảo của cha và lời ru của mẹ.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 26 tháng 2 năm 2005 của đài BBC, nhà thơ Hoàng Cầm cũng đã xác nhận : “Lúc ấy tôi còn trẻ (đỗ tú tài năm 1940), tham gia cách mạng là vì tinh thần yêu nước chứ cũng không biết gì về các chủ nghĩa. Tôi viết các vở kịch mang chất lịch sử, xuất phát từ lòng yêu nước“. Một người như nhà thơ Hoàng Cầm, có bằng tú tài, một trình độ giáo dục được xem là cấp cao của thời bấy giờ, vẫn không biết gì về chủ nghĩa Mác-Lê thì hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu tâm hồn nông dân chơn chất Việt Nam khác làm sao hiểu được thế nào là duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, giá trị thặng dư, thời kỳ quá độ và họ chắc cũng chẳng quan tâm đến các ông Các Mác râu xồm hay ông Lê-nin trán hói là ai.
Tôi tin tuyệt đại đa số những người đã chết trong cuộc chiến chống thực dân là những người hy sinh cho độc lập, tự do đúng nghĩa. Họ ngã xuống cho thanh bình sớm được vãn hồi trên quê hương khổ đau và bất hạnh Việt Nam. Họ ngã xuống trong nụ cười, bởi vì ngay cả khi nhắm mắt lìa đời họ vẫn tin rằng họ đang chết cho Tổ quốc, đang chết cho tương lai dân tộc như tổ tiên họ đã chết trên sông Bạch Đằng, trên bến Chương Dương, trong đầm Dạ Trạch, giữa núi rừng Yên Thế. Họ chết đi trong giấc mơ tuyệt đẹp về một đất nước tương lai, một đất nước của Hùng Vương thân thương và giàu mạnh. Tuyệt đại đa số, nếu không muốn nói rằng tất cả, đều tin như thế.
Tôi không tin một người Việt Nam nào có thể lấy thân mạng mình lấp vào ổ súng thực dân hay lấy thân mình làm đòn kê để khẩu pháo khỏi rơi xuống hố sâu chỉ để mong một ngày đất nước Việt Nam sẽ biến thành một thiên đường, ở đó con người làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, muốn gì có nấy như đã khẳng định trong kinh điển Mác-Lê. Không ! Những nông dân Việt Nam yêu nước từ bỏ ruộng vườn ra đi theo tiếng gọi của non sông như một thời vang vọng từ Chí Linh, Lam Sơn, Bạch Đằng, từ bốn ngàn năm lịch sử. Họ đã từng ôm lấy nhau mà hát “Vì nước, ruộng nương anh để vợ anh cày, gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay… Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng còn cười buốt giá chân không giày, thương nhau, ta nắm lấy bàn tay“.
Không ai gần gũi với đất nước hơn là nông dân và cũng không ai yêu đất nước hơn người nông dân. Cả đời họ gắn liền với bờ ao, ruộng lúa. Họ đánh Tây chỉ vì một lý do đơn giản, để được sống thanh bình, tự do trong căn nhà tranh, bên bờ ao thửa ruộng của họ. Ý nghĩa của quê hương trong lòng người nông dân trong sáng như thế đó.Và cho dù những người nông dân áo vải thô đó có tham gia vào đảng cộng sản đi nữa, việc tham gia của họ cũng chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hiệp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn mà thôi. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng ; sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt Quốc dân Đảng ; sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long họ sẽ gia nhập Việt Nam Dân Xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ XX.
Trong ý thức đơn sơ của người dân Việt, các tổ chức chống thực dân là những chiếc phao họ bám để sang bờ độc lập. Người dân hiền lành ngày đó làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt cuộc đời họ cho đến ngày nay.
Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam nhưng tôi nhìn lịch sử từ hướng con tim và bằng lý trí chứ không nhìn từ điện Cẩm Linh, tòa Bạch Ốc, khu Trung Nam Hải hay bằng những kiến thức lý luận một chiều. Tôi học để hiểu rằng cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Đó là cuộc chiến giữa dân tộc Việt Nam bị trị chống lại thực dân Pháp bóc lột và nô lệ đất nước chúng ta. Cuộc chiến đó bắt đầu khi tiếng đại bác của tướng thực dân Rigault de Genouilly bắn vào Đà Nẵng năm 1859 chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm lược cho đến khi chúng rút ra khỏi Việt Nam vào năm 1954.
Trong gần một trăm năm đó, máu của hàng triệu người Việt Nam đã đổ xuống khắp ba miền, từ ruộng lúa Tiền Giang đến châu thổ sông Hồng, từ Côn Đảo đến Réunion, từ dải Trường Sơn trùng điệp đến núi rừng âm u Việt Bắc. Bên tai tôi như vẫn còn nghe tiếng hô “Việt Nam vạn tuế” của Nguyễn Thái Học, lời dặn dò của Phan Châu Trinh, tiếng gào thống thiết của Nguyễn An Ninh, lá thư viết bằng máu của Phan Bội Châu, giọng thơ hùng tráng của Lý Đông A, tiếng sóng Châu Giang vỗ vào thân xác của Phạm Hồng Thái. Người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Khoảng cách giữa thương nước và hại nước không phải là một chiếc cầu dài mà trái lại rất ngắn và mỏng như sợi tóc. Chiếc cầu nhận thức đó ngắn đến nỗi nếu chỉ bước thêm một bước nữa, một người yêu nước sẽ tức khắc trở thành kẻ bán nước.
Đó là thực chất của cuộc chiến gọi là “Chống Mỹ cứu nước” sau 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều người nhìn cuộc chiến Việt Nam như nhìn vào màu nước biển. Tùy theo thời gian và chỗ đứng của mỗi người, nước biển có một màu sắc khác nhau. Nhưng màu thật sự của giọt nước không thay đổi dù sáng, trưa, chiều, tối, trong bờ hay ngoài khơi. Tương tự, cuộc chiến Việt Nam đã được gọi bằng nhiều tên gọi : nội chiến, chống đế quốc, ủy nhiệm, đánh thuê… nhưng bản chất của cuộc chiến vẫn chỉ là một mà thôi. Như vậy, bản chất của cuộc chiến từ 1954 đến 1975 là gì ?
Trong các định nghĩa về chiến tranh, tôi vẫn đồng ý với định nghĩa của Karl von Clausewitz nhất, “chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những phương tiện khác” (War is the continuation of politics by other means). Và từ định nghĩa đó, nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, thay vì đi tìm nhãn hiệu quốc gia nào trên từng vỏ đạn, trên mỗi chiến xa hay thử nghiệm DNA, màu da, chủng tộc của từng xác chết, có lẽ chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân và mục đích của cuộc chiến đã xảy ra trên đất nước mình, không phải trong thời chiến mà ngay cả trước và sau cuộc chiến.
Nói về mục đích chiến tranh, khoảng năm 1970, tôi có đọc một cuốn sách của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Tôi không nhớ chính xác tên của tác phẩm nhưng nhớ rất rõ giáo sư đã dành nguyên trang đầu để viết mỗi một câu : “Nói cho cùng, cuộc chiến Việt Nam vẫn là cuộc chiến tranh ý thức hệ“. Câu nói đó kích thích sự tìm hiểu của tôi rất nhiều về bản chất và mục đích của cuộc chiến Việt Nam mà các bên tham dự đang nhắm đến.
Ở miền Nam, chúng tôi lớn lên với nhiều câu hỏi và rất ít câu trả lời, trong khi đó, thế hệ trẻ miền Bắc lớn lên có tất cả câu trả lời chờ sẳn mà không cần đợi hỏi. Nếu ai hỏi một trăm em, hay thậm chí một ngàn em học sinh Việt Nam tốt nghiệp phổ thông về lý do của cuộc chiến tranh được mệnh danh là “giải phóng miền Nam“, tôi tin người hỏi sẽ nhận về những câu trả lời giống hệt nhau, đó là “đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược để thống nhất đất nước“.


Giặc Mỹ xâm lược ?
Phải chăng vì “giặc Mỹ xâm lược” Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Tây Đức nên ngày nay các quốc gia này mới trở nên những nước giàu có nhất nhì trên thế giới. Thống nhất đất nước ? Vâng, không một người Việt Nam nào muốn cắt đi phần da thịt của mình hay muốn đất nước mình phải chia đôi, chia ba, nhưng nếu để đổi sự thống nhất bằng sinh mạng nhiều triệu người dân vô tội, nhiều trăm ngàn người Việt Nam vẫn còn đang mất tích, hàng vạn cô gái Trường Sơn đã đánh mất tuổi xuân trong rừng sâu núi thẳm, một nền kinh tế đi sau nhân loại hàng thế kỷ, phải chăng là một giá nên đổi ? Độc ác như Kim Nhật Thành nhưng sau cuộc thử lửa 1950 đã không còn nuôi giấc mộng xâm chiếm Nam Hàn lần nữa. Bạo chúa cỡ Erich Honecker cũng chưa bao giờ dám nghĩ chuyện phiêu lưu thống nhất nước Đức bằng con đường võ lực.
Trước 1975, tôi nghe rất nhiều về quốc gia, cộng sản nhưng ai cũng bận đánh nhau, chẳng bao nhiêu người dành thời gian nghiên cứu kỹ càng và phổ biến rộng rãi về thế nào là quốc gia, thế nào là cộng sản. Một số không ít các nhà lãnh đạo miền Nam từng là sĩ quan trong quân đội Pháp hay đã phục vụ trong chính quyền thuộc địa Pháp nên cũng không thích nghe quá nhiều những mẩu chuyện khơi dậy lòng yêu nước chống thực dân và họ cũng không đặt nặng việc xây dựng một hệ ý thức quốc gia – dân tộc nào hoàn chỉnh. Một số người được gọi là trí thức trong xã hội miền Nam thì xem việc chống chính phủ, chống Mỹ là một thời trang, mặc dù nhiều trong số họ ăn lương Mỹ.
Xã hội miền Nam trước 1975 hẳn nhiên không phải là một xã hội lý tưởng. Miền Nam có tham nhũng, có cậy quyền, có lũng đoạn, có độc tài, có tham ô, có lãng phí, nói chung có đủ các biến chứng tiêu cực của một đất nước vừa thoát ra khỏi ách phong kiến và thực dân. Nhưng đồng thời miền Nam cũng có các điều kiện và nhân tố cần thiết để xây dựng một xã hội dân chủ pháp trị. Giống như việc trồng cây ăn trái, những hạt mầm dân chủ cũng phải được gieo, phân bón, tưới nước, chịu đựng nắng mưa, gió bão, truớc khi đâm chồi, nẩy lộc, đơm hoa và kết trái.
Mặc dù đang chập chững trên hành trình dân chủ hóa như thế, không có nghĩa là hàng triệu người lính miền Nam chiến đấu không lý tưởng. Một người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được. Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng vĩ đại bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.
Trong suốt 20 năm từ sau 1954, nhân dân miền Nam, không có một con đường nào khác hơn là phải chiến đấu để bảo vệ quyền được sống trong một xã hội họ đã chọn lựa. Phát xuất từ chính sách chia để trị của thực dân và hoàn cảnh trưởng thành, không ít nhà lãnh đạo miền Nam đã bắt đầu cuộc đời chính trị hay binh nghiệp trong hàng ngũ Pháp, nhưng giống như hàng triệu người dân miền Nam khác, họ đã chung lưng nhau chiến đấu để bảo vệ quyền được nói những điều họ nghĩ, quyền được sống nơi họ muốn sống, quyền đi nhà thờ, đi chùa họ chọn, quyền được hát bài hát họ thích.
Dù quá khứ khác nhau nhưng họ đều ngã xuống như những người yêu nước. Đừng quên, những người bị gọi là “Ngụy”, là “theo Tây”, “theo Mỹ” kia không chỉ phải bảo vệ miền Nam mà còn phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn để giữ từng cù lao, từng khoảng không gian của vùng trời, từng hải lý của vùng biển Việt Nam. Hạt cát Hoàng Sa vẫn còn đỏ màu máu của họ.
Thế nhưng, số phận các quốc gia nhược tiểu thì ở đâu và thời nào cũng vậy, nếu tương hợp với quyền lợi của đế quốc thì sống và ngược lại thì chết. Bởi vì mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam rất tương hợp với quyền lợi của Liên Xô và Trung Quốc nên “vinh quang này thuộc về Đảng Lao động Việt Nam” như Lê Duẩn nói, trong lúc nhiều cấp lãnh đạo miền Nam phải tự sát hay sắp hàng đi vào tù bởi vì quyền lợi của nhân dân miền Nam (chiến đấu để bảo vệ và xây dựng các nền móng tự do – dân chủ riêng ở miền Nam) không còn tương hợp với sách lược thế giới của Tổng thống Richard Nixon.
Thật ra, không phải đợi đến khi Tổng thống Nixon thay đổi đường lối chiến tranh mới dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam, chính sách của Mỹ tại Việt Nam đã thất bại ngay từ trong trứng. Đánh nhau với ba nước tiên phong và hùng hổ nhất trong khối cộng sản quốc tế (Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô) mà chỉ nhằm bảo vệ miền Nam Việt Nam thì sự thất bại là vấn đề thời gian mà thôi. Danh tướng Đức Erwin Rommel chẳng từng viết “Phòng thủ là tự sát” đó sao. Trong chiến tranh Đại Hàn, nếu quân đội Đồng Minh không đổ bộ Incheon, giải phóng Seoul, vượt vĩ tuyến 38, chiếm cả thủ đô Bình Nhưỡng của Bắc Hàn, mà chỉ lo phòng thủ miền Nam thì số phận Nam Hàn chưa biết sẽ ra sao. Sau 1975, chính ông Tổng bí thư Lê Duẩn đã xác định cuộc chiến từ sau 1954 đến 1975 là chiến tranh ý thức hệ giữa hai phe cộng sản và tự do.
Trong diễn văn chào mừng chiến thắng vào đầu tháng 5 năm 1975, ông Lê Duẩn không còn che giấu tham vọng nhuộm đỏ cả nước Việt Nam khi tuyên bố : “Vinh quang này thuộc về Đảng Lao động Việt Nam quang vinh, người lãnh đạo của giai cấp công nhân, giai cấp tiền phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội“. Câu nói “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc…” đã trở thành một trong những câu khẩu hiệu phổ biến nhất trong thời kỳ đó. Câu khẩu hiệu dài lòng thòng này đã làm tốn nhiều vải và mực nhất trong những năm mà người dân không có áo mặc sau 1975. Ngoài ra, trong tác phẩm được xem như là kinh điển, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, ông Lê Duẩn cũng nhiều lần khẳng định mục đích cuối cùng của cách mạng tại Việt Nam là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội hiện đại (công nghiệp, nông nghiệp và khoa học kỹ thuật), tạo điều kiện vững chắc cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trong tương lai. Nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục đích chính trị.
Người đọc sẽ thắc mắc, thế thì công sức của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ nhưng cũng rất vinh quang đó là gì ? Xin thưa, từ nhỏ tôi được dạy rằng khi giúp đỡ ai thì đừng cầu ơn phước, vì giúp người chỉ để mưu cầu lợi lộc riêng tư thì không phải giúp người mà chỉ là một hành động đầu tư trên sự khổ đau của kẻ khác mà thôi.
Từ khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương cho đến 1954, giới lãnh đạo cộng sản đã chiến đấu trong hàng ngũ người Việt yêu nước, vâng, nhưng mục đích cuối cùng của họ không phải là độc lập dân tộc hay thống nhất đất nước. Ba mươi năm, kể từ 1975, một khoảng thời gian đủ dài và một vết chém đủ đau để nhân dân Việt Nam ý thức ra rằng thống nhất đất nước chỉ là điều kiện tiền đề cho mục đích cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam.
Hành động đốt sách vở một cách không phân biệt, xóa bỏ mọi tàn tích văn hóa cũ, đổi tiền năm bảy lượt, bỏ tù hàng trăm ngàn người, đày đi kinh tế mới hàng triệu đồng bào là những bằng chứng hiển nhiên đến mức không ai còn có thể chối cãi được. Nếu chỉ đánh Mỹ để giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, tại sao họ đã thi hành các biện pháp đầy đọa, trừng phạt, tẩy não vô cùng thất nhân tâm như đã làm sau 1975 đối với chính đồng bào máu mủ của mình ?Trong quan điểm đó, Đảng Cộng sản không có công trạng hay ơn nghĩa gì với dân tộc Việt Nam cả. Họ chỉ là những người cho vay lấy lãi nặng bằng máu xương của bao nhiêu thế hệ Việt Nam. Hãy so sánh cách sống của những ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên trung ương đảng và cuộc đời của những người được gọi là “chủ nhân đất nước” đang lay lắt dưới gầm cầu Long Biên để thấy cái mức lãi mà dân tộc ta phải trả cho Đảng Cộng sản Việt Nam cao đến bao nhiêu. Bất cứ người Việt Nam có một chút kiến thức kinh tế, chính trị và nhìn lịch sử một cách khách quan phải công nhận rằng, nếu không có ý thức hệ cộng sản, Việt Nam không những vẫn là một dân tộc thống nhất mà còn có đời sống tự do, dân chủ, nhân bản và giàu mạnh gấp trăm lần hơn hôm nay.
                                                                                                                           Trần Trung Đạo


Điều trần của đoàn khách mời đến từ Việt Nam

Theo FB Nguyễn Tường Thụy
Chúng tôi chỉ có thời gian 1'20" đến 1'30" cho phần điều trần của mình nên không thể nói được hơn-NTT
Vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam - Nhà báo độc lập Tô Oanh
Tôi là giáo viên đã nghỉ hưu. Trước đây tôi từng tích cực viết bài cho các báo của Nhà nước nhằm phê phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và góp ý kiến của mình về sách giáo khoa trong trường phổ thông. 
Dần dần báo giấy Việt Nam đã mất dần lượng bạn đọc vì chất lượng của những tờ báo ngày càng giảm sút. Sự can thiệp của Ban tuyên giáo các cấp, sự “định hướng” trong các cuộc Giao ban báo chí định kỳ hàng tháng cho các tổng biên tập đã làm cho các tờ báo Nhà nước dẩn mất đi cái đặc thù riêng của mình, không dám đề cập đến các vấn đề có tính chất gọi là “nhạy cảm.” Vì vậy, báo chí Nhà nước dần trở thành các tờ báo “lá cải” để đăng các tin “cướp của, giết người, hãm hiếp...” với mục đích câu khách. Không tờ báo nào dám nói lên hiện tình của đất nước.
Với thực trạng trên cùng với việc xuất hiện Internet, tôi đã chuyển sang viết bài đưa lên các trang web. Đồng thời tôi lập cho mình một số Blog cá nhân. Cũng từ năm 2007, tôi đã đưa lên trang web Diendan, Vietcatholic, Boxitvn, Nhandan... các bài đăng có bút danh là Tô Oanh và Trần Tử Hà. Những bài viết này chủ yếu phản ảnh những thực trạng xã hội. Từ đó, cơ quan an ninh đã đưa tôi vào danh sách theo dõi thường xuyên và vu cho tôi nhận tiền của người nước ngoài, và bị xúi dục để viết bài nói xâu chế độ. Cùng với việc tôi tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, cơ quan an ninh “sách nhiều” tôi nhiều lần, có lần kéo dài 17 ngày liền.
Báo mạng với vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội - Blogger Nguyễn Tường Thụy
Ở Việt Nam, báo chí do Nhà nước quản lý. Sự kiểm duyệt chặt chẽ của Nhà nước đối với báo chí đã cho ra nhiều sản phẩm thiếu trung thực, làm thui chột tài năng của các phóng viên.
Tuy nhiên, sự ra đời và phát triển kỳ diệu của Internet đã sinh ra một hình thức báo chí mới là báo mạng (ở đây không bao gồm những trang điện tử tuyền truyền cho Nhà nước). Mạng lưới blogger đã đưa tới người đọc những thông tin đa chiều, những vấn đề lý luận về tự do, dân chủ, nhân quyền. Do sự lợi hại của Internet, nhiều blogger đã phải trả giá, kể cả đi tù với mức án nặng nề. Nhưng những biện pháp trừng phạt, cấm đoán của nhà cầm quyền đã không hạn chế được sự phát triển mạnh mẽ của báo mạng.
Báo mạng tồn tại dưới các hình thức website, blog, các trang Facebook, có những ưu điểm vượt trội như thông tin kịp thời, nhạy bén, độ tin cậy cao luôn bám sát những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống.
Khi độc giả đang nhàm chán với thông tin một chiều của báo chí Nhà nước thì báo mạng ra đời đã đáp ứng nhu cầu của họ. Báo mạng trở thành đối trọng và là sự thách thức đối với báo chí Nhà nước, thúc đẩy việc phải đổi mới lối viết, cách đưa tin của báo chí Nhà nước.
Trước vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay, tôi cho rằng, Nhà nước cần, nới lỏng kiểm duyệt đối với báo chí. Cần cho phép báo chí tư nhân, đài phát thanh tư nhân hoạt động và được tự do xuất bản. Tuy nhiên về lâu dài, cần phải có một thể chế đa nguyên với tam quyền phân lập mới có thể đảm bảo tự do thực sự cho báo chí cũng như các quyền khác của con người.
Những cái giá phải trả - Phóng viên độc lập Lê Thanh Tùng
Các ký giả và blogger độc lập có tiếng nói đối lập với tiếng nói của nhà cầm quyền, họ dùng ngòi bút của mình để vạch trần các vấn nạn của xã hội. Một số trong số đó đã phải ngồi tù với những bản án nặng nề như: Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Lê Văn Sơn, Trần Minh Nhật, Đặng Xuân Diệu, Tạ Phong Tần, Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Lê Quốc Quân, và nhiều tù nhân khác tôi xin gửi đến quý ngài bản danh sách đính kèm. 
Hơn nữa, khi những con người này đang chịu hình phạt tù thì gia đình của họ củng chịu nhiều áp lực từ phía chính quyền, dẫn đến những hậu quả thương tâm. Nổi bật là trường hợp mẹ của Tạ Phong Tần đã tự thiêu vì thương con ở tù oan sai và sự sách nhiểu của nhà cầm quyền; hay trường hợp Lê Văn Sơn, Sơn đã không được biết chuyện mẹ mình sinh bệnh rồi qua đời.
Những ký giả độc lập và blogger còn lại, mặc dù chưa bị cầm tù, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, họ cũng phải chịu những chuyện sách nhiễu, làm nhục và đánh đập như trường hợp phóng viên Huyền Trang của VRNs đã bị bắt giữ và đánh đập khi tác nghiệp trong một phiên xử những nhà báo tự do hồi năm 2012.
Công an đã xâm phạm gia cư của blogger Nguyễn Tường Thụy một cách bất hợp pháp vào ngày 25/9/2013, đánh đập và bắt người.
Còn đối với tôi, tôi đã bị mất việc do sức ép của cơ quan an ninh đối với công ty tôi đang làm việc, tôi không còn được đi làm kiếm tiền nên gia đình tôi gặp nhiều khó khăn.
Việt Nam Không Được Tự Do Sáng Tác - Nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim Chi
Ở Việt Nam từng có nhiều tác giả gặp rất nhiều hệ lụy khi viết những điều có thật thì lập tức bị người ta dán cho cái nhãn “phản động”. Mà đã là phản động thì mất hết mọi quyền tự do, quyền lợi vật chất và mất hết bạn bè. Sẽ không có tờ báo nào, nhà xuất bản nào dám in tác phẩm, vì lẽ đó người sáng tác phải sống trong hoàn cảnh khốn cùng. Nhiều bạn bè thường không dám gặp gỡ, tiếp xúc vì họ sợ liên lụy. Những văn sỹ, nhạc sỹ trong phong trào “Nhân văn giai phẩm” tại Việt Nam như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Văn Cao,… là tiêu biểu cho những người bị tước đoạt quyền tự do sáng tác. 
Hiện nay sự kiểm duyệt nội dung sáng tác không hề thay đổi mà còn nặng nề hơn. Điển hình như trường hợp nhà thơ Bùi Minh Quốc, ông dám viết những bài thơ nói lên tâm trạng thật thì ông đã bị trừng phạt rất nặng nề: Khai trừ ra khỏi đảng, cúp lương, quản thúc tại gia; công an ngăn cản không cho khách hàng tới mua những con búp bê len của vợ ông làm, hòng đưa gia đình ông vào cảnh khốn cùng.
TÔI QUYẾT ĐỊNH LÊN TIẾNG
Tất cả những nỗi đau của dân oan, sự đàn áp báo chí, sự ngăn cấm những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng đã khiến tôi phải lên tiếng. Tôi đã bị người ta bịa đặt, vu khống đủ điều trên mạng: “Ham đô la, bán rẻ tổ quốc”, “phản động”, “bắt tay với các thế lục thù địch”, “tay sai cho giặc”, họ gọi tôi là “ đồ chó cái”. 
Nhưng tôi không sợ, tôi quyết đi tới cùng với nhân dân của tôi để đấu tranh giành lấy một cuộc sống TỰ DO, BÌNH ĐẲNG, BÁC ÁI, NO ĐỦ, VĂN MINH, KHÔNG CÒN THÙ HẬN.
Tình hình tự do Internet tại Việt Nam và kiến nghị - Blogger Nguyễn Đình Hà
Với internet, chúng ta có một thế giới thông tin thu nhỏ, tại đó mọi người có thể tự do bày tỏ, chia sẻ mọi thứ. Tuy nhiên, tại Việt Nam, theo đánh giá của các tổ chức nhân quyền quốc tế thì những quyền cơ bản đó của người dân lại bị nhà cầm quyền xâm hại, bởi họ muốn kiểm soát, định hướng thông tin và bóp nghẹt mọi luồng thông tin trái ý kiến của nhà cầm quyền hoặc bất lợi cho nhà cầm quyền. 
Điển hình, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 72/2013/NĐ-CP nhằm kiểm soát dịch vụ internet và ngăn cấm người dân chia sẻ thông tin; chính quyền Việt Nam đã bắt và kết tội nhiều người sử dụng các trang mạng xã hội để nói lên quan điểm của mình trong nhiều năm qua bằng các điều luật hình sự mơ hồ. Những điều đó có tác động tiêu cực trong việc phát triển một xã hội minh bạch, làm giảm uy tín của Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế, cũng như ngăn chặn việc đấu tranh chống tham nhũng và các tiêu cực trong xã hội Việt Nam.
Do vậy, chúng tôi xin có kiến nghị như sau đối với Quốc hội Hoa Kỳ:
Quốc hội Hoa kỳ cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm thúc ép chính quyền Việt Nam tôn trọng các cam kết về nhân quyền; dỡ bỏ chế độ kiểm duyệt thông tin; chấm dứt các hành vi phi pháp đối với các nhà báo, những người sử dụng internet (như xâm phạm gia cư bất hợp pháp, chặn đánh, bôi nhọ, tấn công nhiều trang mạng, blog cá nhân); xóa bỏ hoặc sửa đổi các điều luật, các quy định xâm phạm đến quyền tự do báo chí, tự do Internet tại Việt Nam như Điều 88 và 258 Bộ luật hình sự.
Yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ thúc đẩy Việt Nam mở cửa thị trường báo chí, dịch vụ truyền thông.
Hãy Cùng Nhân Dân Lên Tiếng - Nhà báo độc lập Ngô Nhật Đăng
Chỉ vì muốn sống trong sự thật, muốn nói lên sự thật mà nhiều đồng bào của chúng tôi, trong đó có những bạn bè của tôi bị đàn áp, bị gây khó khăn trong việc mưu sinh, bị bắt bớ, bị tù đầy và thậm chí bị thủ tiêu.
Chúng tôi muốn thoát ra khỏi tình trạng đó, chúng tôi muốn được tự do nói lên sự thật. Chúng tôi cũng biết rằng chính phủ Việt Nam đã ký tên vào các Công ước Quốc tế về Quyền con người, trong đó có quyền Tự do ngôn luận và Tự do báo chí.
Chúng tôi tin tưởng rằng với khả năng của mình, quý vị có thể đưa vấn đề về Tự do ngôn luận và Tự do báo chí ở Việt Nam trở thành Nghị quyết của Quốc hội Hoa Kỳ
Chúng tôi cũng đề nghị quý vị đưa ra điều kiện tiên quyết để thực thi các Hiệp định Thương mại với Việt Nam đặc biệt là TPP đó là Nhân quyền và Tự do ngôn luận.
Quý vị hãy giúp đỡ chúng tôi không chỉ với lòng thông cảm mà còn vì lương tâm và trách nhiệm cho một thế giới cần được sống trong hòa bình và phát triển. Xin hãy đứng cùng nhân dân đất nước tôi!
Một nước Việt Nam Dân chủ là điều có lợi cho tất cả chúng ta.
                                                                                                       Oashington, DC
                                                                                                            29/4/2014

Ký ức 30/4: “Con đã vào đến Sài Gòn và… còn sống!”

(ĐSPL) - Khi nhắc lại sự kiện 30/4/1975, Thiếu tướng Nguyễn Xuân Thành, Học viện Quốc phòng, thấy mọi điều như mới xảy ra hôm qua. Tướng Thành kể: Sáng 1/5/1975, việc đầu tiên mà ông làm là viết thư về cho gia đình. Bức thư mở đầu: “Bố mẹ kính yêu, các em xa nhớ! Con đã vào đến Sài Gòn và… còn sống”.
Trưa ngày 30/4/1975 tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn, Đại tướng Dương Văn Minh đã lên đài phát thanh Sài Gòn đọc bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến 1954 – 1975. Việt Nam từ đây lại được thống nhất, non sông thu về một mối. 39 năm qua, những ký ức về sự kiện 30/4 vẫn còn in đậm trong tâm khảm những người đã có mặt vào thời khắc lịch sử ấy. Nhưng cũng 39 năm ấy, họ cũng có những tâm tư, trăn trở…
Việt Cộng rất hiền lành!
Năm 1974, chàng hạ sĩ 20 tuổi Nguyễn Xuân Thành được điều động sang đoàn tiền phương của Tổng cục Kỹ thuật (TCKT), Bộ Quốc phòng, vừa mới thành lập. Ước nguyện ra trận tiền của anh đã thành hiện thực. Trước đó, anh không được ra chiến trường vì lý do sức khỏe. Đoàn tiền phương này bao gồm các sĩ quan, cán bộ gốc miền Nam. Nhiệm vụ của hạ sĩ Thành và nhóm chiến sĩ đi cùng là phải bảo vệ an toàn cho đoàn công tác này. Chiến thắng đã gần kề, và đoàn tiền phương TCKT có nhiệm vụ vào tiếp quản các căn cứ kỹ thuật của vùng giải phóng.
Tướng Nguyễn Xuân Thành kể lại ký ức 30/4/1975.
Ngồi trên xe tải chở đoàn tiền phương, trong tay hạ sĩ Thành lúc nào cũng có một khẩu AK47, 4 băng đạn giắt vào lưng, trên xe còn nhiều hòm đạn, lựu đạn. Xe cắm cờ nửa xanh nửa đỏ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam.
Sáng ngày 30/4, đoàn tiền phương TCKT xuất phát sau các đơn vị chiến đấu, hướng về Sài Gòn. Tướng Thành kể: suốt dọc đường từ Biên Hòa về tới cầu Sài Gòn, hai bên đường, giầy cao cổ, quần áo, mũ sắt và quân trang, quân dụng do binh lính chế độ Sài Gòn bỏ lại nhiều vô số. Dấu vết của các cuộc đụng độ, giao tranh vẫn còn…
Lúc đoàn tiền phương đến cầu Sài Gòn, thì tình hình giao thông tại đây bị tắc nghẽn nghiêm trọng. Một số xe tăng của quân giải phóng bị bắn cháy chắn ngang cầu, hàng ngàn ô-tô đang cố gắng lách qua, chạy ra khỏi thành phố. Tướng Thành nhớ lại: lúc ấy, đoàn tiền phương phải xuống để ủi xe cộ sang một bên, thuyết phục người dân Sài Gòn nhường đường. Người dân Sài Gòn lần đầu tiên thấy bộ đội Việt Cộng, rất ngạc nhiên. Họ nhìn ngó, dò xét. Bộ đội ai cũng lăm lăm khẩu AK47 trong tay, nhưng không hề nổ một phát súng nào. Người dân Sài Gòn thấy bộ đội Việt Cộng hiền lành, không tàn sát dân thường, không tắm máu Sài Gòn như lời tuyên truyền trước đó. Họ bắt đầu lưỡng lự, nửa muốn ra đi, nửa muốn ở lại… Sau khi thuyết phục được người dân Sài Gòn dãn ra, đoàn tiền phương tiếp tục tiến về Dinh Độc Lập.
Quân với dân và lương khô cơm trắng
Tướng Thành kể tiếp: khi vào tới trước Dinh Độc Lập đoàn tiền phương thấy tràn ngập các đơn vị, xe tăng, xe tải, xe thiết giáp. Mọi người đang tập trung cười nói tại đó, không biết sẽ đi đâu nữa, vì đây là điểm cuối cùng. Đoàn tiền phương kéo nhau vào Dinh Độc Lập xem tình hình. Một lúc sau, mọi người ra chỗ bãi cỏ gần cổng ngồi. Tướng Thành khi ấy thấy một nửa đầu rồng gắn ở cánh cửa dinh bị văng ra đang nằm trên đất, rồi một cô phóng viên nước ngoài đang quay phim chụp ảnh nhặt nửa chiếc đầu rồng ấy đút vào túi rết. Tướng Thành quay sang thông báo cho ông phó phòng bảo vệ đoàn kỹ thuật tiền phương. Nhưng vị này bảo: thôi, kệ cô ấy!
Hình ảnh quân giải phóng tại thời điểm tháng 4/1975.
Các đơn vị khác vẫn tiếp tục kéo vào Dinh Độc Lập, bộ đội tập trung rất đông, nên đoàn tiền phương lại ra công viên trước Dinh Độc Lập ngồi.
Khoảng 4h chiều, các đơn vị triển khai nấu cơm. Tướng Thành vẫn nhớ, khi đó, dân Sài Gòn kéo ra rất đông để xem Việt Cộng. Họ muốn xem mặt mũi Việt Cộng ra sao, nấu ăn như thế nào và ăn cái gì. Cơm nấu xong, bộ đội dọn ra ăn. Dân Sài Gòn có người còn xin cơm ăn thử. Có người thấy bộ đội đeo nhiều thứ đàng sau thì hỏi xem có lương khô không, xin một mẩu để ăn cho biết. Bộ đội lại vui vẻ lấy lương khô cho dân.
Có một chi tiết rất sống động mà đến bây giờ Tướng Thành vẫn không thể nào quên được. Đó là hình ảnh những xe thiết giáp có nhiệm vụ bảo đảm mang theo những sọt lợn, sọt gà để khi dừng chân hành quân thì thịt cho bộ đội ăn. Lúc ăn xong bữa cơm chiều ở công viên trước Dinh Độc Lập, bộ đội thả lợn ra, đem cơm thừa đổ vào một cái phướn to, rồi dùng thìa gõ vào những chiếc phướn, gọi lợn đến ăn cơm. Dân Sài Gòn thấy rất lạ và rất phấn khích. Những con lợn này đã quen với việc hành quân, nên khi được thả ra chúng cứ quanh quẩn ở đó với bộ đội, không đi đâu cả.
Đến sẩm tối, mọi người tìm chỗ để mắc võng la liệt. Tuy nhiên, chẳng ai ngủ được, phần vì đây là đêm đầu tiên ở Sài Gòn, phần vì cả ngày đã hành quân căng thẳng.
Bầu trời đêm rực đỏ
Khi mọi người vẫn đang cố tìm giấc ngủ, thì một cô tự vệ Biệt động thành, đội mũ tai bèo, khoác khẩu AK chéo lưng, đi xe máy đến và cầm loa gọi: “Đơn vị tiền phương TCKT ở đâu?”. Đoàn tiền phương giơ tay rồi gọi. Nữ chiến sĩ biệt động thành đến và nói: “Các đồng chí không đóng quân ở đây được, phải vào Bộ tổng tham mưu (BTTM) Việt Nam Cộng hòa (VNCH)”. Đoàn tiền phương lại nổ máy đi theo nữ chiến sĩ.
Nhiệm vụ của đội tiền phương TCKT lần này là tiếp quản chiếc máy tính nhãn hiệu IBM mà BTTM VNCH đang sử dụng, vì đây là phương tiện rất quan trọng. Các cán bộ của đoàn tiền phương TCKT từ trước được đào tạo bằng máy tính của Liên Xô, nên không biết phải vận hành, sử dụng chiếc máy tính IBM thế nào trong khi những nhân viên của BTTM VNCH đã chạy trốn hết.
Quân giải phóng mang theo nồi nấu cơm khi tiến vào Sài Gòn.
Đêm 30-4, vẫn theo lời Tướng Thành, cả đoàn tiền phương không dám ngủ trong các ngôi nhà, vì sợ hầm ngầm bên dưới, và cũng không biết lực lượng còn lại của quân đội Sài Gòn thế nào, không ai thông báo về tình hình lực lượng quân đội Sài Gòn… Đoàn tiền phương phải đóng quân ra những chỗ trống, kéo điện ra ngoài để quan sát. Đêm đó, không ai ngủ được, vì đó là đêm mới giải phóng.
Đạn bắn lên trời như mưa, vì người dân nhặt được nhiều súng AR15 của quân đội Sài Gòn, chưa bao giờ họ được bắn, nên họ bắn lên trời. Thậm chí họ còn nhặt được cả đại liên cũng mang ra bắn. Mỗi băng đạn của đại liên có mấy chục viên và một viên dẫn đường. Khi viên dẫn đường được bắn lên, ánh sáng của nó phát ra đỏ lừ một khoảng trời. Pháo sáng cũng được bắn lên như chào mừng một giai đoạn mới. Cả đoàn tiền phương nằm ở BTTM và vẫn phải đội mũ cối để tránh đầu đạn rơi xuống.
Tất cả mọi người đều có một cảm giác rất lạ…
Sáng hôm sau, việc đầu tiên Tướng Thành làm là viết thư về cho bố mẹ. Bức thư mở đầu: Sài Gòn ngày 1-5-1975. Bố mẹ kính yêu, các em xa nhớ! Con đã vào đến Sài Gòn rồi và vẫn còn sống!
Bộ đội đi chợ tại Sài Gòn sau ngày 30/4/1975.
Hồi đó, bất cứ thư nào của Quân giải phóng miền Nam VN, đem ra trạm quân bưu ở Nhà thờ Đức Bà gửi về miền Bắc là được chuyển bằng cầu hàng không giữa Tân Sơn Nhất và Gia Lâm. Các loại máy bay C130, AN hoạt động rất nhộn nhịp và thư của bộ đội được ưu tiên chuyển nhanh nhất.
Những ngày sau đó, mọi hoạt động của SG vẫn diễn ra bình thường. Bộ đội từng tốp đi ra chợ Bến Thành mua đồ, gặp gỡ người dân, thăm thú các nơi…
Hòa hợp hòa giải là điều quan trọng
Theo Thiếu tướng Nguyễn Xuân Thành, do cuộc chiến kéo dài ác liệt, vết thương của dân tộc cần phải có thêm thời gian để được xoa dịu, hàn gắn. Là một nhà nghiên cứu triết học, Tướng Thành giải thích: theo mô hình phát triển của Hegel, mọi sự vật, hiện tượng đều vận động phát triển theo hình xoắn ốc. Sự phát triển này phản ánh tính chất phức tạp và đa diện của cuộc sống. Và sự hòa hợp, hòa giải cũng không nằm ngoài quy luật này. Từ 30/4/1975 đến nay, chúng ta cũng đã có những chính sách, việc làm để hàn gắn vết thương trong quá khứ, hướng đến sự hòa hợp, hòa giải đích thực.
Có những giai đoạn đất nước ta trải qua khó khăn, gian khó về kinh tế và tư duy phát triển. Điều đó cũng làm cho tiến trình hòa hợp hòa giải còn chưa được như mong muốn.
Dân tộc VN là một, đất nước VN là một, và bất cứ ai có dòng máu “con Lạc cháu Hồng” có lòng với quê hương, với xứ sở tươi đẹp đều nhận thấy rằng, sự hòa giải, hòa hợp là thực sự cần thiết cho đất nước VN phát triển, hùng cường. Quan trọng hơn hết, sự hòa hợp hòa giải này cần phải xuất phát từ cả hai phía.
                                                                                                                                  CHÂN LUẬN

Trang